Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tiểu luận môn quản lý công KHU VỰC CÔNG VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.27 KB, 48 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Môn học: Quản lý Công
Chương 2
KHU VỰC CÔNG VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC CÔNG
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Phan Huy Đường
Học viên: Nhóm 2, LớpQuản lý kinh tế 2 – K19
1
DANH SÁCH PHÂN CÔNG NHÓM 2
LỚP QUẢN LÝ KINH TẾ 2
Chương 2 : Khu vực công và quản lý khu vực công

STT Họ tên học viên Nội dung công việc
1
Nguyễn Lan Hương Khái niệm, Khu vực công và lợi ích công chúng
2
Trần Thị Thu Hưởng
Vai trò của khu vực công trong nền kinh tế thị
trường
3
Phạm Mai Linh
Khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế thị
trường
4
Lê Đình Hưng Các yếu tố phi thị trường
5
Nguyễn Hải Nam Các yếu tố thị trường
6
Nguyễn Bảo Trung Đặc điểm cơ bản của quản lý trong khu vực công
7
Trịnh Đình Trường Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý khu vực công


8
Đào Văn Thơ Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý khu vực công
9
Vũ Ngọc Hà Vai trò của nhà nước trong quản lý khu vực công
10
Trần Liên Tuyết Quản lý các nguồn lực công
2
MỤC LỤC
Chương 2 4
KHU VỰC CÔNG VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC CÔNG 4
2.1. Khu vực công và vai trò của khu vực công trong nền kinh tế quốc
dân 4
2.1.1. Khái niệm 4
2.1.2. Khu vực công và lợi ích của công chúng 5
2.1.3. Vai trò của khu vực công trong nền kinh tế thị trường 8
2.1.4. Khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế thị trường 9
2.2. Cơ cấu cấu của khu vực công 16
2.2.1. Các yếu tố phi thị trường 18
2.2.2. Các yếu tố thị trường 20
2.3. Quản lý khu vực công 24
2.3.1. Đặc điểm cơ bản của quản lý trong khu vực công 24
2.3.2. Các nguyên tắc cơ bản trong khu vực công 26
2.3.3. Vai trò của nhà nước trong quản lý khu vực công 33
2.3.4. Quản lý các nguồn lực công: 36
3
Chương 2
KHU VỰC CÔNG VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC CÔNG
2.1. Khu vực công và vai trò của khu vực công trong nền kinh tế quốc dân
2.1.1. Khái niệm
Khu vực công là một bộ phận rất lớn trong toàn bộ nền kinh tế của

nước ta. Đóng góp một phần không nhỏ trong việc: Ổn định xã hội, thu nhập
cho ngân sách nhà nước, hỗ trợ nền kinh tế chung…
Từ những năm 1986 trở về trước khu vực công phát triển rất mạnh mẽ
và rộng khắp, thể hiện qua việc mọi hoạt động trong nền kinh tế đều do nhà
nước quản lí. Một nền kinh tế bao cấp toàn phần dưới các hình thức như: Hợp
tác xã, doanh nghiệp nhà nước…Nhưng đây cũng là một thời kì mà “khu vực
công” được thực hiện không đúng với cái nghĩa của nó. Hiện nay khu vực
công phát triển rất mạnh mẽ và rộng khắp, thể hiện qua việc mọi hoạt động
trong nền kinh tế đều do nhà nước quản lí. Quá trình nghiên cứu khu vực công,
có thể tiếp cận từ nhiều phía, và mỗi một cách tiếp cận này đều có ý nghĩa khoa học
trong việc giúp chúng ta phác thảo lên một bức tranh về khu vực công với một bản
chất đa dạng, phức tạp và hết sức sinh động.
Khu vực công được nghiên cứu, tiếp cận qua nhiều góc độ khác nhau:
- Căn cứ vào góc độ cung cấp hàng hóa và dịch vụ đối với nhu cầu của
xã hội: có 2 khu vực cung cấp là khu vực công và khu vực tư: khu vực công là
khu vực nhà nước, do nhà nước giữ vai trò quyết định, phục vụ nhu cầu chung
của cộng đồng.
- Căn cứ vào tính chất sở hữu: khu vực công là khu vực tập hợp tất cả
những gì thuộc về sở hữu nhà nước
4
- Căn cứ vào nguồn tài chính: khu vực công là các hoạt động của nó
được tiến hành thông qua trợ cấp tài chính của nhà nước
- Căn cứ vào góc độ quản lý thì khu vực công là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của công dân do các cơ quan trong hệ thống Hành pháp từ Trung ương đến địa
phương tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các
mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của công
dân.
Theo Stiglitz, khu vực công là khu vực bao gồm:
• Hệ thống các cơ quan quyền lực: Hành pháp, tư pháp và lập pháp.

