Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tiểu luận môn Quản lý công Vấn đề cải cách của khu vực công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.64 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Tiểu luận môn Quản lý công
Vấn đề cải cách của khu vực công
Hµ Néi 2011–
Nhóm thực hiện: Nhóm 12
Lớp K19
GV hướng dẫn:
PGS.TS. Phan Huy Đường
Danh sách nhóm 8
STT Họ tên Ngày sinh
1 Nguyễn Văn Chiến 25/10/1985
2 Nguyễn Văn Chiến 16/12/1965
3 Phan Thị Thu Hà 14/04/1981
4 Phạm Thị Minh Hiếu 07/11/1983
5 Nguyễn Văn Hoàn 22/03/1972
6 Trịnh Đức Hoạt 02/10/1984
7 Nguyễn Hoàng Long 24/09/1981
8 Nguyễn Anh Quân 08/08/1986
9 Đào Minh Tâm 01/08/1984
10 Lưu Quang Tiến 12/09/1977
8.1. Khu vực công trong một thế giới đang thay đổi
8.1.1 Những thay đổi địa-chính trị
Học viện Nghiên cứu Cao cấp về Quốc tế và Phát triển tại Geneva
(Thụy Sĩ) cho biết trong năm 2010, trật tự thế giới được coi như trật tự đa
cực bấp bênh, do sự tách biệt giữa yếu tố địa chính trị và địa kinh tế.
Thực vậy, nếu như Mỹ vẫn được coi là cường quốc có ưu thế về địa
chính trị và đặc biệt là yếu tố quân sự thì nước này lại mất đi rất nhiều khả
năng kiểm soát trong lĩnh vực địa kinh tế của thế giới.
Trong năm 2010, sức mạnh kinh tế và tài chính của các quốc gia mới
nổi đã gia tăng đáng kể. Khái niệm "quốc gia mới nổi" đã từng được sử dụng


trong lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia. Trong những năm 1980, thế
hệ đầu tiên của các nền kinh tế mới nổi (các nước công nghiệp hóa mới, các
"con rồng châu Á" và các "con hổ châu Á") đã từng đẩy lùi các quốc gia sản
xuất vải và thép châu Âu và Bắc Mỹ khỏi trung tâm kinh tế chính trị quốc tế.
Sang đầu thế kỷ 21, "thế hệ thứ 2 của các cường quốc mới nổi" (đặc
biệt là Nam Phi, Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, một phần nào là Thổ Nhĩ
Kỳ) đang quyết tâm thiết lập sự thay đổi về các mối quan hệ chính trị trên
thế giới theo hướng cân bằng. Theo quan điểm của Braxin, liên minh giữa
các quốc gia trên thế giới hiện nay đòi hỏi phải có các luật lệ quốc tế công
bằng và minh bạch làm nền tảng cho một trật tự thế giới ít bị bất đối xứng.
Đòi hỏi mới này của Braxin nhận được sự ủng hộ của tất cả các nhà
ngoại giao thuộc các quốc gia mới nổi. Bởi theo họ, yêu cầu này của Braxin
cho thấy cam kết rõ ràng đối với các giá trị và tiêu chuẩn của các thể chế dân
chủ quốc tế. Theo các chuyên gia, đây không phải là sự chuyển đổi triệt để
trật tự thế giới mà chỉ là cải cách nó cho phù hợp với thực tế kinh tế và chính
trị mới của thế giới.
Mặc dù còn có những khác biệt lớn nhưng Nam Phi, Braxin, Trung
Quốc, Ấn Độ và Nga cũng có những điểm chung: Đó là khả năng về kinh tế,
chính trị và quân sự vượt trội so với phần lớn các quốc gia phương Nam
khác (các quốc gia đang phát triển); khả năng ảnh hưởng tới vấn đề kiểm
soát trật tự quốc tế ở tầm khu vực và thế giới.
Bởi vậy, những nước này cũng đã bắt đầu tăng cường trao đổi hợp
tác nhằm thực hiện quyết tâm chung là cân bằng lại trật tự thế giới. Nga và
Trung Quốc cùng phối hợp với nhau trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
(SCO, thành lập năm 2001) và cùng thực hiện các cuộc tập trận chung.
Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ và Nga đã thông báo thành lập Ngân hàng Liên
Khu vực về Phát triển vào tháng 4/2010 tại Hội nghị thượng đỉnh nhóm
BRIC (gồm Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) ở Braxilia (Braxin).
Sự phát triển của Nhóm Cairns (gồm 19 quốc gia xuất khẩu sản
phẩm nông nghiệp) và sự ra đời của Nhóm G-20 (gồm 20 nền kinh tế phát

triển và mới nổi) cho thấy sự nổi lên về vai trò của các quốc gia phương
Nam (đặc biệt là Braxin, Ấn Độ và Nam Phi) trong thương mại quốc tế hiện
nay. Braxin đã tố cáo sự bị động của nhóm Cairns dưới sự dẫn dắt của
Ôxtrâylia trước quan điểm bảo hộ của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) trong
lĩnh vực nông nghiệp. Mặc dù còn những khác biệt giữa các quốc gia thành
viên, G-20 vẫn là một liên minh chính trị nhằm cải cách thể chế thương mại
quốc tế và tăng cường thương mại quốc tế giữa các quốc gia phương Nam.
Chiến lược liên minh này là nhằm tiếp cận các thủ tục đã được thực hiện tại
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) thuộc Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO).
Braxin, Ấn Độ và Nam Phi đã khuếch trương chủ nghĩa khu vực
thông qua Diễn đàn IBAS (Diễn đàn đối thoại Ấn Độ, Braxin và Nam Phi
được thành lập năm 2003) nhằm tác động vào thực trạng địa chính trị quốc
tế theo hướng có lợi cho họ. Những nước này cũng thể hiện một tư thế tích
cực và khẳng định hơn trên trường quốc tế, đồng thời phát triển mối quan hệ
song phương trong khối. IBAS là một liên minh chính trị gắn với chiến lược
đấu tranh chống nghèo đói và cải cách các thể chế quốc tế.
IBAS cũng đã đề xuất cải cách Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vì cơ
quan này không nhằm vào vấn đề dân chủ hóa tiến trình đưa ra quyết định ở
cấp quốc tế mà chỉ đơn giản thừa nhận sự khác biệt giữa các quốc gia
phương Nam và thể chế hóa sự khác biệt này. Về vấn đề an ninh, kế hoạch
hành động IBAS-2004 dự kiến liên kết thực hiện các cuộc tập trận chung,
tham gia các chiến dịch gìn giữ hòa bình, đấu tranh chống buôn lậu ma túy
và vũ khí, cũng như đấu tranh chống buôn lậu các hóa chất độc hại tại khu
vực Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương.
Tóm lại, với những ưu thế mới về kinh tế, những quyết tâm chính trị
và các nỗ lực cố kết về chính trị và ngoại giao, các quốc gia mới nổi đang
tìm cách điều chỉnh lại quyền lực chính trị trên thế giới theo hướng để thế
giới thừa nhận tầm ảnh hưởng khu vực của họ và đảm bảo sự bình đẳng
trong các tổ chức quốc tế.

