Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Nghiên cứu gian lận báo các tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.3 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
Nghiên cứu gian lận báo cáo tài chính của doanh nghiệp
trong thẩm định tín dụng
Môn học: Nghiệp vụ ngân hàng thương mại
Lớp: Ngân hàng Đêm 1 – Khóa 22
GVHD: PGS. TS. Trầm Thị Xuân Hương
Danh sách thành viên:
• Nguyễn Thị Nhật Vy
• Phạm Thành Đạt
• Vương Thị Thùy Linh
• Triệu Quốc Phú
1
MỤC LỤC
2
MỞ BÀI
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng cao nhất, cũng là hoạt động mang lại
nguồn thu lớn nhất của ngân hàng. Vấn đề lo ngại nhất của ngân hàng thương mại khi cho
vay là rủi ro nợ xấu luôn có khả năng xảy ra, nhất là trong thời kỳ mà nợ xấu của các ngân
hàng đang ở mức báo động. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất
làm giảm thu nhập, gây thiệt hại về tài chính cũng như uy tín của cả ngân hàng cũng như
doanh nghiệp. Chính vì vậy, vấn đề chất lượng thẩm định tín dụng luôn là vấn đề quan tâm
hàng đầu của các ngân hàng.
Trước khi tiến hành thẩm định tài chính doanh nghiệp, ngân hàng phải tiến hành
thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp. Đây là yếu tố
quyết định đến chất lượng thẩm định tín dụng. Một báo cáo tài chính sẽ trở nên vô nghĩa với
ngân hàng khi nó được “làm đẹp” và phản ánh không chính xác tình hình tài chính thực tế
của doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra chính là các gian lận đó là gì và làm sao để phát hiện ra những gian lận
đó trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp? Các mánh khóe gian lận có thể không dễ bị
phát hiện, vì đó là gian lận các con số và không có sự mất mát tài sản hữu hình. Thậm chí,


trong nhiều trường hợp, khó có thể đánh giá cách hạch toán đó là đúng hay sai. Vì vậy,
Nhóm 2 xin trình bày đề tài “Nghiên cứu gian lận báo cáo tài chính của doanh nghiệp
trong thẩm định tín dụng” để phần nào làm rõ hơn về điều này.
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH TRONG THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG
1.1 Gian lận là gì?
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (VAS 240), gian lận là những hành vi cố ý là
sai lệch thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban
Giám đốc, các nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính.
Thông thường, gian lận phát sinh khi hội đủ các yếu tố sau:
- Một cá nhân hay một tổ chức cố ý trình bày sai một yếu tố hay sự kiện quan trọng.
- Việc trình bày sai này sẽ làm cho người bị hại tin vào đó (người bị hại có thể là cá
nhân hay tổ chức).
- Người bị hại dựa vào và ra các quyết định trên cơ sở sự trình bày sai này.
- Người bị hại chịu các khoản lỗ về tiền, tài sản… do việc dựa trên sự trình bày sai
này.
Gian lận có thể mang lại lợi ích cho cá nhân hay tổ chức. Khi cá nhân thực hiện gian
lận, lợi ích có thể là trực tiếp (như nhận tiền hay tài sản), hay gián tiếp (có ảnh hưởng nào đó,
tăng quyền lực, sự đền ơn, tiền thưởng…). Khi tổ chức (thường là nhân viên hành động trên
tư cách tổ chức) thực hiện gian lận thì lợi ích thu được thường là trực tiếp dưới hình thức thu
nhập của công ty tăng lên.
1.2 Báo cáo tài chính:
1.2.1 Báo cáo tài chính là gì?
Báo cáo tài chính là các báo cáo kế toán cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình
hình kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp đáp ứng các cầu cho những người sử
dụng chúng trong việc đưa ra các quyết định về kinh tế.
Báo cáo tài chính được lập theo chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán dùng để tổng
hợp và thuyết minh về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.
4

1.2.2 Hệ thống báo cáo tài chính:
1.2.2.1 Hệ thống BCTC của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn
vị sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm:
- Bảng cân đối tài khoản;
- Báo cáo thu, chi;
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính;
- Các báo cáo khác theo quy định tại pháp luật.
1.2.2.2 Hệ thống BCTC của đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh doanh gồm:
- Bảng cân đối kế toán;
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh;
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ;
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính
1.2.2.3 Vai trò, chức năng của từng loại báo cáo trong nghiên cứu BCTC:
• Bảng cân đối kế toán (balance sheet - BS):
Là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính của đơn vị tại những thời điểm nhất
định dưới hình thái tiền tệ. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với
mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán phản ánh hai nội dung cơ bản là nguồn vốn tài sản. Nguồn vốn
phản ánh nguồn vốn được huy động vào sản xuất kinh doanh. Về mặt pháp lý, nguồn vốn
cho thấy trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước,
số tài sản đã hình thành bằng nguồn vốn vay ngân hàng, vay đối tượng khác, cũng như trách
nhiệm phải thanh toán với người người lao động, cổ đông, nhà cung cấp, trái chủ, ngân
sách Phần tài sản phản ánh quy mô và cơ cấu các lọai tài sản hiện có đến thời điểm lập báo
cáo thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp, năng lực và trình độ sử dụng tài sản. Về
mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu
dài, gắn với mục đích thu được các khoản lợi nhuận.
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích nghiên
cứu đánh giá một cách khái quát tình hình và kết quả kinh doanh, khả năng cân bằng tài
chính, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.

• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Profit & Loss – PL):
5
Là báo cáo tài chính tổng hợp cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp trong
từng thời kỳ nhất định, phản ánh tóm lược các khoản doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo từng
hoạt động kinh doanh: sản xuất kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường. Bên cạnh
đó, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà
nước của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
Dựa vào số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm
tra, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, so sánh với
kỳ trước và với doanh nghiệp khác để nhận biết khái quát hoạt đọng trong kỳ và xu hướng
vận động.
Đối với các trường hợp doanh nghiệp đã đi vào giai đoạn phát triển ổn định, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh là một yếu tố quan trọng cho người xử dụng biết được tình
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp một cách rõ ràng nhất, cung cấp nhiều nhất các
thông tin về hướng phát triển trong quá khứ nhằm đưa ra được dự báo tăng trưởng cho tương
lai. Do vậy khi phân tích báo cáo tài chính, đây là phần nên được phân tích thận trọng và cẩn
thận nhất.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Được lập để trả lời những câu hỏi liên quan đến luồng tiền ra vào trong doanh nghiệp,
tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về những luồng vào, ra của tiền
và tương đương tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng
và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những
sự thay đổi về lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và những khoản coi như tiền được tổng
hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt
động đầu tư, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lập theo phương pháp trực tiếp,
gián tiếp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, ta có thể phân tích được tính thanh khoản thực
tế của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo, cũng như những nguồn tiền đóng góp cho sự
thanh khoản đó và những dòng chi phí mà doanh nghiệp cần chú ý để khống chế tính thanh