• Hệ thống các đơn vị kinh tế của nhà nước: Các doanh nghiệp nhà nước
và các đơn vị công ích.
Từ các cách tiếp cận trên khái niệm về khu vực công được sử dụng phổ
biến nhất như sau: Khu vực công là khu vực hoạt động do nhà nước chi
phối nhằm tạo nên các sản phẩm và dịch vụ cho nhu cầu chung thiết yếu
của xã hội.
2.1.2. Khu vực công và lợi ích của công chúng
Khu vực công = khu vực nhà nước: mọi thứ, mọi sự đều được quyết định
bởi nhà nước (gắn liền với Việt Nam).
Ví dụ: ở Việt Nam các đơn vị thuộc khu vực công như quỹ tín dụng nhân
dân, kho bạc nhà nước, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân,
- Khái niệm 2: Theo Joseph E. Stiglitz (nhà Kinh tế học người Mỹ, giáo
sư Trường Đại học Columbia), một cơ quan hay đơn vị được xếp vào khu vực
công khi có 2 đặc điểm sau:
5
+ Phương diện lãnh đạo: trong 1 chế độ dân chủ, những người chịu trách
nhiệm lãnh đạo các cơ quan công lập đều được công chúng bầu ra hoặc được
chỉ định (trực tiếp hoặc gián tiếp). Ví dụ: Quốc hội do nhân dân bầu ra sau đó
Quốc hội lại chỉ định ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng,
 đặc điểm này hàm ý rằng, hoạt động của khu vực công phải phục vụ
cho đại đa số lợi ích của cộng đồng tức là khu vực công là khu vực phi lợi
nhuận.
- Công dân là người thụ hưởng sản phẩm của khu vực công (hàng hóa,
dịch vụ công): y tế, giáo dục,quốc phòng, các phúc lợi kinh tế …
- Công dân cũng là khách hàng của khu vực công vì vậy họ có quyền
đòi hỏi nhà nước cung cấp dịch vụ công có chất lượng, đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của chính họ.
- Công dân là người nộp thuế: họ có quyền đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ
công đạt tiêu chuẩn, chất lượng, chi phí thấp…
Có nhiều ý kiến cho rằng, đầu tư vào khu vực công rất đáng đồng tiền