8.1.2. Những thay đổi quan hệ kinh tế
Sự phát triển nhanh chóng của các nền kinh tế mới nổi đang tạo ra
những biến chuyển đáng kể thay đổi trật tự kinh tế và chính trị toàn cầu. Một
thế giới đa cực đang được hình thành.
Trong những thập kỉ trước, Mãn Châu Lý, thị trấn Trung Quốc nằm
dọc biên giới hẻo lánh với Nga, là một trong những nơi chịu ảnh hưởng
nhiều nhất của chiến tranh lạnh. Mãn Châu Lý không hề có các hoạt động
giao thương với Nga. Mọi chuyện thay đổi sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ
và biên giới hai nước mở ra. Năm ngoái, kim ngạch thương mại giữa Nga và
Trung Quốc đạt 55 tỷ USD, tăng gấp bảy lần so với năm 2000. Giá trị hàng
hóa qua cửa khẩu Mãn Châu Lý đạt 9,8 tỷ USD, gấp đôi so với 5 năm trước.
Dân số nơi đây cũng tăng đáng kể, từ 15.000 vào thời kỳ kết thúc Chiến
tranh Lạnh và nay là 300.000.
Câu chuyện thành công của Mãn Châu Lý không phải là cá biệt ở
những nền kinh tế mới nổi. Dòng chảy về hàng hóa, con người và vốn giữa
các nền kinh tế đang phát triển càng ngày càng giúp các nước này đẩy mạnh
về nguồn xuất khẩu, việc làm và tài chính. Hiện nay, xu hướng chung của
các nền kinh tế này là càng tránh lệ thuộc vào thị trường tiêu dùng phương
Tây càng tốt. Điều này có thể định hình lại nền kinh tế thế giới.
Việc tăng cường quan hệ giữa các nước mới nổi lên có thể là điều
cần thiết khi mà kinh tế toàn cầu đang tìm một hướng đi để thoát khỏi cuộc
đại suy thoái. Đây cũng chính là chủ đề nóng nhất tại Hội nghị cấp cao hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình dương (APEC) đang diễn ra tại Hawaii. Sự
liên kết ngày càng chặt chẽ giữa các nền kinh tế mới nổi lên đang làm thay
đổi vai trò của Mỹ đối với nền kinh tế toàn cầu, tạo ra những liên minh chính
trị mới cũng như làm dấy lên sự cạnh tranh vùng lãnh thổ và chính trị mới.
Stephen King, chuyên gia kinh tế của ngân hàng HSBC cho rằng dòng chảy
thương mại và vốn giữa các vùng kinh tế mới nổi lên của thế giới như châu
Á, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ Latin có thể tăng lên 10 lần trong hơn
40 năm tới.

Sự biến đổi nền kinh tế toàn cầu xuất hiện ở khắp mọi nơi. Trung
Quốc, chứ không phải Mỹ, đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Ấn
Độ. Kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng lên 28 lần trong thập kỷ qua,
đạt gần 62 tỷ USD vào năm 2010. Trong chuyến viếng thăm vào tháng 12
năm trước của Thủ tướng Ôn Gia Bảo tới New Delhi, hai bên đã ký thỏa
thuận thương mại và tài chính lên tới 16 tỷ USD. Trong khi một tháng trước
đó, tổng thống Barack Obama công du tới Ấn Độ và hai bên đạt được một
thỏa thuận thương mại chỉ 10 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu của Ấn Độ và Brazil giờ đây là các nền kinh tế
mới đồng minh chứ không phải là các nước phát triển. Thay thế sự thống trị
nhiều năm của Mỹ ở thị trường Mỹ Latin, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu
tư nước ngoài lớn nhất của Brazil. Năm 2010, tập đoàn dầu khí quốc doanh
CNOOC của Trung Quốc đã đầu tư hơn 3 tỷ USD vào công ty năng lượng
Bridas, trở thành thương vụ đầu tư lớn nhất trong năm của Argentina. Năm
ngoái, Rusal, nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới của Nga chọn niêm yết tại
Hong Kong thay vì London hay New York.
Sự tăng cường giao thương và đầu tư giữa các nước mới nổi lên
đã làm thay đổi cấu trúc nền kinh tế thế giới vốn tồn tại trong vài thập kỷ.
Mặc dù vậy, mối quan hệ căng thẳng giữa các quốc gia đang phát triển
thường tạo ra rào cản đối với sự phát triển quan hệ thương mại, mà xung đột
biên giới giữa Nga và Trung Quốc đã khiến giao thương buôn bán ở Mãn
Châu Lý tê liệt nhiều năm là một ví dụ.
Mô hình kinh tế thế giới thay đổi sau khi Trung Quốc tham gia cuộc
chơi toàn cầu hóa những năm 80. Các nhà máy ở Thâm Quyến và Thượng
Hải trở thành trung tâm của mạng lưới “sản xuất không biên giới” đối với
các loại hàng hóa như TV, điện thoại di động và nhiều mặt hàng khác. Mô
hình phát triển kiểu các công ty ở các quốc gia mới nổi liên minh bán sản
phẩm cho chính người tiêu dùng của họ thúc đẩy mạnh thương mại trong
khu vực càng ngày càng phổ biến. Chẳng hạn, vào cuối năm 2010, trao đổi
thương mại và hợp tác phát triển kinh tế của châu Á và châu Mỹ Latin đã