khoản của doanh nghiệp mình.
6
• Thuyết minh báo cáo tài chính:
Nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống
các báo cáo tài chính, đồng thời giải thích một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính
chưa được trình bày, giải thích thêm một cách cụ thể, rõ ràng.
Trong quá trình phân tích báo cáo tài chính, thuyết minh báo cáo tài chính là phần dễ
bị bỏ qua, nhưng lại mang nhiều thông tin quan trọng cho từng hoạt động cụ thể của doanh
nghiệp trong kỳ.
Các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi sự
thay đổi của một chỉ tiêu trong báo cáo này trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến các báo
cáo kia, trình tự đọc hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó họ nhận biết được và tập trung
vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ.
1.2.3 Nguyên nhân gian lận BCTC:
Gian lận là các hành vi bất thường và phi pháp mang chủ ý lừa dối, hay đưa
thông tin thiếu chính xác mà cá nhân đó biết rõ là sai hoặc tin là không đúng. Người có hành
vi gian lận biết rõ hành vi đó có thể đem lại lợi ích bất hợp pháp cho cá nhân hoặc tổ chức
nào đó. Gian lận có thể do người bên trong hoặc bên ngoài tổ chức thực hiện.
Trên góc độ kiểm toán báo cáo tài chính, gian lận là những hành vi cố ý làm sai lệch thông
tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các
nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
Mục đích chính của việc gian lận báo cáo tài chính là che dấu tình hình tài chính thực (thể
hiện tình hình kinh doanh tốt hơn thực tế hoặc cho dấu lợi nhuận thực tế), một số hoạt động
của công ty đối với những người sử dụng báo cáo tài chính (các giao dịch nội bộ, giao dịch
ngầm với các đối tác )
Áp lực hoặc lợi ích là lý do để một cá nhân hay doanh nghiệp thực hiện hành vi gian lận.
• Một số nguyên nhân dẫn đến hành vi gian lận BCTC thường gặp:
- Áp lực mất các lợi ích kinh tế, hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra cũng như duy trì xu hướng
phát triển tốt của công ty trước các cổ đông, chủ sở hữu cũng như công chúng. Đây cũng là
nguyên nhân có thể gây ra thiệt hại lớn đến chủ sở hữu công ty, do những hoạt động kinh

doanh không thành công, gây thiệt hại lớn đã được giấu đi và thay vào những thành tích tốt.
7
Lợi ích có thể là khoản tiền thưởng hoặc phần thưởng về tài chính dựa trên mức độ hoàn
thành chỉ tiêu tài chính của công ty hoặc bộ phận (ví dụ: tăng trưởng doanh thu, giá
cổ phiếu) hay là giảm gánh nặng thuế, tăng lợi nhuận; Phân chia phí dịch vụ hoặc chia hoa
hồng… Việc một công ty gian lận tài chính nhằm thu hút đầu tư bên ngoài và chuyển những
lợi ích cho một số cá nhân của công ty cũng là một hành vi thường thấy trong các vụ cố ý
gian lận nhầm lừa đảo.
- Làm giảm gánh nặng thuế của doanh nghiệp. Thực chất nguyên nhân này nhằm đem
lại nhiều lợi ích hơn cho người sở hữu công ty cùng các cá nhân liên quan đến công ty chứ
không nhằm mục đích gây thiệt hại cho những cá nhân này. Nhưng việc qua mặt này có thể
gây ra hậu quả lớn hơn nhiều khi bị phát hiện bởi các cơ quan nhà nước, về cả phương diện
kinh tế lẫn lợi ích của công ty.
- “Làm đẹp” tình hình sản xuất kinh doanh, mở ra một triển vọng đạt kết quả hoạt
động tốt… nhằm mục đích vay vốn từ các chủ nợ (ngân hàng, cá nhân cho vay).
- Ngoài những mục đích có ảnh hưởng xấu nói trên, đôi khi nhà quản trị công ty cũng thực
hiện một số gian lận trên báo cáo tài chính nhằm đem lại kết quả tốt cho công ty mình. Đứng
về góc độ tác động tích cực, những bản Báo cáo tài chính bị làm thay đổi với động cơ tích
cực, thực sự phát huy tác dụng của mình cho doanh nghiệp khi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của công ty, nâng cao lợi nhuận theo kế hoạch, đảm bảo một số hệ tài chính mà công ty
đặt ra. Như vậy, việc phù phép tài chính lúc này trở thành công cụ can thiệp hữu hiệu vào các
số liệu tài chính không chỉ cho các nhà lãnh đạo và các NĐT. Ngoài ra, việc công bố rõ ràng
và đầy đủ các thông tin về tình hình tài chính cũng như hoạt động của công ty nhiều khi lại
tạo điều kiện cho các đối thủ cạnh tranh nắm được hoạt động của công ty. Điều này gây bất
lợi cho dự án đầu tư và có thể gây thua lỗ cho dự án. Còn nếu chỉ khai báo chung chung thì
sẽ không tạo ra niềm tin đối với các NĐT, như vậy, cũng bất lợi về nguồn vốn đầu tư cho
công ty. Phương án này sẽ làm cho công ty bị mất một khoản lợi nhuận tương đối, tưc chi phí
cơ hội của lựa chọn này khá cao. Do vậy, lựa chọn phương án phù phép Báo cáo tài chính là
lựa chọn tối ưu.
Từ những nguyên nhân đã trình bày ở trên, có thể thấy được việc gian lận báo cáo tài chính

có thể gây ra những thiệt hại lớn cho các cá nhân sở hữu công ty cũng như những người đầu
tư vào sự phát triển của công ty. Nhưng việc vận dụng sự thay đổi một số thông tin trên báo
cáo tài chính một các phù hợp cũng sẽ mang lại lợi ích cho công ty và các cá nhân liên quan.
8
1.2.4 Các dạng gian lận tài chính thường gặp:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: gian lận thường tập trung ở mảng chi phí. Các công chức
lợi dụng chức quyền, để tham ô tiền của nhà nước hay để sử dụng cho cá nhân nên gian lận
thường thông qua hình thức khai khống chi phí hay hợp thức hoá các chứng từ giả mạo để
đưa vào chi phí hợp lý hợp lệ.
- Trong ngành xây dựng cơ bản: Gian lận tiến hành phổ biến thông qua các việc cố ý không
tuân thủ̉ thiết kế ban đầu nhằm giảm bớt chi phí thi công; các bên thông đồng trong công tác
khảo sát thiết kế - nghiệm thu công trình để phân chia khoản chênh lệch thu được.
- Với các công ty cổ phần có niêm yết trên thị trường chứng khoán: gian lận thường xảy ra
theo chiều hướng khai khống doanh thu và thu nhập, ghi giảm chi phí và công nợ nhằm khai
khống lợi nhuận, làm đẹp tình hình kinh doanh của công ty và thu hút nhà đầu tư trong việc
mua cổ phiếu; hay tăng giá cổ phiếu.
- Các doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn: Gian lận thường xuất hiện
trong việc khai báo thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, khai khống chi phí
và giấu doanh thu nhằm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Gian lận còn được thực
hiện qua việc thông đồng với đối tác nước ngoài lập hồ sơ xuất khẩu hàng giả mạo theo
đường tiểu ngạch nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng của nhà nước.
- Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài: Gian lận thường là khai thiếu chi phí và công nợ hay
chuyển chi phí - công nợ của thời kỳ này sang kỳ kế toán kế tiếp hoặc khai khống doanh thu
để đạt được mục tiêu mà công ty mẹ đặt ra. Ngược lại, nếu công ty tập trung vào vấn đề giảm
thiểu thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thì khai khống chi phí, công nợ và ghi giảm
doanh thu.
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TRONG THẨM ĐỊNH TÍNH DỤNG
2.1 Mục tiêu của việc phân tích BCTC:
Báo cáo tài chính (BCTC) rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn

thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. BCTC không những
cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo mà còn cho thấy
những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong hoàn cảnh đó.
9
Có hai mục tiêu chính trong phân tích BCTC:
- Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu
được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là kiểm tra, xem xét, đối chiếu, so sánh
các số liệu về tài sản, công nợ, nguồn vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết
định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương
lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc
tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật
phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính
tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa
ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Phân tích BCTC là quá trình BCTC của doanh nghiệp được nhiều đối tượng quan tâm
như chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp. Khách hàng, hội đồng
quản trị, các cổ đông, người lao động v.v Mỗi đối tượng quan tâm đến BCTC ở một góc độ
khác nhau.
- Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp: mối quan tâm hàng đầu
của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ để đảm bảo sự tồn tại và phát triển doanh
nghiệp. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến các mục tiêu khác như tạo
công ăn việc làm nâng cao chất lượng sản phẩm, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi
trường v.v Điều đó chỉ thực hiện được khi kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ nần.
Đối với các chủ ngân hàng, những người cho vay, mối quan tâm của họ chủ yếu
hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, quan tâm đến báo cáo tài chính của
doanh nghiệp họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền tạo ra và các tài sản có thể chuyển đối
nhanh thành tiền. Ngoài ra, họ còn quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu để đảm bảo
chắc chắn rằng các khoản vay có thể và sẽ được thanh toán khi đến hạn.
- Đối với các nhà đầu tư, sự quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như rủi ro, thời

gian hoàn vốn, mức tăng trưởng, khả năng thanh toán vốn v.v Vì vậy họ để ý đến báo cáo
tài chính là để tìm hiểu những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả
kinh doanh, khả năng sinh lời hiện tại và tương lai
- Đối với nhà cung cấp họ phải quyết định xem có cho phép doanh nghiệp sắp tới có
được mua hàng chịu hay không. Vì vậy họ phải biết được khả năng thanh toán của doanh
nghiệp hiện tại và thời gian sắp tới.
10
- Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, các cổ đông, người lao động
mối quan tâm cũng giống như các đối tượng kể trên ở góc độ này hay góc độ khác.
2.2 Các bước phân tích báo cáo tài chính:
2.2.1 Phân tích tình hình hoạt động
Nội dung phân tích: Xem xét đánh giá sự thay đổi giữa đầu kỳ so với cuối kỳ, đầu
năm so với cuối năm, năm này so với năm khác để xác định tình hình tăng giảm vốn trong
doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự tăng giảm của tổng tài sản và tổng nguồn vốn
của doanh nghiệp thì chưa thể thấy rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải
phân tích mối quan hệ giữa các khoản mục của bảng cân đối kế toán dựa trên quan điểm luân
chuyển vốn trong doanh nghiệp. Cụ thể, chúng ta có thể phân tích thông qua các tiêu chí sau:
• Phân tích cơ cấu tài sản: Xem xét từng khoản mục tài sản của doanh nghiệp trong tổng số để
thấy được mức độ đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ từng loại
hình kinh doanh để xem xét tỷ trọng của từng tài sản chiếm trong tổng số là cao hay thấp. Đồng
thời với việc phân tích cơ cấu tài sản, cần xem xét tình hình biến động của các khoản mục tài
sản cụ thể. Qua đó, đánh giá sự hợp lý của sự biến động.
• Phân tích cơ cấu vốn – chi phí vốn:
Cơ cấu vốn là thuật ngữ phản ánh việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác
nhau với một tỷ lệ nào đó cuả mỗi nguồn tài trợ cho tổng số tài sản.
Chi phí vốn là chi phí trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Nói cách khác, chi phí
vốn là giá của việc sử dụng vốn.
Đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp, cũng như mức độ tự
chủ, chủ động trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu.
Đối với nguồn hình thành tài sản, cần xem xét tỷ trọng từng loại chiếm trong tổng số

cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao
trong tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp có đủ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và
mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ (ngân hàng, nhà cung cấp ) cao. Ngược
lại, nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng nguồn vốn (kể cả về số tương đối và số
tuyệt đối) thì khả năng đảm bảo về mặt tài chính sẽ thấp .
11
• Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh:
Để đảm bảo có đủ tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh, DN cần phải tập hợp
các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động nguồn vốn. Nhu cầu vốn của DN tại bất
cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng số tài sản DN cần phải có để đảm bảo cho hoạt động
sản xuất kinh doanh. Có thể phân nguồn vốn (nguồn tài trợ) thành hai loại:
Nguồn tài trợ thường xuyên (nguồn tài trợ dài hạn): là nguồn mà DN được sử dụng
thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn
vốn vay- nợ dài hạn, trung hạn (trừ nợ quá hạn).
Nguồn tài trợ tạm thời (nguồn vốn ngắn hạn): là nguồn mà DN tạm thời được sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn. Thuộc nguồn tài trợ
tạm thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay- nợ quá hạn (kể cả
vay- nợ dài hạn), các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người mua, người bán và cán bộ
công nhân viên chức.
Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cần tính ra và so
sánh tổng nhu cầu về tài sản (TSLĐ, TSCĐ) với nguồn vốn chủ sở hữu iện có và nguồn vốn
vay-nợ dài hạn. Nếu tổng số nguồn có đủ hoặc lớn hơn tổng số nhu cầu về tài sản thì DN cần
sử dụng số thừa này một cách hợp lý, tránh bị chiếm dụng. Ngược lại, khi nguồn vốn không
đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì DN cần phải có biện pháp để huy động và sử dụng phù
hợp, tránh bị chiếm dụng bất hợp pháp.
• Phân tích tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp:
Trong phân tích tình hình lợi nhuận của DN, ta có thể thực hiện thành hai phần: phân
tích xu hướng tăng trưởng của lợi nhuận và tính ổn định của tăng trưởng; phân tích cơ cấu lợi
nhuận qua các thời kỳ
o Phân tích xu hướng tăng trưởng lợi nhuận:

Để thực hiện phần phân tích này, ta cần báo cáo kết quả kinh doanh của DN trong
nhiều kỳ, thời gian cách nhau giữa các kỳ báo cáo càng nhỏ càng tốt (báo cáo hàng năm,
hàng quý, hàng tháng). Việc có chi tiết các báo cáo lợi nhuận qua từng kỳ có thể cho người
phân tích một cái nhìn bao quát và chi tiết hơn về mức độ phát triển lợi nhuận, chu kỳ lợi
nhuận cũng như các vấn đề liên quan của DN.
o Phân tích cơ cấu lợi nhuận:
12
Đây là phần có ý nghĩa quan trọng nhưng thường hay bị bỏ qua. Việc DN kiếm được
lợi nhuận tốt trong kỳ báo cáo không có nghĩa là công việc kinh doanh của doanh nghiệp
đang thực sự tốt. Để đảm bảo được xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp, nguồn lợi
nhuận chính nên có từ các hoạt động kinh doanh chủ yếu của DN, chứ không phải các hoạt
động phụ bên ngoài. Việc phân tích này cũng cho ta thấy được những dấu hiệu về các hoạt
động tác động đến báo cáo tài chính của DN.
- Lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ: Là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh hàng hóa dịch vụ được hình thành từ việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của
doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này được ghi trong quyết định thành lập DN. Bộ phận lợi nhuận
này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của DN.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, các
DN còn có thể tham gia vào hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động tài chính là hoạt động đầu
tư vốn ra bên ngoài DN.
- Thu nhập từ các hoạt động đầu tư khác: được hình thành từ những nguồn bất thường khác ngoài
các hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động đầu tư tài chính, là số chênh lệch giữa các
khoản thu nhập khác và các khoản chi phí khác ngoài dự tính của DN. Những khoản lãi này phát
sinh không thường xuyên, DN không dự kiến trước được nhưng ít có khả năng thực hiện.
2.2.2 Phân tích và đánh giá các chỉ số tài chính
2.2.2.1 Nhóm các chỉ số phản ánh khả năng thanh toán
• Khả năng thanh toán hiện hành:

Theo một số tài liệu nước ngoài, khả năng thanh toán hiện hành sẽ trong khoảng từ 1-
> 2.

Tỷ số thanh toán hiện hành >1 tức là tài sản lưu động > Nợ ngắn hạn, lúc này các tài
sản ngắn hạn sẵn có lớn hơn những nhu cầu ngắn hạn, vì thế tình hình tài chính của doanh
nghiệp là lành mạnh ít nhất trong thời gian ngắn.
Thêm nữa, do tài sản lưu động > Nợ ngắn hạn nên tài sản cố định < Nợ dài hạn + Vốn
chủ sở hữu, và như vậy các nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp không những đủ tài trợ cho
tài sản cố định mà còn được dùng để tài trợ cho lưu động.
13
Tỷ số thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động/nợ ngắn hạn
Trường hợp tỷ số thanh toán hiện hành < 1 tức là tài sản lưu động < Nợ ngắn hạn, lúc
này các tài sản ngắn hạn sẵn có nhỏ hơn nhu cầu ngắn hạn, vì thế doanh nghiệp có khả năng
không trả hết các khoản nợ ngắn hạn đúng hạn.
Thêm nữa, do tài sản lưu động < Nợ ngắn hạn nên tài sản cố định > Nợ dài hạn + Vốn
chủ sở hữu, và như vậy doanh nghiệp đang phải dùng các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ tài
sản dài hạn, đang bị mất cân đối tài chính.
Tuy nhiên phân tích tỷ số chỉ mang tính thời điểm, không phản ánh được cả một thời
kỳ, một giai đoạn hoạt động của doanh nghiệp, vì thế các tỷ số này phải được xem xét liên
tục và phải xác định nguyên nhân gây ra kết quả đó như từ hoạt động kinh doanh, môi trường
kinh tế, yếu kém trong tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, các nguyên nhân, yếu tố trên
mang tính tạm thời hay dài hạn, khả năng khắc phục của doanh nghiệp, biện pháp khắc phục
có khả thi hay không?
Một vấn đề nữa khi đánh giá khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp qua phân tích
tỷ số là phải loại bỏ các khoản phải thu khó đòi, các khoản tồn kho chậm luân chuyển trong
tài sản lưu động của doanh nghiệp. Và như vậy, hệ số thanh toán nhanh tăng không có nghĩa
là khả năng thanh toán của doanh nghiệp được cải thiện nếu chúng ta chưa loại bỏ các khoản
phải thu khó đòi, tồn kho chậm luân chuyển khi tính toán.
• Khả năng thanh toán nhanh:
Tỷ số này thường > 0,5 là chấp nhận được
Việc loại bỏ hàng tồn kho khi tính toán khả năng thanh toán nhanh là do hàng tồn kho
sẽ phải mất thời gian hơn để chuyển chúng thành tiền mặt hơn các khoản mục tài sản lưu
động khác.

Tương tự như tỷ số thanh toán hiện hành, việc xem xét tỷ số thanh toán nhanh cũng
phải xem xét đến các khoản phải thu khó đòi để đảm bảo đánh giá khả năng thanh toán nợ
của doanh nghiệp một cách chính xác nhất.
• Khả năng thanh toán tức thời:
14
Tỷ số thanh toán nhanh = (Tiền mặt + TSLĐ khác + Phải thu)/Nợ

ngắn hạn
Tỷ số thanh toán tức thời = (Tiền và các khoản tương đương

tiền)/Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp một cách hữu hiệu nhất phải
nói đến là hệ số thanh toán tức thời, nó cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tiền
và chứng khoán dễ bán của doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu ưu tiên hàng đầu cần đánh giá khi
xem xét cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn cho doanh nghiệp. Việc đánh giá tỷ lệ thanh
toán tức thời này là khác nhau dựa trên đặc trừng từng doanh nghiệp, nhưng thấp nhất thì tỷ
số này cũng không nên nhỏ hơn 0,1.
• Khả năng thanh toán dài hạn:
Để đánh giá khả năng này ta cần dựa trên năng lực tài sản cố định hình thành từ vốn
vay và mức trích khấu hao cơ bản hàng năm, xem xét xem mức trích khấu hao cơ bản hàng
năm có đủ trả nợ các khoản vay dài hạn đến hạn trả không.
Hệ số này < 1 chứng tỏ dòng tiền hàng năm tại thời điểm hiện tại của doanh nghiệp
không đủ trích trả nợ các khoản vay trung dài hạn đến hạn trả và doanh nghiệp có khả năng
không trả nợ đúng hạn và phải sử dụng các nguồn bổ sung khác để trả nợ.
2.2.2.2 Nhóm các chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động:
• Vòng quay các khoản phải thu khách hàng và kỳ thu tiền bình quân:
Tỷ số này cho biết thời gian chậm trả trung bình các khoản phải thu hoặc thời gian
trung bình để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt
Thời gian thu hồi công nợ ngắn có thể cung cấp những thông tin sau:
o Chính sách tín dụng bán trả chậm cho khách hàng của doanh nghiệp quá khắt khe: Điều này sẽ

làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt khi mà doanh nghiệp không phải là
doanh nghiệp lớn, hoạt động lâu dài, có thị phần lớn.
o Việc thu hồi công nợ của doanh nghiêp rất hiệu quả: tìm hiểu thêm về cách thức thu hồi công nợ
của công ty.
o Khả năng sinh lời và điều kiện tài chính của khách hàng tốt: Liên hệ với tỷ suất sinh lời, tốc độ
tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận để kết luận.
o Doanh nghiệp chỉ hoặc thường bán hàng trả ngay bằng tiền mặt: xem xét loại hình kinh doanh
và phương thức bán hàng, mạng lưới phân phối của công ty.
15
Hệ số thanh toán nợ dài hạn = Dòng tiền thuần sau thuế/(Vốn

vay đầu tư đến hạn trong năm tới)
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu/(phải thu khách hàng
bình quân đầu kỳ + cuối kỳ)
Kỳ thu tiền bình quân = 12 tháng/ vòng quay các khoản phải thu
Thời gian thu hồi công nợ dài có thể cung cấp những thông tin sau:
o Chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp là dễ dàng: xem xét cụ thể thị trường của hàng
hoá doanh nghiệp đang kinh doanh, nếu doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường thì chính sách
bán hàng linh hoạt là hợp lý. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp đang có thị phần vững chắc, khi thay
đổi về chính sách bán hàng phải xem xét cụ thể khả năng cạnh tranh của khách hàng, các biến
động về giá cả, chất lượng của hàng hoá khách hàng đang kinh doanh, tốc độ tăng trưởng doanh
thu, lợi nhuận, khả năng bán hàng, tình hình tài chính và định hướng kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như xem xét tình hình tài chính của bạn hàng, các phát sinh phải thu chi tiết, tuổi
nợ các khoản phải thu để xác định lý do thực chất của việc thay đổi chính sách bán hàng.
o Việc thu hồi công nợ của doanh nghiệp không hiệu quả: tìm hiểu về cách thức thu hồi công nợ
của công ty để có hướng tư vấn kịp thời.
• Vòng quay hàng tồn kho và thời gian tồn kho bình quân:
Tỷ số này cho biết doanh nghiệp lưu hàng tồn kho, gồm có nguyên vật liệu và hàng
hoá trong bao nhiêu tháng. Để duy trì hoạt động kinh doanh thì hàng hoá cần phải trữ ở một
số lượng cần thiết nào đó. Tuy nhiên, lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc

vốn sử dụng kém hiệu quả (dòng tiền sẽ giảm đi do vốn kém hoạt động và như vậy lãi vay sẽ
tăng lên). Điều này làm tăng chi phí lưu giữ hàng tồn kho và tăng rủi ro khó tiêu thụ hàng tồn
kho này do có thể không hợp nhu cầu tiêu dùng cũng như thị trường kém đi. Do vậy tỷ số
này cần xem xét để xác định thời gian tồn kho có hợp lý theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và mức độ bình quân chung của ngành cũng như mức tồn kho hợp lý đảm bảo
cung cấp được bình thường.
• Vòng quay vốn lưu động và số ngày hoàn thành chu kỳ kinh doanh:
Vòng quay vốn lưu động xác định số ngày hoàn thành 1 chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp.
Vòng quay vốn lưu động quá thấp chứng tỏ khả năng thu hồi tiền hàng, khả năng luân
chuyển hàng hoá thấp, luân chuyển vốn chậm nên chi phí về vốn tăng lên làm giảm hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
16
Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn / Hàng tồn kho bình quân
Thời gian tồn kho bình quân = 12 tháng / vòng quay hàng tồn
Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu / Vốn lưu động bình
Vòng quay vốn lưu động khác nhau đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong các
lĩnh vực khác nhau, ví dụ vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp kinh doanh thương
mại bao giờ cũng phải cao hơn vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng cơ bản.
Khi xem xét vòng quay vốn lưu động của 1 doanh nghiệp, cần so sánh với mức bình
quân chung của ngành cũng như các chính sách bán hàng, tiêu thụ hàng của doanh nghiệp để
kết luận chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp là ở mức bình thường, tốt hay không tốt.
Đặc biệt, đối với mặt hàng kinh doanh có tính thời điểm, mùa vụ cao thì việc xác định
vòng quay vốn lưu động thực chất khi tính toán hạn mức tín dụng cho khách hàng còn cần
phải dựa vào các hợp đồng mua bán hàng hoá, thời gian tồn kho thực tế của khách hàng
• Vòng quay khoản phải trả và kỳ trả nợ bình quân:
Vòng quay phải trả và số ngày phải hoàn trả nợ là chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của
doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Đối lập với vòng quay phải thu và hàng tồn kho có xu hướng càng tăng càng tốt thì

đối với các doanh nghiệp càng được chậm trả nợ càng tốt nên họ rất muốn kéo dài thời gian
hoàn trả nợ dẫn đến vòng quay phải trả thấp. Vòng quay phải trả thấp, số ngày hoàn trả nợ
kéo dài có thể là dấu hiệu cho thấy công ty rất có uy tín và là khách hàng tốt của nhà cung
cấp nên được cho chậm trả, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy khách hàng đang khó trả
các khoản nợ đến hạn. Để khẳng định được khả năng thanh toán nợ của khách hàng cần phân
tích chi tiết các khoản phải trả, các khách hàng cho nợ, doanh số phát sinh nợ có và tuổi nợ
các khoản phải trả, đối chiếu với hợp đồng mua hàng, xem xét tốc độ tăng trưởng doanh thu,
lợi nhuận, khả năng thu hổi công nợ … để có kết luận về việc vòng quay phải trả thấp là do
khách hàng được cho chậm trả hay do khách hàng kinh doanh yếu kém mất khả năng thanh
toán các khoản nợ.
• Chỉ số phản ánh hiệu quả tài sản cố định:
Hiệu quả tài sản cố định được đánh giá qua 2 chỉ tiêu sau:
o Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Doanh thu/Giá trị xuất tài sản cố định
o Suất sinh lợi xuất tài sản cố định: Lợi nhuận sau thuế/giá trị xuất tài sản cố định
17
Vòng quay khoản phải trả = giá vốn / khoản phải trả bình quân
Số ngày phải hoàn trả nợ = 12 tháng / vòng quay khoản phải trả
Về nguyên tắc, các tỷ số càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng càng tốt. Tuy nhiên việc
phân tích các tỷ số hiệu quả tài sản cố định không chỉ dừng lại ở 2 kết quả trên mà vấn đề là
phải xác định được cấu trúc của các tỷ số đó.
Đối với doanh nghiệp vừa kinh doanh thương mại vừa sản xuất công nghiệp, hoạt
động thương mại sẽ cho kết quả cao hơn, trong khi đó hoạt động sản xuất sẽ thấp hơn. Việc
lấy số liệu từ bảng cân đối sẽ tổng hợp cả 2 lĩnh vực trên và đưa ra kết quả không phản ánh
chính xác thực tế kinh doanh của Công ty. Vì vậy đối với những trường hợp này nếu có thể
được sẽ tách 2 mảng kinh doanh để phân tích riêng rẽ.
Các kết quả từ tỷ số trên cũng có thể không chính xác trong các trường hợp như: tài
sản cố định mới được đưa vào sản xuất, công suất huy động còn thấp hoặc tài sản đã được sử
dụng lâu năm, sắp thanh lý không còn sử dụng.
2.2.2.3 Nhóm các chỉ số phản ánh về cơ cấu
• Hệ số nợ / Tổng tài sản : (Tổng nợ phải trả) / (Tổng tài sản)