bát gạo. Bởi lẽ, đầu tư vào khu vực công sẽ làm giảm thâm hụt ngân sách mà
không tăng doanh thu và đem lại hiệu quả lớn trong chi tiêu.
Về mặt công nghệ thông tin, lợi ích trong khu vực công cũng không
nhỏ.
Trình độ hiểu biết và sử dụng máy vi tính ngày càng tăng;
- Chi phí liên lạc giảm;
- Có các trình duyệt trang web điện tử đa năng liên kết “nóng” và dễ sử
dụng;
- Dịch vụ viễn thông và nền kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, khu vực công còn cung cấp các dịch vụ điện tử: Việc sử
dụng các phát minh của dịch vụ điện tử đã bắt đầu làm thay đổi cách thức hoạt
động của chính phủ cho phù hợp với sự ủy thác của người dân. Chỉ với một
đường truyền điện thoại cũng có thể làm cho những người sống ở nông thôn
6
có thể truy cập được Internet để họ có thể tiếp cận thông tin về những giông
cây khác nhau ở địa phương, giá cả của các sản phẩm nông nghiệp… Các hệ
thống hoạt động dựa vào nguồn điện ắc quy hay vào năng lượng mặt trời đều
có thể làm dân chủ hóa khả năng tiếp cận của tri thức.
Các hình thức ứng dụng về khả năng cung cấp dịch vụ điện tử
+ Các cuộc họp về chi tiêu công; giáo dục; thông tin cập nhật
+ Các loại giao dịch: tư vấn về lợi ích phúc lợi; chuyển khoản lợi ích và
thanh toán qua mạng điện tử cho các dịch vụ, cấp giấp phép, vận tải…; bầu
cử, trưng cầu dân ý, thăm dò ý kiến người dân, kiểm tra việc đặc xá; kê khai
thuế qua mạng điện tử; các hệ thống thu lộ phí.
+ Truy cập thông tin: Tiếp cận nguồn thông tin của chính phủ; giải đáp
những câu hỏi thường nhật; hỗ trợ các quan chức chính phủ và các nhà
chuyên môn trong việc cung cấp dịch vụ.
+ Liên lạc từ xa: Các diễn đàn thảo luận về các vấn đề chi tiêu công;
giúp đỡ các nhóm chuyên môn và tình nguyện; khiếu nại và yêu cầu của công
dân; hỗ trợ khẩn cấp; các cuộc họp liên cộng đồng; trao đổi giữa cha mẹ học

sinh và giáo viên…
Ngoài ra, lợi ích công chúng còn được biểu hiện ở những chính sách
mới của Chính phủ các nước trong khu vực công:
- Chính phủ các quốc gia trong khu vực công có hiệu lực hơn, thích ứng
với những thay đổi và xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
- Công việc, các chương trình, chính sách của Chính phủ được cải cách.
- Bãi bỏ, tư nhân hoá hay thực hiện những chính sách mới đối với
doanh nghiệp nhà nước.
- Giảm số lượng công vụ, đảm bảo chất lượng và đạo đức công vụ.
7
2.1.3. Vai trò của khu vực công trong nền kinh tế thị trường
Thế kỷ XX đã chứng kiến cuộc đua tranh giữa hai hệ thống kinh tế, nói
đúng hơn là hai giải pháp vĩ mô đối lập nhau: nền kinh tế chỉ huy dựa trên sự
kiểm soát tập trung của Nhà nước và nền kinh tế thị trường dựa vào thành
phần kinh tế tư nhân. Thế nhưng, chỉ đến cuối thế kỷ XX thì câu trả lời cho sự
phân tranh nói trên mới trở nên rõ ràng: mô hình của nền kinh tế chỉ huy đã
thất bại trong việc duy trì tăng trưởng, trong việc tạo ra sự phồn vinh và thậm
chí cả trong việc nâng cao đời sống nhân dân. Trong khi đó, nền kinh tế thị
trường lại tỏ ra thành công ở nhiều nước từ Tây Âu đến Bắc Mỹ và cả Châu Á
nữa. Tuy nhiên, mô hình kinh tế thị trường vẫn là cái gì đó chưa thuyết phục
và chưa được mọi nước chấp nhận một cách dễ dàng.
Vấn đề đặt ra là, nếu thị trường và hệ thống thị trường là hiệu quả thì
sao Nhà nước vẫn phải can thiệp vào các hoạt động của nó? Tại sao không
thực hiện một chính sách để tư nhân được hoàn toàn tự do kinh doanh? Trả lời
vấn đề này, có thể khẳng định rằng, Nhà nước không thể thay thế cho thị
trường nhưng nó có thể tác động một cách có hiệu quả đến mọi hoạt động của
nền kinh tế thị trường.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất
đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của
Nhà nước. Các nền kinh tế thị trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và