tăng bẩy lần trong 10 năm qua, đạt 268 tỷ USD.
Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước đang tìm kiếm nguồn nguyên liệu
và đối tác mới đã tăng cường sự hiện diện ở châu Phi. Kim ngạch thương
mại giữa Ấn Độ và châu Phi tăng đột biến từ 1 tỷ USD năm 2001 vượt lên
50 tỷ USD năm 2010. Một chuyên gia trong lĩnh vực hội nhập kinh tế của
Ngân hàng phát triển châu Á tại Philippines nói rằng mối quan hệ của các thị
trường mới nổi lên này đang tạo ra “trụ cột thứ ba” của nền kinh tế thế giới,
bên cạnh hai trụ cột khác là Mỹ và châu Âu.
Quan hệ thương mại và đầu tư giữa các nền kinh tế mới càng quan
trọng bao nhiêu thì vị thế của Mỹ và châu Âu đối với nền kinh tế toàn cầu lại
càng giảm bấy nhiêu. Trong khi các nền kinh tế phương Tây oằn mình gánh
những khoản nợ chồng chất cũng như nạn thất nghiệp cao thì Trung Quốc,
Ấn Độ và các nền kinh tế mới khác lại nhẹ nhàng vượt qua suy thoái.
Không chỉ gắn kết về mặt kinh tế, các nước này đang cùng nhau chia
sẻ những lợi ích chính trị. Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã bắt đầu tổ
chức các hội nghị thượng đỉnh về việc cải tổ hệ thống tài chính toàn cầu,
nhắm đến việc thay đổi trật tự kinh tế thế giới. Chẳng hạn, Trung Quốc và
Nga là hai nước đi đầu trong việc thay thế đồng đôla Mỹ vốn là đồng tiền
được dự trữ nhiều nhất thế giới. Ông King, chuyên gia kinh tế của HSBC,
nhận định rằng nếu như mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa các nền kinh
tế mới nổi lên tiếp tục phát triển thì đồng nghĩa với việc “vị thế kinh tế cũng
như chính trị của Mỹ và châu Âu sẽ bị suy giảm.”
Rất nhiều tập đoàn kinh tế lớn cũng đang tìm kiếm cơ hội mới ở các
đồng minh mới nổi lên như họ. Các công ty có thương hiệu ít được biết đến
ở những thị trường các nước phát triển nhưng lại thành công ở thị trường
đang nổi lên. Doanh thu của nhà sản xuất điện thoại di động G’Five của
Trung Quốc đã tăng 75% năm ngoái tại thị trường Ấn Độ. Chery, nhà sản
xuất ô tô lớn nhất của Trung Quốc, từng phải vật lộn với thị trường cạnh
tranh ở Mỹ, lại ăn lên làm ra ở thị trường mới nổi lên. Hiện Chery có 16 nhà
máy đang hoạt động và một số khác đang được xây dựng ở các nước như

Nga, Ai Cập, Iran, Indonesia và Brazil.
Không ai có thể đảm bảo việc hội nhập của các nước thuộc thế giới
mới nổi liệu có bền hay không. Bởi vì thực tế việc đầu tư trong khối này vẫn
còn vấp phải nhiều trở ngại. Chẳng hạn như ở các nước đang phát triển
chính sách về thuế cao hơn và dòng vốn bị giới hạn một cách cứng nhắc hơn
so với ở các nước phát triển. Ngoài ra, hệ thống đường sá, mạng lưới vận
chuyển hàng hóa chậm và chi phí đắt đỏ hơn so với các nước phát triển. Mặc
dù sự tăng trưởng đáng kinh ngạc nhưng kim ngạch thương mại giữa Trung
Quốc và Ấn Độ chỉ bằng một phần sáu của kim ngạch giữa Trung Quốc và
Mỹ. Những căng thẳng về chính trị kéo dài cũng có thể bùng phát và ảnh
hưởng xấu đến mối quan hệ kinh tế giữa hai nước trong tương lai.
Ở Mãn Châu Lý, có sự khác nhau đáng kể giữa tiềm năng thương
mại của Nga cũng như thực tế giao thương diễn ra tại đây. "Các quan chức
Nga thường không mấy mặn mà với việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế",
chủ tịch vùng kinh tế Mãn Châu Lý, ông Li Yongsheng, nói. "Các cán bộ
Trung Quốc hy sinh những ngày nghỉ để làm việc vì mục tiêu phát triển thì
các quan chức Nga lại không bao giờ làm việc quá giờ".
Các nỗ lực nhằm dỡ bỏ rào cản thương mại vẫn được các nước đang
phát triển thúc đẩy. Từ năm 2004, các nước phát triển châu Á và châu Mỹ
Latin đã ký kết 13 thỏa thuận về tự do thương mại. Thủ tướng Nga Vladimir
Putin gần đây cũng đưa ra sáng kiến thiết lập khu vực tự do thương mại
“liên minh Á-Âu”. Trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh vào tháng 10 của thủ
tướng Putin, Nga và Trung Quốc đã lập một quỹ liên kết trị giá 4 tỷ USD
nhằm thúc đẩy đầu tư giữa hai nước.
Nhưng khi mà một số rào cản thương mại được dỡ bỏ thì có những
khó khăn mới lại xuất hiện. Các quan chức Brazil và Ấn Độ phàn nàn về
việc Trung Quốc duy trì giá trị đồng nhân dân tệ thấp hơn thực tế bằng cách
trợ giá cho hàng hóa, gây cản trở xuất khẩu vào những nước này. Phản ứng
đối với Trung Quốc lan rộng từ Brazil đến Zambia về việc các nhà đầu tư
Trung Quốc đã giành được những hợp đồng đầu tư béo bở nhưng không tái

đầu tư tại nước bản địa.
8.1.3. Xu hướng cấu trúc lại khu vực nhà nước của các nước
Về cải cách hành chính và quản lý theo hướng quản lý công mới,
phần khái quát này cho thấy có những trọng tâm và kết quả, cũng như thất
bại của các quốc gia khác nhau. Mặc dù khi so sánh các quốc gia phát triển
nhất trong khối OECD thấy rằng không thể đưa ra một mô hình chung, song
cũng có thể xác định được một số biện pháp được sử dụng nhiều nhất như:
cải cách tài chính và quản lý, phân quyền, ủy quyền và dân chủ hoá. Trong
khi các nước khối Ang-lô Xắc-xông (Anh, Ốt-xtra-lia, Niư-Zilơn và Ca-na-
đa) chủ yếu là tiến hành cải cách công vụ, thương mại hoá, tập đoàn hoá và
tư nhân hoá, thì đặc tính cơ bản trong cải cách của các nước khác như Đức,
Pháp, Hà Lan là phi tập trung hoá, còn Mỹ thì thực hiện phi quy chế hoá các
hoạt động khu vực tư. Điều này cho thấy là không có một “mô hình” làm
khuôn mẫu cho cải cách khu vực nhà nước như một số tác phẩm nêu lên.
Trong khi nguyên cớ của cải cách khu vực nhà nước tại các nước OECD là
nhu cầu đạt được sự quản trị tốt (good governance) trong một nền kinh tế
giao thầu, thì lý do để cải cách tại các quốc gia đang phát triển như Đài
Loan, Ma-lay-xia, Hàn Quốc lại khác. Tại các nước này, “các vấn đề quản trị
nhất thiết là các vấn đề về quản lý qúa trình xây dựng nhà nước và tăng
trưởng kinh tế, để tăng trưởng đòi hỏi phải có điều phối và hợp tác chặt chẽ
hơn giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân” (Cheung, 1997, tr. 448).
Mặc dù tại các nước đang phát triển khác cũng dành rất nhiều nỗ lực cải
cách hành chính, song kết quả vẫn chưa đạt được như mong muốn. Tại các
nước chuyển đổi thuộc Trung, Đông Âu và Liên Xô cũ, cải cách hành chính
trước hết được xác định về phần quá trình đi xa khỏi quá khứ chứ chưa phải
là dẫn tới một trạng thái vận hành thông suốt hơn.
8.2. Các chiến lược cải cách khu vực công hiệu quả
8.2.1. Tự do hóa thị trường
Thị trường tự do là một thị trường mà không có sự can thiệp kinh tế
và quy định của nhà nước, ngoại trừ việc thực thi các hợp đồng tư nhân và