Tổng số nợ bao gồm toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn tại thời điểm lập báo
cáo tài chính. Các khoản nợ ngắn hạn bao gồm tất cả các khoản phải trả, các hoá đơn mua
hàng phải thanh toán, các khoản nợ lương, nợ thuế Các khoản nợ dài hạn là các khoản nợ
có thời hạn dài hơn một năm như nợ vay dài hạn, trái phiếu, tài sản thuê mua
Tổng tài sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định.
Hệ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp với các chủ nợ
trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích một hệ số nợ vừa phải vì hệ số này càng
thấp thì khoản nợ càng được bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi
đó các chủ sở hữu doanh nghiệp lại ưa thích một hệ số nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng
nhanh mà vẫn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song, nếu tỷ lệ nợ quá cao thì doanh
nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
• Hệ số nợ/ Vốn chủ sở hữu: (Tổng nợ phải trả) / (VCSH)
Hệ số này cho ta nhận xét về mối quan hệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
• Hệ số cơ cấu nguồn vốn: (Tổng VCSH) / (Tổng nguồn vốn)
18
Chỉ tiêu này cho thấy mức độ độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với chủ nợ,
mức độ tự tài trợ của DN đối với tổng số vốn kinh doanh của mình. Hệ số này càng lớn thể
hiện doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, tính độclập cao với chủ nợ, khả năng an toàn về trả nợ
cao.
2.2.2.4 Nhóm các hệ số phản ánh khả năng sinh lời
• Tỷ suất sinh lời doanh thu thuần
Nếu doanh thu thuần được coi là 100% thì giá vốn hàng bán, chi phí tài chính, chi phí
bán hàng, lợi nhuận là bộ phận cấu thành nên doanh thu. Thông thường, việc phân tích lợi
nhuận/doanh thu không chỉ dừng lại ở việc phân tích tỷ lệ lợi nhuận ròng chiếm bao nhiêu %
doanh thu mà quan trọng hơn là phân tích cả lợi nhuận gộp, các yếu tố chi phí khác trên
doanh thu để xem xét tình hình lợi nhuận của Công ty đang bị ảnh hưởng bởi chi phí nguyên
vật liệu, khấu hao hay do chi phí tài chính hay do chi phí quản lý doanh nghiệp quá cồng
kềnh….
Khi một doanh nghiệp mới hoạt động hay có một sản phẩm mới thì tỷ số lợi
nhuận/doanh thu thường thấp (hoặc thua lỗ) do công suất huy động máy móc thiết bị thấp,

sản phẩm đang thâm nhập thị trường, nhu cầu chưa cao, giá bán thấp để chiếm lĩnh thị phần
dẫn đến doanh thu đạt thấp trong khi chi phí cố định: khấu hao, lãi vay ở mức cao. Nhưng
nếu sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường, và nếu kiểm soát tốt các yếu tố chi phí gián
tiếp thì tỷ số sẽ có xu hướng tăng.
Nếu một công ty có nhiều sản phẩm hoặc kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và mỗi lĩnh
vực có sổ sách kế toán riêng đầy đủ thì việc phân tích tỷ số của mỗi sản phẩm, lĩnh vực sẽ
cho một cái nhìn tổng thể về các lĩnh vực nào cho kết quả kinh doanh tốt cần phát triển
mạnh, các lĩnh vực nào kết quả kinh doanh chưa tốt cần hạn chế hoặc chuyển hướng đầu tư.
Không phải việc tăng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu lúc nào cũng phản ánh doanh
nghiệp đang kinh doanh tốt và việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu lúc nào cũng phản ánh
doanh nghiệp đang kinh doanh kèm hiệu quả mà việc xem xét tăng/giảm tỷ suất sinh lời
doanh thu là tốt hay xấu cũng cần phân tích rõ lý do của việc tăng/giảm tỷ số.
o Việc tăng tỷ suất lợi nhuận doanh thu là tốt nếu:
- Lợi nhuận và doanh thu cùng tăng
19
- Doanh thu giảm do doanh nghiệp không tiếp tục vào lĩnh vực đầu tư không hiệu quả. Lợi nhuận
trong trường hợp này có thể giảm nhưng giảm ít hơn doanh thu. Hoặc lợi nhuận lại tăng lên do
giảm lĩnh vực đầu tư không hiệu quả lên quản lý chi phí tốt hơn.
o Việc tăng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là xấu nếu: việc tăng là do lợi nhuận và doanh thu cùng
giảm nhưng lợi nhuận giảm chậm hơn doanh thu với các lý do giảm như sau:
- Doanh nghiệp bị giảm năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất
- Hàng hoá bán ra tiêu thụ kém
- Doanh nghiệp phải giảm giá bán để chiếm lĩnh lại thị phần
o Việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu không phải là một dấu hiệu chứng tỏ hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp bị giảm sút nếu:
- Lợi nhuận và doanh thu đều tăng nhưng lợi nhuận tăng chậm hơn doanh thu do hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng nhưng do vay nợ nhiều hơn nên chi phí lãi vay
nhiều hơn, hay do mới mỏ rộng quy mô hoạt động nên công suất sản xuất chưa cao, chi phí quản
lý, chi phí khấu hao còn lớn.
- Trong trường hợp doanh thu tăng nhưng lợi nhuận không tăng thì cũng không phải là dấu hiệu

doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Để kết luận phải xem xét cơ cấu chi phí và bản chất
việc giảm lợi nhuận là do giá vốn tăng hay do doanh nghiệp quản lý tài chính, quản lý hoạt động
không tốt dẫn đến các chi phí hoạt động quá cao so với quy mô tăng trưởng doanh thu.
- Ngay cả khi doanh thu và lợi nhuận đều giảm cũng không phải là dấu hiệu kinh doanh của công
ty đang xấu nếu do doanh nghiệp đang thu hẹp hoạt động, chuyển hướng đầu tư vào các lĩnh vực
hiệu quả, dừng hoạt động những lĩnh vực, mặt hàng kém hiệu quả.
o Việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là một dấu hiệu chứng tỏ hoạt động kinh doanh của đơn
vị đang có chiều hướng xấu nếu:
- Doanh thu và lợi nhuận đều giảm do công ty kinh doanh không tốt, sản phẩm không bán được,
khả năng cạnh tranh giảm sút
- Lợi nhuận giảm thì dù doanh thu tăng cũng không phải là dấu hiệu tốt mà ngược lại nó còn cho
thấy công ty đang đầu tư vào những mảng kinh doanh kém hiệu quả.
• Tỷ suất sinh lời tổng tài sản (ROA): Lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản
20
Khi xem xét chỉ tiêu này cần chú ý rằng: đối với doanh nghiệp có quy mô tài sản lưu
động quá lớn, hoặc tỷ trọng vốn vay cao thì tỷ số này thường rất thấp do chi phí lãi vay cao
làm lợi nhuận thấp.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản tăng là tốt nếu: doanh nghiệp tăng vốn chủ sở hữu, giảm nợ vay làm
giảm chi phí lãi vay nên lợi nhuận đạt được cao hơn.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản tăng là dấu hiệu thể hiện doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả nếu:
doanh nghiệp giảm nợ vay do hoạt động kinh doanh bị thu hẹp, doanh thu lợi nhuận giảm nhưng
giảm thấp hơn tốc độ giảm tổng tài sản.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản giảm không phải là dấu hiệu tồi nếu: việc giảm là do công ty tăng
VCSH nên tổng nguồn vốn tăng tương ứng tổng tài sản tăng, nhưng mức lợi nhuận tăng chậm
hơn tăng tổng tài sản.
o Tỷ suất sinh lời tổng tài sản giảm là dấu hiệu tồi nếu: doanh nghiệp tăng nợ vay, VCSH giảm do
kinh doanh lỗ vốn, hoặc hoạt động kinh doanh mở rộng những đầu tư vào những lĩnh vực không
hiệu quả nên lợi nhuận không tăng, thậm chí còn giảm so với trước.
• Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE): (Lợi nhuận sau thuế)/(VCSH)
Đây là chỉ số được các nhà đầu tư, cổ đông của doanh nghiệp quan tâm nhất vì nó

phản ánh những gì mà họ sẽ được hưởng. Nếu Công ty đạt được một tỷ lệ lợi nhuận trên vốn
hợp lý, nó có thể:
o Duy trì trả cổ tức đều đặn cho các cổ đông
o Duy trì tỷ lệ lợi nhuận để lại hợp lý cho sự phát triển của doanh nghiệp
o Tránh việc tìm kiếm các nguồn bổ sung từ bên ngoài có chi phí vốn cao
o Đưa ra một hình ảnh lành mạnh để thu hút đối tác, nhân viên và giới tài chính
Kết quả tính toán tỷ suất này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tự có càng cao.
Ta thường dùng chi phí cơ hội của việc cho vay trên thị trường tiền tệ (trái phiếu kho bạc,
tiền gửi tiết kiệm …) làm mốc so sánh với chỉ số trên để xác định hiệu quả vốn tự có. Một
doanh nghiệp phải có tỷ số cao hơn lãi suất tiết kiệm thì mới được coi là đạt hiệu quả.
Việc xem xét chỉ tiêu này có một ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu kinh doanh
của ban lãnh đạo doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá quy mô. Nếu doanh
nghiệp có tỷ số này càng cao, lợi nhuận để lại càng lớn thì quy mô vốn tự có sẽ ngày càng
tăng kết hợp với hoạt động đầu tư thận trọng, thì tỷ lệ VCSH/tổng nguồn vốn sẽ tăng dần,
mức độ rủi ro cho vay của doanh nghiệp giảm. Ngược lại nếu doanh nghiệp có tỷ số này
thấp, khả năng tích luỹ hạn chế, trong khi đó quy mô đầu tư mở rộng thì Doanh nghiệp sẽ
21
dùng nguồn vốn vay bên ngoài nhiều hơn sẽ làm cho tỷ trọng vốn CSH/tổng nguồn vốn
giảm, kinh doanh không bền vững làm tăng rủi ro khi cho vay
Tuy nhiên tỷ số này sẽ không phản ánh đúng thực chất doanh nghiệp nếu doanh
nghiệp hoạt động bằng vốn vay là chủ yếu, vốn chủ sở hữu quá thấp.
Ngoài ra khi phân tích cần so sánh với tỷ số này năm trước.
Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu tăng hay giảm chưa thể hiện hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp tốt hay không mà quan trọng là xác định lý do làm tỷ số này tăng hay giảm
để từ đó có kết luận phù hợp.
o ROE tăng là tốt nếu lợi nhuận tăng, vốn chủ sở hữu không bị giảm đi, thậm chí còn tăng lên.
o ROE tăng là xấu nếu công ty kinh doanh thua lỗ, phải thu hẹp hoạt động, doanh thu giảm, lỗ
vốn nên vốn chủ sở hữu giảm và vốn chủ sở hữu giảm nhiều hơn lợi nhuận.
o ROE giảm là tốt nếu cả lợi nhuận và vốn chủ sở hữu đều tăng nhưng vốn chủ sở hữu tăng nhanh
hơn tốc độ tăng lợi nhuận.

o ROE giảm là xấu nếu cả lợi nhuận và vốn chủ sở hữu đều giảm do kinh doanh thua lỗ, thu hẹp
quy mô …
2.2.2.5 Hiệu quả hoạt động kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
nhân tài, vật lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi
phí thấp nhất.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có quan hệ với tất cả
các quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh (lao động, tư liệu lao động, đối
tượng lao động) nên doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả kinh doanh khi việc sử dụng các
yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần
phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ
thể. Các chỉ tiêu phải phản ánh được sức sản xuất, sinh lợi và suất hao phí của từng yếu tố,
từng loại vốn và phải thống nhất với công thức tính hiệu quả chung.
Hiệu quả kinh doanh = (Kết quả đầu ra) / (Kết quả đầu vào) (1)
Kết quả đầu ra được xác định bằng các chỉ tiêu như: Tổng sản lượng, doanh thu thuần,
lãi gộp, thu nhập thuần Còn các yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động, đối
tượng lao động, vốn vay, vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu (1) phản ánh sức sản xuất, sức sinh lợi của các chỉ tiêu phản ánh đầu vào.
Hiệu quả kinh doanh còn được đo bằng cách nghịch đảo.
Hiệu quả kinh doanh = (Kết quả đầu vào) / (Kết quả đầu ra) (2)
22
Chỉ tiêu (2) phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị
kết quả đầu ra thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí đầu vào.
• Phương pháp phân tích: Tính ra các chỉ tiêu phục vụ cho quá trình phân tích, sau đó so sánh
giữa kỳ phân tích với kỳ gốc (kỳ kế hoạch hoặc thực tế kỳ trước). Nếu các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả tăng lên chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản tăng lên và ngược lại. Bên cạnh đó cần so
sánh với số liệu của các doanh nghiệp khác hoặc chỉ số trung bình ngành (nếu có) để đưa ra các
kết luận khách quan nhất.
2.2.2.6 Các chỉ số giá trị thị trường (Market Value Ratios)