trao đổi giản đơn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can
thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên
ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất
yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong các nền
kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can
thiệp, quản lý và điều hoà phúc lợi. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định,
8
song sự điều tiết của Nhà nước vẫn là một trong các hoạt động của nền kinh tế
thị trường. Theo đó, thị trường tự do với đúng nghĩa của nó không thể tồn tại,
ngoại trừ trong các lý thuyết kinh tế.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà
nước thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được – cái mất của sự can thiệp
ấy. Cách giải quyết không phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu
quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có một vai .trò chính đáng và thường
xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể
hiện rõ rệt ở việc xác định “các quy tắc trò chơi” để can thiệp vào những khu
vực cần có sự lựa chọn, thể hiện nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo
tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi.
Đối với nền kinh tế thị trường như hiện nay, có thể nói khu vực công
đóng vai trò chủ đạo. Nó giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, là tác nhân chính
cho sự phát triển và đi đầu trong việc hoạch định và thự c hiện kế hoạch phát
triển.
- Khu vực công đóng vai trò là chất xúc tác trong việc phát triển nền
kinh tế thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi và bổ trợ các đề xuất phát triển kinh
tế của khu vực tư nhân và phi lợi nhuận.
2.1.4. Khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế thị trường
Cung cấp các “hàng hóa công” (như là hệ thống thủy lợi cho một cộng
đồng nông thôn) thường hứa hẹn đủ lợi ích để có thể tạo ra tính sáng tạo của
những người mà - nếu được trao đủ tự do và sự đảm bảo về quyền lợi thì có
thể xác định rõ ràng cách thức hợp tác với nhau để cung cấp các hàng hóa đó.

Sự hợp tác này thường được thực hiện dưới những hình thái khác nhau mà
chúng ta có thể thấy trên thị trường giống như những hàng hóa đặc trưng của
9
khu vực tư nhân (giầy dép chẳng hạn).
Khu vực công là một khái niệm để phân biệt với khu vực tư. Sự khác
nhau căn bản ở đây nằm ở hai khái niệm “công” và ‘tư”, nhưng càng ngày 2
khái niệm công và tư hay hình thức liên doanh ngày càng được áp dụng và nó
đã đạt được hiệu quả cao nên việc phân biệt khu vực công và khu vực tư ngày
càng trở nên khó khăn. Tuy vậy, nó vẫn có nhữg điểm khác nhau mang tính
nguyên tắc đó là:
- Mục tiêu hoạt động: Đặc điểm nổi bật của khu vực công là hoạt động
vì mục đích công cộng, lợi ích của cộng đồng, trong khi đó mục tiêu chủ yếu
của khu vực tư là lợi nhuận, phục vụ mọi người vì động cơ lợi nhuận.
Ví dụ: Một Chính phủ được thành lập ra, hoạt động vì mục đích quản lý
chung cho xã hội, điều hoà lợi ích của các cộng động, có nghĩa là Chính phủ
hoạt động vì lợi ích của cả đất nước chứ không vì một cá nhân hay tổ chức
nào. Nhưng một công ty do tư nhân lập ra, nó tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh, cung cấp dịch cụ cho cộng đồng người không vì lợi ích của
người tiêu dùng hay của cộng đồng mà là vì lợi nhận do hoạt động này đem
lại cho họ.
- Tính chính trị: khu vực công vì tính chất chính trị của tổ chức, trong
mọi hoạt động của mình khu vực công luôn mang màu sắc chính trị và bị các
mục tiêu chính trị chi phối, gây ảnh hưởng . Nhưng khu vực tư lại không hề
có màu sắc chính trị, nó hoạt động mà không hề bị tác động bởi một động cơ
chính trị nào.
Ví dụ: Chính phủ hoạt động trên những nguyên tắc, mục tiêu mà Đảng
chính trị đã lập ra Chính phủ, nghĩa là hoạt động của Chính phủ phải nằm
trong khuôn khổ đường lối của Đảng chính trị đề ra và luôn mang màu sắc
chính trị. Ngược lại khu vực tư, ví dụ như một công ty chỉ bị chi phối bởi lợi
nhuận, họ không bị đường lối chính trị của đảng nào lôi kéo, họ đứng bên lề