quyền sở hữu tài sản. Thị trường tự do ngược lại với thị trường có kiểm soát,
trong đó nhà nước trực tiếp quy định hàng hoá, dịch vụ và lao động có thể
được sử dụng, định giá giá cả, hoặc phân phối như thế nào, hơn là dựa vào
cơ chế sở hữu tư nhân. Những người ủng hộ thị trường tự do về mặt truyền
thống xem thuật ngữ này ngụ ý rằng các phương tiện sản xuất là thuộc tư
nhân, không phải thuộc kiểm soát của nhà nước. Đây là cách sử dụng đương
đại cụm từ "thị trường tự do" bởi các nhà kinh tế và văn hóa đại chúng; thuật
ngữ này trong lịch sử đã có các cách sử dụng khác.
Một nền kinh tế thị trường tự do là một nền kinh tế nơi mà tất cả các
thị trường bên trong nó không được kiểm soát bởi các bên khác hơn so với
những người tham gia trên thị trường. Ở dạng thuần khiết nhất của nó chính
phủ đóng một vai trò trung lập trong việc quản lý và điều ban hành pháp luật
về hoạt động kinh tế không giới hạn và cũng không tích cực thúc đẩy nó (ví
dụ như điều tiết các ngành công nghiệp cũng như trợ cấp cung cấp cho các
doanh nghiệp cho phép một mình bảo vệ họ khỏi áp lực thị trường nội /
ngoại ). Một nền kinh tế như vậy dưới hình thức cực đoan nhất của nó không
tồn tại trong nền kinh tế phát triển, tuy nhiên những nỗ lực tự do hóa nền
kinh tế hoặc nỗ lực làm cho nó "tự do hơn" để hạn chế vai trò của chính phủ
theo cách như vậy.
Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường lý tưởng tự do, quyền sở
hữu được trao đổi một cách tự nguyện trao đổi ở một mức giá được thỏa
thuận chỉ bằng sự đồng ý lẫn nhau của người bán và người mua. Theo định
nghĩa, người mua và người bán không ép buộc lẫn nhau, theo nghĩa là họ có
được quyền sở hữu của nhau mà không sử dụng vũ lực, đe dọa của lực lượng
vật chất, hoặc gian lận, cũng không phải là họ bị cưỡng chế do bên thứ ba
(như của chính phủ thông qua các khoản thanh toán chuyển giao)và họ tham
gia vào thương mại đơn giản chỉ vì họ đều đồng ý và tin rằng những gì họ
đang nhận được là giá trị nhiều hơn hoặc càng nhiều càng tốt những gì họ bỏ
đi. Giá là kết quả của các quyết định mua bán hàng loạt như được mô tả bởi
các lý thuyết về cung và cầu.

8.2.2. Cải cách các doanh nghiệp nhà nước
Trong lịch sử kinh tế thế giới, kinh tế kế hoạch chỉ huy – kết hợp các
ưu điểm của cơ chế thị trường dưới sự chỉ huy của lý trí “luôn luôn đúng“
của lãnh đạo – không xa lạ. Nền kinh tế kế hoạch chỉ huy thành công nổi
tiếng nhất là nền kinh tế của nước Đức phátxít dưới sự lãnh đạo của Hitler.
Thời đó, tỷ lệ thất nghiệp của Đức là 0%, Đức quốc xã là nước áp dụng
thành công lý thuyết về vai trò kích cầu nhà nước của nhà kinh tế học nổi
tiếng Keynes. Thành quả của nền kinh tế kế hoạch chỉ huy này đã tạo đầy đủ
cơ sở vật chất cho Hitler tiến hành chiến tranh thế giới. Điểm đặc biệt nguy
hại của một nền kinh tế như vậy là ở chỗ nó luôn phải tự tạo ra các nhu cầu
phi thị trường theo ý chí chủ quan của người lãnh đạo. Với nước Đức
phátxít, đó là nhu cầu chuẩn bị và phục vụ chiến tranh.
Dù có một nền kinh tế kế hoạch chỉ huy hoàn hảo đi chăng nữa thì
nhà nước vẫn không thể giải quyết được vấn nạn thuộc về bản chất là không
thể kiểm soát các DNNN. Nhà nước – do đủ thứ nguyên nhân và quan hệ
chồng chéo – không bao giờ có thể có được đầy đủ và chính xác các thông
tin cần thiết cho việc kiểm soát toàn diện hoạt động của DNNN.
Kinh nghiệm của rất nhiều nước cũng chỉ ra rằng chỉ có thể lựa chọn
dứt khoát hoặc là kinh tế thị trường hoặc là kinh tế kế hoạch chứ không thể
kết hợp cả hai. Là thành viên WTO, chúng ta đã không chỉ cam kết xây dựng
kinh tế thị trường, mà còn có nghĩa vụ tự do hoá thị trường.
Kinh tế thị trường – thông qua thị trường và cạnh tranh tự do, lành
mạnh – giải quyết hiệu quả hầu hết các vấn đề của doanh nghiệp, của hoạt
động kinh tế. Nhưng kinh tế thị trường làm phát sinh những vấn đề xã hội
mà không phải lúc nào thị trường cũng có thể giải quyết ổn thoả. Chính là ở
đây, nhà nước mới có trách nhiệm, nghĩa vụ và được phép hoạt động thay thị
trường. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế này của nhà nước phải tuân thủ ba
nguyên tắc: (1) Chỉ can thiệp vào nơi và khi thị trường đã tỏ ra bất lực; (2)
Nguyên tắc trợ giúp; (3) Hạn chế đến mức thấp nhất tác động làm sai lệch
môi trường cạnh tranh, làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của công dân.