Có thể rút ra nhiều kết luận có ý nghĩa từ việc phân tích kỹ bảng cân đối kế toán và kết
quả kinh doanh. Tuy nhiên, có một đặc tính rất quan trọng của doanh nghiệp lại không thể tìm
thấy trong các báo cáo kế toán: giá trị thị trường của doanh nghiệp.
Giá thị trường của một cổ phiếu phổ thông là mức giá mà người mua và người bán
xác lập khi thực hiện giao dịch cổ phiếu đó. Giá trị thị trường của một doanh nghiệp được
tính bằng giá thị trường một cổ phiếu nhân với tổng số cổ phiếu của doanh nghiệp.
Hai chỉ số giá thị trường thường được sử dụng trong công tác phân tích báo cáo tài chính nhất là:
P/E và P/B.
• Chỉ số giá-thu nhập - Price to Earning Ratio (P/E): được tính bằng cách lấy giá thị trường bình
quân của cổ phiếu do doanh nghiệp phát hành trong một kỳ nhất định chia cho thu nhập bình
quân trên một cổ phần mà doanh nghiệp phải trả cho nhà đầu tư trong kỳ đó.
- Công thức cụ thể như sau:
Tỷ số P/E
=
Giá thị trường một cổ phiếu
Thu nhập bình quân trên một cổ phần
- Vì:
Thu nhập bình quân trên một cổ phần
=
Tổng thu nhập trong kỳ
Tổng số cổ phần
23
- Nên cũng có thể tính tỷ số P/E theo cách sau:
Tỷ số P/E
=
Tổng giá trị thị trường các cổ phiếu
Tổng thu nhập trong kỳ
• Chỉ số giá thị trường trên giá ghi sổ - Price to Book ratio (P/B):
Đây là tỉ lệ được sử dụng để so sánh giá của một cổ phiếu so với giá trị ghi sổ của cổ
phiếu đó. Tỉ lệ này được tính toán bằng cách lấy giá đóng cửa hiện tại của cổ phiếu chia cho

giá trị ghi sổ tại quý gần nhất của cổ phiếu đó.
Công thức tính như sau:
Tỷ số P/B = Tổng giá trị thị trường các cổ phiếu
Tổng giá trị tài sản - giá trị tài sản vô hình và nợ
- Đối với các nhà đầu tư, P/B là công cụ giúp họ tìm kiếm các cổ phiếu có giá thấp mà phần lớn
thị trường bỏ qua.
- Nếu một doanh nghiệp đang bán cổ phần với mức giá thấp hơn giá trị ghi sổ của nó (tức là có tỷ
lệ P/B nhỏ hơn 1), khi đó có hai trường hợp sẽ xảy ra: hoặc là thị trường đang nghĩ rằng giá trị
tài sản của công ty đã bị thổi phồng quá mức, hoặc là thu nhập trên tài sản của công ty là quá
thấp.
- Nếu như điều kiện đầu tiên xảy ra, các nhà đầu tư nên tránh xa các cổ phiếu này bởi vì giá trị tài
sản của công ty sẽ nhanh chóng được thị trường điều chỉnh về đúng giá trị thật.
- Còn nếu điều thứ hai đúng, thì có khả năng lãnh đạo mới của công ty hoặc các điều kiện kinh
doanh mới sẽ đem lại những triển vọng kinh doanh cho công ty, tạo dòng thu nhập dương và
tăng lợi nhuận cho các cổ đông.
- Ngược lại, nếu một công ty có giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá trị ghi sổ thì đây thường
là dấu hiệu cho thấy công ty làm ăn khá tốt, thu nhập trên tài sản cao.
Ngoài hai chỉ số trên, còn có một chỉ số được sử dụng đánh giá mức độ tăng trưởng của
doanh nghiệp, đó là tỷ số tăng trưởng.
Đây là các chỉ số cực kỳ có ý nghĩa với các cổ đông và nhà đầu tư để xem xét xem
công ty đáng giá đến đâu và cho phép các chủ nợ dự đoán được khả năng trả nợ của các
khoản nợ hiện hành và đánh giá các khoản nợ tăng thêm nếu có
24
Chỉ số tăng trưởng: G =RR x ROE
Trong đó: RR: Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại
ROE: Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu
2.2.3 Phân tích dòng tiền doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết Bảng lưu chuyển tiền tệ nói lên khả năng tạo tiền, tình hình quản lý
các tài sản và trách nhiệm pháp lý ngoài vốn hiện thời, chi tiết các khoản đầu tư vào tài sản sản
suất và các khoản đầu tư tài chính của doanh nghiệp.

Bảng lưu chuyển tiền tệ có liên quan mật thiết với bảng cân đối và báo cáo kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó cần các dữ liệu từ:
- Bảng CĐKT dùng để thu thập dòng tiền từ tất cả các hoạt động. Để quá trình này được dễ dàng
nên tính toán thay đổi từ thời điểm đầu kì đến thời điểm cuối kì của mỗi khoản.
- Một báo cáo kết quả hoạt động SXKD sử dụng ban đầu để thu thập các dòng tiền từ hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Các chi tiết phụ khác liên quan đến một số tài khoản phản ánh vài loại giao dịch và vấn đề khác
nhau. Việc nghiên cứu các tài khoản riêng biệt là cần thiết bởi thường tổng số thay đổi của cân
bằng TK trong năm không chỉ ra được bản chất thực của dòng tiền.
Về cơ bản, bảng lưu chuyển tiền tệ giải thích sự vận động tiền tệ từ cân bằng tiền đầu kì
đến mức cân bằng cuối kì (tiền tệ bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền như đầu tư ngắn
hạn, các khoản đầu tư có độ thanh khoản cao, thông thường là các khoản đầu tư đáo hạn dưới ba
tháng.
Các dòng tiền trong bảng lưu chuyển tiền tệ được chia thành 3 loại: dòng tiền từ hoạt
động sản xuất - kinh doanh, dòng tiền từ hoạt động tài chính và dòng tiền từ hoạt động đầu tư.
Thực tế, để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì doanh nghiệp có thể lập theo một hoặc
cả hai phương pháp: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Tương ứng với mỗi
phương pháp có mẫu báo cáo riêng, nhưng mẫu báo cáo của hai phương pháp chỉ khác nhau
ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh.
• Theo phương pháp trực tiếp:
25

×