của các mục tiêu chính trị, họ chỉ tuân thủ các mục tiêu của tổ chức mình đề
10
ra và của pháp luật.
- Tính quyền lực: khu vực công mang tính quyền lực Nhà nước, tính
mệnh lệnh cưỡng chế rất cao. Hành chính tư không mang tính quyền lực Nhà
nước, tính cưỡng chế không cao.
Ví dụ: quyết định của Bộ trưởng và giám đốc của người đứng đầu một
doanh nghiệp. Một được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, một đảm bảo
bằng điều lệ doanh nghiệp.
- Cơ sở pháp lý: khu vực công có những thủ tục hết sức phức tạp, phải
tuân theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định, không được phá bỏ, nó
luôn luôn cứng nhắc, mang tính quan liêu, chậm chạp,hiệu quả hoạt động
thấp. Còn khu vực tư cũng phải tuân theo một số quy tắc nhưng nó lại mềm
dẻo và linh hoạt hơn rất nhiều và thủ tục thì đơn giản và dễ dãng thực hiện.
Ví dụ: trong một phiên họp thường kỳ của Chính phủ, phải tổ chức tại
một ngày nhất định trong tháng và phải do Thủ tướng chủ trì (hay uỷ nhiệm),
trong phiên họp phải tuân theo các thủ tục nhất định không thể làm khác,
không thể thay đổi, nhưng tại một công ty sản xuất kinh doanh thì các phiên
họp có thể tiến hành bất cứ lúc nào, miễn là giải quyết tốt công việc của công
ty, các thủ tục đơn giản, nếu cần thiết có thể bỏ qua nhiều công đoạn.
- Quy mô tổ chức hoạt động: Quy mô của khu vực công trên nguyên tắc
rất lớn, có thể bao trùm cả xã hội hay một lĩnh vực rộng lớn. Nhưng khu vực
tư lại có quy mô linh hoạt, tuỳ vào từng tổ chức mà áp dụng quy mô.
Ví dụ: Bộ máy của Chính phủ là bộ máy đặc biệt về phạm vi, tầm cỡ,
cũng như sự đa dạng của các hoạt động mà Chính phủ thực hiện hơn nữa hoạt
động của Chính phủ có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố. Còn khu vực tư
chỉ có phạm vi trong tổ chức đó và chỉ ảnh hưởng trong phạm vi nhất định.
(Tập đoàn Boeing là tập đoàn xuyên quốc gia tuy nhiên tính toàn bộ các cán
bộ quản lý chỉ bằng 1/13 Bộ công chức hành chỉnh của Hoa Kỳ).
- Hoạt động của khu vực công chịu áp lực của xã hội và mọi quyết định

11
của khu vực công đều phù hợp và đáp ứng được lợi ích của cộng đồng, đó là
sự đồng hành của khu vực công với xã hội, nghĩa là mọi quyết định hay hoạt
động của khu vực công phải tham khảo ý kiến của công chúng, còn khu vực
tư không cần quan tâm đến điều này.
- Tài chính hoạt động: khu vực công sử dụng mặt khối lượng lớn về vật
chất và tài chính hoạt động nên sai sót của nó ảnh hưởng lớn đến kinh tế- xã
hội. Tài chính hoạt động từ ngân sách Nhà nước. Khu vực tư sử dụng khối
lượng nhỏ tài chính vật chất sai sót ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, tài chính hoạt
động tự có.
Ví dụ: Chi phí tài chính của hệ thống hành pháp Hoa Kỳ gấp 10 lần chi
phí tài chính của 5 tập đoàn lớn nhất ở Hoa Kỳ.
- Chủ thể và khách thể của khu vực công và khu vực tư khác nhau. Chủ
thể của khu vực công là các cơ quan nhà nước, các cá nhân được uỷ quyền và
các chủ thể này có những đặc điểm là mang tính quyền lực Nhà nước, hoạt
động rộng khắp trên các mặt của đời sống xã hội, quản lý thông qua các quyết
định hành chính và hành vi hành chính. Còn khu vực tư chủ thể của có thể là
cá nhân hay tổ chức đứng ra thành lập tổ chức đó, chủ thể này chỉ có quyền
lực tổ chức, chỉ có quyền quản lý trong phạm vi tổ chức, họ có thể quản lý tổ
chức bằng nhiều biện pháp và hình thức mà pháp luật cho phép.
Ví dụ: Chủ thể quản lý của khu vực công là cơ quan Nhà nước, Chính
phủ hoạt động trong tất cả các mặt của đời sống xã hội, còn công ty chỉ quản
lý mặt sản xuất kinh doanh mà mình đăng ký, chủ thể là giám đốc công ty hay
hội đồng quản trị.
- yêu cầu đối với đội ngũ những người tham gia hoạt động: Kỹ năng
cần có đối với công chức lớn hơn rất nhiều so với nhà điều hành doanh
nghiệp. Ví dụ: Trong khu vực công kỹ năng lãnh đạo coi là kỹ năng cốt yếu
trong điều hành doanh nghiệp lại là kỹ năng quản lý.
12
Sau đây là một số ví dụ thực tế:

Các học giả khác sau nhiều năm đã phát hiện ra vô số những ví dụ
trong lịch sử về việc khu vực tư nhân đã cung cấp thành công những “hàng
hóa công”. Đôi khi là các công ty tư nhân thực hiện việc này để tìm kiếm
những lợi nhuận được tính bằng tiền, một số các trường hợp khác là do người
dân hợp tác để có được những lợi ích chung trong thực tế, chỉ có điều là
chúng không được quy ra tiền hoặc được trao đổi trên các thị trường truyền
thống.
Việc phát hiện những ví dụ như vậy thường làm các nhà kinh tế học đặc
trưng - những người mà tư duy của họ thường bị đóng khung trong những mô
hình tương tác kinh tế sai lầm - ngạc nhiên.
Về đường xá thì sao?
Với các đường cao tốc giới hạn việc tham gia thì không có vấn đề gì.
Những nhà xây dựng đường cao tốc tư nhân có thể dựng các trạm soát vé tại
đầu đường và cuối đường để thu phí việc sử dụng đường của họ. Không một
kẻ lậu vé nào có thể làm hỏng những nỗ lực thu phí từ những khách hàng sẵn
lòng chi trả. Tuy nhiên các khu phố thì lại khác. Thực hiện việc thu phí tại các
ngã tư quả là một điều bất tiện khủng khiếp.
Theo nghiên cứu của nhà sử học David Beito, một phương thức để giải
quyết vấn đề thu phí đối với các đường phố được tư nhân xây dựng đã được
thấy tại St. Louis:
Năm 1867, các bất động sản tại Benton Place, khu phố tư nhân đầu tiên
tại St. Louis, được đưa ra thị trường. Khu phố này được Montgomery Blair,
người từng là Tổng Giám đốc Bưu Chính dưới thời Abraham Lincoln thương
mại hóa một năm trước đó. Blair đã giao việc thiết kế phố này cho Julius
Pitzman. Vào những năm 1870, có ít nhất 4 khu phố tư nhân bao quanh công
13
viên Lafayette. Pitzman đã thiết kế một công viên tại trung tâm khu phố, một
đặc trưng mà sau đó các khu bất động sản được tư nhân xây dựng đều mô
phỏng theo. Mọi lô nhà đều trải dài đến công viên trung tâm đó. Theo kiểu
kiến trúc của Lucas Place [một phố tại St. Louis có những đặc trưng riêng của