Trong nền kinh tế thị trường xã hội, nhà nước còn có nghĩa vụ bảo
đảm các điều kiện sống có phẩm giá cho người dân.
Trên thực tế, có một số lĩnh vực mà thị trường bất lực không thể đáp
ứng nhu cầu người dân vì doanh nghiệp không muốn đầu tư, đầu tư có quá
nhiều rủi ro, không hứa hẹn lợi nhuận và việc kinh doanh với mục đích lợi
nhuận sẽ gây bất bình đẳng xã hội như: bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động,
giao thông công cộng, điện – nước sinh hoạt. Khi đó, nhà nước cũng chỉ can
thiệp vào thị trường khi thực sự không còn các tác nhân tại chỗ có thể giải
quyết sự bất lực của thị trường tốt hơn. Đây cũng là nguyên tắc phân cấp
hoạt động cho cơ quan nhà nước. Hoạt động kinh tế của nhà nước cũng phải
tuân theo nguyên tắc chung cho mọi hoạt động của nhà nước: nguyên tắc
thoả đáng (có mục tiêu chính danh; thích hợp để đạt mục tiêu; cần thiết; gây
ít bất lợi nhất).
Nước nào cũng vậy, vào giai đoạn đầu phát triển kinh tế, giá thành
sản xuất trong một số lĩnh vực thiết yếu cho đời sống – chẳng hạn điện, nước
– rất cao so với sức mua, không tương xứng với thu nhập của phần lớn
người dân; làm tăng chi phí sản xuất và không khuyến khích cạnh tranh hiệu
quả của doanh nghiệp. Nhu cầu thiết yếu của phần lớn người tiêu dùng sẽ
không được thị trường điện, nước tự do đáp ứng, vì vậy có thể làm nảy sinh
các vấn đề gây xáo trộn xã hội. Một mặt, vì nhà nước có nhiệm vụ hiến định
phải bảo đảm mức sống ổn định tối thiểu cho người dân, mặt khác nhà nước
phải can thiệp ở nơi và khi thị trường bất lực, nên tại đây, nhà nước phải sử
dụng công cụ là các DNNN và trao cho nó độc quyền. Nói một cách khác,
nhà nước có “nghĩa vụ” sử dụng các DNNN độc quyền trong một số lĩnh
vực quan trọng để đáp ứng nhu cầu cần thiết tối thiểu cho hoạt động xã hội
và cuộc sống người dân. Những lĩnh vực này cần do Quốc hội quy định
(nhưng phải phù hợp với tiêu chí của WTO), chúng có thể là: điện, nước,
giao thông công cộng, bưu điện… DNNN độc quyền có mục đích và hoạt
động khác về cơ bản với doanh nghiệp thông thường.
Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường cũng có nghĩa là phải

chuyển đổi toàn bộ các DNNN không độc quyền hoạt động trong mọi lĩnh
vực của nền kinh tế kế hoạch cũ thành những doanh nghiệp thông thường
không hoạt động theo chỉ đạo của nhà nước mà theo điều khiển của chủ sở
hữu phù hợp các quy luật của thị trường.
Vì thế, nên đặt vấn đề cải cách DNNN trong tổng thể chung giải
quyết vấn đề kinh tế nhà nước như thế nào để hội nhập thành công. Cần có
quy định pháp lý phân biệt rõ ràng DNNN độc quyền với doanh nghiệp có
vốn góp của nhà nước. Theo đó:
DNNN độc quyền sẽ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận hay là
nguồn thu ngân sách, mà là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân, của xã
hội. Trước mắt, cần có luật về hoạt động của các DNNN độc quyền phù hợp
với các đặc trưng được WTO công nhận đã nói ở trên. Quốc hội sẽ quyết
định các lĩnh vực nào là thiết yếu, trọng tâm đối với đời sống người dân, xã
hội mà DNNN được độc quyền. Về lâu dài, cần xác định rõ DNNN độc
quyền chỉ là giải pháp tình thế. Ngay khi sức mua (thu nhập bình quân đầu
người) tăng đến mức hấp dẫn doanh nghiệp tư nhân và khi môi trường kinh
doanh đủ điều kiện cho cuộc cạnh tranh hiệu quả giữa các doanh nghiệp để
hạ giá sản phẩm thiết yếu, thì phải từ bỏ độc quyền của DNNN, mở cửa thị
trường cho doanh nghiệp tư nhân.
Cần nhanh chóng xây dựng cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước. Dứt khoát – trên cơ sở luật định
– đối xử với các doanh nghiệp này hoàn toàn bình đẳng như các doanh
nghiệp tư nhân khác, đặc biệt trong việc tiếp cận vốn, bảo lãnh vay vốn, cấp
đất, giải quyết nợ nần, phá sản và cạnh tranh.
Được như vậy, ta có cơ sở vững chắc, rõ ràng, minh bạch để từng
bước giải quyết tốt các vấn nạn như “quyền sở hữu chủ – quyền quản lý”,
“cha chung không ai khóc”, “ưu đãi theo chỉ thị” và kinh doanh không hiệu
quả của DNNN hiện nay.
8.2.3. Tăng quyền tự quản cho chính quyền địa phương
Xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm

vụ, phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan, các cấp chính quyền là
nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong công cuộc cải cách hành chính ở nước
ta hiện nay.
1 - Tầm quan trọng của chính quyền địa phương trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước
Trong lịch sử tư tưởng - chính trị của thế giới và mỗi quốc gia đã có
nhiều bàn luận về công việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Việc tổ chức bộ máy nhà nước không những được diễn ra ở cấp trung ương,
mà còn ở các cấp độ địa phương. Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước có thể chia thành 2 bộ phận: thứ nhất, bộ máy nhà nước ở trung ương,
thứ hai, bộ máy nhà nước ở địa phương. Hai bộ phận cấu thành này có tầm
quan trọng và chức năng khác nhau, không thể lấy bộ phận này thay cho bộ
phận kia. Nhưng điều cần khẳng định, so với bộ máy chính quyền trung
ương, bộ máy chính quyền địa phương không những chiếm tỷ trọng rất lớn
cả về con người lẫn việc thu chi ngân khố của nhà nước, mà về nguyên tắc,
chính quyền địa phương bao giờ cũng sát nhân dân hơn, có điều kiện phục
vụ trực tiếp nhân dân một cách tốt hơn.
Vì lẽ đó, cải cách bộ máy nhà nước không thể không tiến hành ở
chính quyền địa phương. Việc cải cách chính quyền địa phương, so với việc
cải cách chính quyền trung ương có nhiều ưu thế thuận lợi vì ít nhất là khó
có khả năng làm đảo lộn chế độ chính trị, mà một sự đảo lộn chính trị không
thể là tiền đề của sự phát triển xã hội.
Khái niệm chính quyền địa phương trong khoa học pháp lý cũng như
các khoa học khác của Việt Nam vẫn chưa được thống nhất. Ở nghĩa rộng,
tất cả các cơ quan nhà nước đóng trên lãnh thổ địa phương, mà hoạt động
của chúng có tác động trong phạm vi lãnh thổ địa phương đều được gọi là bộ
phận cấu thành chính quyền nhà nước ở địa phương. Vì vậy, ngoài Hội đồng
nhân dân các cấp cùng các ủy ban nhân dân, còn các cơ quan quản lý khác
của trung ương, viện kiểm sát, tòa án địa phương đều được gọi là những bộ
phận cấu thành của chính quyền địa phương. Nhưng ở nghĩa hẹp, chính

quyền địa phương chỉ gồm có hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và các
ban, ngành của ủy ban nhân dân. Các tòa án, viện kiểm sát về nguyên tắc tổ
chức hoạt động là độc lập, chỉ tuân theo pháp luật nên không trực thuộc địa
phương mà trực thuộc trung ương, cho dù địa bàn hoạt động nằm trên lãnh
thổ địa phương.
So với chính quyền nhà nước ở trung ương, việc nghiên cứu chính
quyền địa phương có phần lỏng lẻo và không sâu sắc, bởi nhiều lý do khác
nhau. Thứ nhất, chính quyền địa phương những năm trước đây phụ thuộc
vào chính quyền trung ương, cách thức tổ chức và hoạt động nhiều khi mô
phỏng lại chính quyền trung ương. Thứ hai, trong những thế kỷ trước đây,
nhất là ở thế kỷ XX, vấn đề tổ chức chính quyền địa phương không thể nổi
cộm bằng vấn đề trung ương, bởi lẽ những vấn đề quốc gia, vấn đề dân tộc
được đặt lên hàng đầu. Nhưng bước sang thế kỷ XXI, cùng với ảnh hưởng
của toàn cầu hóa và khu vực hóa, vấn đề địa phương lại nổi lên một cách cấp
thiết. Thứ ba, độ phức tạp của chính quyền địa phương là cao hơn, vì chúng
có quá nhiều tầng nấc trong một quốc gia. Vì vậy, việc nghiên cứu cải cách
chính quyền nhà nước ở địa phương là một vấn đề rất cấp thiết, một phần tất
yếu và quan trọng của công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
2 - Nội dung của công cuộc cải cách tập trung vào một số nội
dung chủ yếu sau
Trước hết, về mặt nhận thức, phải gạt bỏ tất cả hay chí ít về cơ
bản những nhận thức thể hiện tư duy bao cấp của chúng ta về chính
quyền địa phương. Phải nhận thức rõ rằng, những tư duy cũ của cơ chế tập
trung, bao cấp không chỉ có ở các doanh nghiệp kinh tế, mà tồn tại ngay
trong các quy định về chính quyền nói chung và chính quyền địa phương nói
riêng. Hay nói một cách khác, những quy định về chính quyền địa phương là
hình thức thể hiện nội dung bao cấp, tập trung trong việc quản lý xã hội nói
chung và trong việc quản lý kinh tế nói riêng. Lĩnh vực tổ chức và hoạt động
nhà nước cũng là hình thức biểu hiện của cơ chế tập trung, bao cấp. Nếu so
sánh bằng một cặp phạm trù triết học, nội dung và hình thức, thì chính các

quy định của pháp luật về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
là các hình thức chứa đựng nội dung bao cấp.
So với bộ máy của chính quyền trung ương, việc tổ chức hoạt động
của bộ máy chính quyền địa phương thể hiện cơ chế bao cấp rõ nhất và
nhiều nhất. Vì sự bao cấp và tập trung chỉ có thể diễn ra từ trung ương
xuống địa phương, chứ không bao giờ có sự bao cấp và tập trung theo chiều
ngược lại.
Sự giản đơn và tập trung, bao cấp có thể được thể hiện bằng một loạt
những biểu hiện sau đây:
- Chính quyền nhà nước ở Việt Nam được chia thành bốn cấp (kể cả
trung ương), theo kiểu các hình chóp nhỏ nằm trong các hình chóp lớn. Các
vấn đề quản lý xã hội ở địa phương đều được pháp luật quy định cho tất cả 3
cấp của chính quyền địa phương.
- Việc tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền không có sự
phân biệt giữa những vùng lãnh thổ khác nhau, giữa nông thôn và thành thị,
giữa vùng đồng bằng và miền núi, giữa vùng có dân tộc Kinh với các vùng
có nhiều dân tộc thiểu số. Hiện nay, không có một văn bản pháp luật nào
dành riêng cho chính quyền địa phương thuộc những vùng này. Mặc dù đã
có Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc phân biệt thẩm quyền
cho chính quyền địa phương các cấp, nhưng Pháp lệnh vẫn chỉ dừng ở mức
độ chung cho mọi cấp.
- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền cấp dưới là
"bản sao" của chính quyền cấp trên. Cấp trên có cơ cấu tổ chức nào và các
hình thức hoạt động nào, ở cấp dưới cũng có những cơ cấu và hình thức đó.
Mô hình này được tổ chức theo của Xô-viết, mà đặc trưng của nó là các cấp
chính quyền địa phương đều được tổ chức giống nhau. Chẳng hạn như ở cấp
nào cũng có Hội đồng nhân dân (Xô-viết) do dân trực tiếp bầu ra và đều
được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hoạt động một cách
hình thức. Cách tổ chức này không phân biệt các quận, hạt có nhiệm vụ quản
lý nhà nước về một lĩnh vực nào đấy xuất phát từ nhu cầu quản lý chung của

Nhà nước, với các cộng đồng lãnh thổ dân cư được hình thành một cách tự
nhiên, bền vững, cần phải có những quyết định phản ánh nhu cầu từ cộng
đồng dân cư, khác với các vùng lãnh thổ khác, mà pháp luật và các quyết
định quản lý nhà nước cấp trên không có điều kiện thể hiện. Hiện nay, cách
tổ chức của chính quyền địa phương rập khuôn y như các cơ quan ở trung
ương. Quan hệ trung ương và địa phương không rõ ràng, thiếu thủ tục làm
việc, nặng về cơ chế "cấp phát, xin cho". Quan hệ giữa hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân với tỉnh ủy không rõ ràng, thiếu các quy chế chặt phối kết
hợp giữa các thiết chế quyền lực của địa phương. Ngân sách của tỉnh phải
chi trả lương, nhưng lại không có quyền thu thuế, hay có quyền nhưng rất
hạn chế, thường phải xin trợ cấp của ngân sách trung ương.
- Đầu mối tổ chức các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân các
cấp còn nặng nề. Việc tổ chức rập khuôn và tương ứng với các bộ, ngành
trung ương. ở trung ương có bộ, ngành nào thì ở địa phương cũng có các cơ
quan chuyên môn tương ứng. Số lượng, tên gọi của các cơ quan chuyên môn
của mỗi địa phương cũng rập khuôn giống nhau, mặc dù đặc điểm, tính chất
và yêu cầu quản lý ở mỗi địa phương khác nhau.
- Không tạo điều kiện cho việc chủ động sáng tạo của các cấp chính
quyền cấp dưới, nặng về việc cấp dưới xin ý kiến chỉ đạo, hoặc phê duyệt
của cấp trên, theo cơ chế "xin - cho." Các cấp chính quyền trong hoạt động
không chỉ dựa vào pháp luật, không coi pháp luật là cơ sở pháp lý hoạt động
của mình.
- Hệ thống chính quyền hiện nay được đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ
của các cấp ủy. Điều này được Hiến pháp quy định và xã hội thừa nhận.
- Việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo quy
định hiện nay còn thể hiện ở sự bảo trợ của chính quyền cấp trên, hạn chế sự
chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, hạn chế vai trò của pháp
luật. Nhiều quyết định của chính quyền đã được thông qua, nhưng không có
hiệu lực thi hành ngay, mà còn phải chờ sự phê chuẩn của cấp trên.
- Việc tổ chức chính quyền địa phương những năm trước đây nhập