khu vực tư nhân], mỗi khu nhà đều có những quy định hạn chế, kể cả quy
định phải lùi lại một khoảng cách là 25 foot (đơn vị đo) tính từ đường phố.
Tuy nhiên, việc xây dựng các dãy nhà cho nhiều hộ gia đình và sử dụng vào
mục đích kinh doanh thì không bị cấm. Các quy định này được thông qua tại
các cuộc bầu cử để lựa chọn ra 3 ủy viên hội đồng của các chủ sở hữu các lô
nhà trên phố. Các ủy viên này thực hiện việc bảo dưỡng đường phố, thắp
sáng, chăm sóc công viên, duy trì hệ thống thoát nước, các ngõ hẻm bằng
cách thu một khoản phí hàng năm 50 xu mỗi foot mặt tiền đối với một bất
động sản trên phố. Được trang bị bằng quyền sở hữu phố riêng, các cư dân
của Benton Place được hưởng một loạt các quyền mà những cư dân ở các khu
phố khác không có. Các ủy viên hội đồng thực hiện các quyền làm chủ của
cộng đồng cư dân trên phố bằng cách dựng một cổng tại đầu phố này và một
bức tường ở cuối phố. Họ có quyền từ chối, không cho những cư dân không
nộp khoản phí hàng năm nói trên vào các ngõ hẻm hay công viên trung tâm.
Lưu ý rằng những khoản chi trả cho khu phố tư nhân này cũng tương tự
như các khoản chi trả cho các hàng hóa công mà người ta thường thấy: hệ
thống thoát nước, công viên, dịch vụ vệ sinh và những dịch vụ khác. Bằng
cách tập hợp các tiện ích công cộng này vào một gói duy nhất—quyền sở hữu
bất động sản trên phố Benton Place— những nhà xây dựng đã thu được tiền
nhờ cung cấp các hàng hóa công. Những người không mua bất động sản và
không nộp khoản phí nói trên sẽ không có các quyền cư dân để sống tại
Benton Place.
Cũng cần lưu ý rằng Beito không hề gọi các khoản phí đó là “thuế.”
Ông đã đúng khi làm như vậy. Mọi cư dân mua nhà trên phố Benton Place
14
đều phải bày tỏ việc sẵn sàng chi trả khoản phí nêu trên theo hợp đồng mà họ
ký với nhà thầu xây dựng. Những khoản này, do vậy, được thực hiện một
cách tự nguyện.
Những ví dụ trong cuộc sống hiện đại
Columbia, Maryland, và Reston, Virginia là những ví dụ gần gũi hơn

về các thành phố mà cơ sở hạ tầng được xây dựng và cung cấp bởi khu vực tư
nhân. Trong cả hai trường hợp, các nhà thầu xây dựng tư nhân - James Rouse
tại Columbia và Robert Simon tại Reston - đã thiết kế và xây dựng các khu
phố, hệ thống thoát nước và các công viên. Sau đó họ bán các bất động sản
với mức giá đã bao gồm một chi phí cơ sở hạ tầng nhất định.
Rõ ràng là các nhà thầu này đã có được nhân tố khuyến khích để cung
cấp cơ sở hạ tầng chất lượng cao. Nếu như các khu phố quá ít ỏi, công viên
bé, đường thoát nước nhỏ hẹp thì mức giá tối đa mà những khách hàng có thể
trả cho việc mua nhà tại các khu phố đó sẽ thấp đi.
Điều thú vị là không chỉ những cơ sở hạ tầng hữu hình được khu vực tư
nhân cung cấp tại Reston và Columbia mà một hàng hóa công quan trọng hơn
tất cả cũng được cung cấp: đó là luật pháp. Khi mua một bất động sản tại
Reston hay Columbia, người mua phải cam kết tuân thủ điều lệ của thành phố,
mà được coi như một thứ hiến pháp. Các điều lệ này đưa ra các quy định hạn
chế về việc sử dụng bất động sản (ví dụ, không được để các ô tô cũ tại các
khoảng không gian thừa trong các sân trước nhà) cũng như các thủ tục nhằm
đưa ra các quyết định tập thể mà có thể ảnh hưởng đến mọi cư dân. Không
giống như các hiến pháp và điều luật được thông qua bằng cơ chế đa số phiếu
bầu, các quy định này cần được sự đồng thuận trên thực tế của toàn bộ cư dân
chịu sự điều chỉnh của chúng.
Trong một tài liệu nghiên cứu năm 2002, “Những Chính phủ hợp đồng
trên lý thuyết và thực tiễn” Randy Holcombe và tôi đã gọi các thủ tục ban
hành quy định và những cơ quan hình thành dựa trên các loại hiến pháp này là
15
“các chính phủ hợp đồng”. Trong đó chúng tôi đã lý giải rằng:
Một chủ sở hữu khi có ý định chia nhỏ các bất động sản và bán chúng
thành các gói riêng rẽ đã hình thành nên một dạng ‘chính phủ hợp đồng’ đặc
trưng. Động cơ của các chủ sở hữu này là tạo ra giá trị của các gói bất động
sản đó. Như vậy, người tạo ra chính phủ hợp đồng có yếu tố khuyến khích để
tạo ra những quy định mang tính hiến pháp có giá trị cao hơn… Các nhà kinh