một loạt các đơn vị hành chính để có dân số và đất đai với quy mô lớn
không phù hợp với trình độ quản lý của chúng ta, làm cho nhiều đơn vị hành
chính hoạt động kém hiệu quả.
Thứ hai, chính quyền các cấp được tổ chức đa dạng các mô hình.
Trước hết là phân biệt giữa các vùng nông thôn với thành thị - các đơn vị
hành chính được tổ chức theo nguyên tắc cộng đồng dân cư; tiếp đến phân
biệt giữa đơn vị hành chính tự nhiên và đơn vị hành chính nhân tạo - các đơn
vị hành chính được tổ chức theo cộng đồng lãnh thổ. Từ đó, hình thành
chính quyền cấp cơ sở hoàn chỉnh trực tiếp từ nhân dân cho các đơn vị hành
chính tự nhiên này, mục tiêu là thể hiện ý chí của cộng đồng dân cư và của
cộng đồng lãnh thổ bền vững. Tiếp theo, phải phân biệt đơn vị hành chính
nhân tạo, mà mục tiêu chủ yếu là theo nhu cầu quản lý của Nhà nước.
Cơ sở cơ bản nhất của việc hình thành chính quyền nhà nước ở địa
phương là các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính này được hình
thành từ cộng đồng lãnh thổ và cộng đồng dân cư. Có khi đơn vị hành chính
được hình thành từ hai yếu tố, hoặc có khi chỉ cần một yếu tố. Tuy nhiên,
giữa chúng có liên hệ mật thiết với nhau tạo thành các đơn vị hành chính tự
nhiên gồm: thôn, làng, bản, ấp; thị xã, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Theo tiêu chí cộng đồng dân cư, các đơn vị hành
chính được phân chia thành đơn vị hành chính nông thôn và đơn vị hành
chính thành thị (thành phố). Sự quản lý hai loại đơn vị hành chính này cơ
bản giống nhau, chỉ khác nhau về số lượng và chất lượng công việc. Vì vậy,
việc tổ chức chính quyền địa phương giữa chúng phải có sự khác nhau. Cần
phải có sự phân biệt chính quyền của đơn vị hành chính tự nhiên và của đơn
vị hành chính nhân tạo. Sự khác nhau giữa chúng là, những đơn vị hành
chính tự nhiên có cơ cấu tổ chức chính quyền một cách hoàn chỉnh, không
những chỉ bao gồm có các cơ quan chấp hành có nhiệm vụ tổ chức thực thi
luật pháp và quyết định khác của chính quyền cấp trên, mà còn có cơ cấu do
nhân dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm vụ phải tính đến quyền lợi của nhân dân
khi thực hiện các nhiệm vụ quản lý các công việc của địa phương, mà cơ sở

là do cộng đồng lãnh thổ và cộng đồng cư dân chặt chẽ tạo nên.
Các chính quyền địa phương nên dùng cho những đơn vị hành chính
tự nhiên, được hình thành không theo ý chí chủ quan của Nhà nước. Phương
án tốt nhất là Nhà nước thừa nhận và tìm ra các phương án tối ưu có lợi cho
việc quản lý. Ví dụ, các nhà nước phong kiến Việt Nam và nhà nước thuộc
địa của thực dân Pháp đều thừa nhận sự tồn tại làng/xã Việt Nam trước đây.
Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền tự nhiên này trước hết có tính
đến ý chí của cộng đồng dân cư và cộng đồng lãnh thổ hợp thành. Đơn vị
hành chính tự nhiên hiện nay của nước ta gồm có: thôn, bản, ấp; thị trấn, thị
xã, thành phố, kể cả các thành phố trực thuộc Trung ương đến các thành phố
thuộc tỉnh. Chính quyền cấp cơ sở được hình thành trên một cộng đồng dân
cư, cộng đồng lãnh thổ bền vững, dưới cấp này không hình thành một cấp
chính quyền nào khác, nếu có chỉ là cấp trung gian nhằm mục đích chuyển
tải, hoặc thực hiện các quyết định của chính quyền cấp trên. Các cấp chính
quyền cơ sở như thôn, làng, bản, ấp hay những thành phố trực thuộc Trung
ương đều phải trực thuộc cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của pháp
luật (tức Trung ương), mà không có một cấp trên nào khác. Các chính quyền
địa phương được hình thành phải chịu trách nhiệm về các công việc của
mình trong phạm vi pháp luật quy định. Trong trường hợp sai phạm hoặc vi
phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác bị khiếu kiện, thì bị xét xử theo các
thủ tục tố tụng của toà án. Nhà nước trung ương nên phân quyền và phân
ngân sách cho địa phương để chính quyền địa phương chủ động trong việc
tổ chức hoạt động.
Thứ ba, việc phân quyền giữa trung ương và địa phương cần
được tiến hành theo pháp luật nhằm bảo đảm một sự kiềm chế quyền
lực. Thực hiện chế độ phân quyền theo pháp luật. Đòi hỏi phân cấp
thẩm quyền ở đây là giữa trung ương và các chính quyền cơ sở
Trung ương cần tập trung vào việc giải quyết những vấn đề chính trị,
quốc phòng, ngoại giao, ban hành hệ thống pháp luật, điều tiết nền kinh tế ở
tầm vĩ mô. Chức năng chủ yếu của chính quyền địa phương là các vấn đề có

tính chất đáp ứng các nhu cầu nội bộ của cộng đồng dân cư như: giáo dục,
văn hóa, y tế, an ninh trật tự khu dân cư, an toàn xã hội với mục đích nâng
cao chất lượng đời sống cư dân địa phương về mọi mặt.
Việc thực hiện phân công thẩm quyền theo pháp luật, tăng quyền chủ
động cho Hội đồng nhân dân cấp cơ sở là phù hợp với xu hướng "hướng về
cộng đồng cơ sở" hiện nay đang diễn ra phổ biến trên thế giới. Trung Quốc
trong hai thập kỷ qua đang chuyển đổi cơ chế áp đặt sang cơ chế dân chủ
hợp tác ở cơ sở, xây dựng thôn, xã tự quản. ấn Độ thực hiện chủ trương phi
tập trung hóa, chuyển ngân sách, chuyển quyền quyết định nhiều việc về các
Hội đồng nhân dân huyện, xã. Thuỵ Điển cũng đang cố gắng xây dựng chính
quyền cơ sở - cấp huyện tự quản, tự quyết định nhiều việc ở địa phương.[1]
Nhà nước trung ương không thể giải quyết hết mọi việc cụ thể đến
từng cơ sở, bao biện làm hết sẽ không có hiệu quả và gây lãng phí lớn cũng
như bất bình trong dân. Do đó, cần phải theo xu hướng địa phương hóa. Hơn
nữa, điều này còn có ý nghĩa khơi dậy tính chủ động tự quản, tự quyết định
đến từng cơ sở sẽ giúp khai thác hết các tiềm năng vật chất và trí tuệ của
từng người dân, từng cộng đồng cơ sở - mà tiềm năng này rất nhiều. Thực
hiện quyền công dân, dân chủ phải thật rõ ràng từ cơ sở. Từ đó xây dựng bộ
máy chính quyền bầu cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở theo ý kiến và quyết
định của dân. Qua đó, xây dựng một xã hội công dân tích cực và tăng niềm
tin chính trị của đa số vào chế độ hiện hành. Kinh tế chưa phát triển, Nhà
nước không đủ lực về ngân sách và kinh phí để khơi dậy hoạt động chủ động
từng cơ sở, do đó phải huy động nguồn lực xã hội từ cơ sở.
Điều đặc biệt đáng quan tâm là việc giao quyền chủ động cho Hội
đồng nhân dân cấp cơ sở quyết định các vấn đề ở cơ sở là cần thiết trong
điều kiện Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền. Về nguyên tắc,
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước can thiệp rất ít vào đời sống của nhân
dân. Nhà nước pháp quyền chỉ định ra các chính sách phát triển quốc gia ở
tầm vĩ mô còn giao quyền tự chủ cho các cấp cơ sở, phát huy quyền chủ
động sáng tạo của nhân dân. Nhà nước pháp quyền phải cho nhân dân tự do

phát triển phù hợp với đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ở tầm
vĩ mô.
Thôn, bản là một bộ phận của chính quyền cấp xã được phân công
thực hiện một số chức năng nhiệm vụ thích hợp. Gần đây, việc nhân dân bầu
trực tiếp trưởng thôn, trưởng ấp, trưởng bản là sự thể hiện về quyền dân chủ
trực tiếp, tạo ra động lực mới trong xã hội, được đông đảo nhân dân hưởng
ứng, hoan nghênh.
Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu dân cư thôn, ấp, bản, đã thay đổi,
dân trí được nâng cao, vị trí làng, thôn, ấp, bản cũng thay đổi, có nơi như là
cấp cơ sở thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân. Có ý kiến cho rằng cấp
xã được coi như là cấp trung gian [2]. Đây có lẽ không phải là một dấu hiệu
tốt. Vấn đề chính là nhiều chính quyền cơ sở ở nông thôn tự biến mình thành
cấp trung gian, đẩy việc xuống cho cho các trưởng thôn, bản. Điều này làm
cho các trưởng thôn, bản phải làm quá nhiều việc vốn là của chính quyền
cấp cơ sở. Cần nhận thức rằng về mặt pháp lý, hiện nay thôn, ấp, bản không
phải là một đơn vị hành chính lãnh thổ, không phải là một cấp chính quyền
mà chỉ là đơn vị tụ cư mang tính truyền thống, tự nhiên, một đơn vị tự quản,
là nơi thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Do đó, cần khắc phục
xu hướng chuyển giao chức năng của chính quyền cơ sở cho thôn, ấp, bản.
Các thiết chế của thôn, ấp, bản là các thiết chế dân chủ trực tiếp chứ không
phải là đại diện cho chính quyền cơ sở, trưởng thôn không phải là cánh tay
nối dài của chủ tịch xã.
Việc chuyển giao nói trên phản ánh xu hướng địa phương hóa hiện
nay. Đối mặt với xu hướng này, phương thức xử lý vấn đề không phải là
chuyển giao công việc của chính quyền cấp xã cho các thôn, bản, ấp như
theo cách mà các ủy ban nhân dân xã vẫn làm trong khi thôn, ấp, bản không
phải là cấp chính quyền. Cần phải đặt cơ sở pháp lý khác hơn cho các
thôn, ấp, bản, biến các thôn, ấp, bản, thành cấp chính quyền cơ sở, đồng
thời giảm các cấp chính quyền trung gian ở bên trên. Hội đồng nhân
dân cấp cơ sở phải nên là ở cấp thôn.

Hiến pháp Việt Nam đã đặt một sơ sở hiến định cho việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền. Do đó, việc hoàn thiện các thiết chế nhà nước hiện
nay phải được đặt trong quỹ đạo của Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp
quyền là một hình thức tiến bộ của nhân loại để thực hiện dân chủ. Hoàn
thiện Hội đồng nhân dân cấp xã/làng vì sự nghiệp phát triển dân chủ ở cơ sở
có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong Nhà
nước pháp quyền, chính quyền địa phương nói chung, Hội đồng nhân dân
cấp xã/làng nói riêng phải có những tiêu chí nhất định: Hội đồng nhân dân
xã vừa là cơ quan quyền lực nhà nước, vừa là cơ quan mang tính tự quản của
nhân dân địa phương, phải có một sự phân công hợp lý bằng một đạo luật
giữa quyền của trung ương và địa phương, cần phân cấp mạnh cho Hội đồng
nhân dân cấp xã theo đúng xu hướng địa phương hóa đang diễn ra phổ biến
hiện nay, cần một cơ chế giám sát hiệu quả và chịu trách nhiệm trước cơ
quan tài phán của Hội đồng nhân dân cấp xã. Chính những tiêu chí này sẽ
làm cho Hội đồng dân nhân phát huy tốt hơn vai trò của mình trong sự phát
triển dân chủ ở cơ sở vì sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam.
8.2.4. Tư nhân hóa
Mục tiêu hàng đầu của việc tư nhân hóa là để các cơ sở được tư nhân
hóa có được cơ chế lành mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế và khai thác
được tối đa khả năng hoạt động hiệu quả của cơ sở đó.
Với đại đa số các cơ sở xuất phát từ công hữu, trước khi chuyển đổi
bị thua lỗ triền miên, sống bằng bầu sữa nhà nước; khi chuyển đổi sang tư
nhân đã lập tức hoạt động có hiệu quả; thậm chí lãi lớn. Pháp đã tiến hành tư
nhân hóa hãng Air France vốn thua lỗ triền miên, Công ty Điện lực Pháp
(EDF). Từ mấy năm qua Air France đã sinh lời và sáp nhập cả Hãng hàng
không KLM của Hà Lan.
Thông thường nhà nước là nơi lập chính sách, thi hành nó nên nhà
nước không nên làm kinh doanh: vừa đá bóng thì không nên thổi còi và
ngược lại. Hơn thế nữa, thực tế cho thấy nhà nước làm kinh doanh luôn kém

nên vai trò đó nên chuyển cho khu vực tư nhân.
Việc tư nhân hóa đã làm giảm tải mạnh mẽ áp lực về tiền mặt và
chiếm dụng các tài nguyên quốc gia. Ngân sách bớt gánh nặng, trong khi lại

×