doanh tạo nên “chính phủ hợp đồng” là người nhận được thu nhập ròng dựa
trên việc đưa ra những quy định hiệu quả. Ngược lại, các chính quyền đô thị
thì không nhận được thu nhập nào từ việc đó. Các thị trưởng, các nhà quản lý
đô thị, các thành viên hội đồng thành phố có thể có những yếu tố khuyến
khích để đưa ra những quyết định hữu hiệu, nhưng không phải là khuyến
khích trực tiếp nếu họ có thể thu lợi trực tiếp từ những quyết định hữu hiệu đó
như trong trường hợp các chính phủ hợp đồng. Như vậy, không giống như
trường hợp các chính quyền đô thị, nhân tố lợi ích trực tiếp tồn tại để sản sinh
ra những quy định có hiệu lực mà theo đó một chính phủ hợp đồng có thể vận
hành.
2.2. Cơ cấu cấu của khu vực công
Trong cơ cấu khu vực công có 2 yếu tố là yếu tố thị trường và phi thị
trường.
* Khái niệm về thị trường:
Thị trường có thể được khái niệm theo nhiều cách khác nhau. Chúng
được xem xét từ nhiều gốc độ và được đưa ra vào các giai đoạn khác nhau
trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thị trường chỉ địa điểm hay không gian
của trao đổi hàng hoá, đó là nơi gặp gỡ giữa người bán, người mua, hàng
và tiền và ở đó diễn ra các hoạt động mua bán. Như vậy, phạm vi của thị
16
trường được giới hạn thông qua việc xem xét bản chất hành vi tham gia thị
trường, ở đâu có sự trao đổi, buôn bán, có sự lưu thông hàng hoá thì ở đó
có thị trường. Đây là cách hiểu thị trường gắn với yếu tố địa lý của hành vi
tham gia thị trường, đòi hỏi phải có sự hiệp hữu của đối tượng được đem ra
trao đổi.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thị trường là các hiện tượng kinh tế
được phản ánh thông qua trao đổi và lưu thông hàng hoá cùng với các quan
hệ kinh tế giữa người và người trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá
và các dịch vụ.

Thị trường là tổng thể những thoả thuận, cho phép những người bán
và người mua trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, thị trường không
nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể như cách hiểu theo nghĩa hẹp trên.
Người bán và người mua có thể không trực tiếp trao đổi, mà có thể qua các
phương tiện khác để thiết lập nên thị trường. Theo David Begg, thị trường
là tập hợp các sự thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc
với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Theo cách hiểu này thì người ta
nhấn mạnh đến các quan hệ trao đổi cũng như thể chế và các điều kiện
thực hiện việc mua bán.
Trong nền kinh tế hiện đại, thị trường được coi là biểu hiện thu
gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu
dùng mặt hàng nào, các quyết định của các Công ty về sản xuất cái gì?, sản
xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? các quyết định của người công nhân về
làm việc bao lâu? cho ai? đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả, quan
niệm này cho thấy mọi quan hệ trong kinh tế đã được tiền tệ hoá. Giá cả với
tư cách là yếu tố thông tin cho các lực lượng tham gia thị trường trở thành
trung tâm của sự chú ý, sự điều chỉnh về giá cả trong quan hệ mua bán là yếu
tố quan trọng nhất để các quan hệ đó được tiến hành.
17
Xét theo mức độ khái quát thì thị trường còn được quan niệm là
sự kết hợp giữa cung và cầu trong đó người mua, người bán bình đẳng cạnh
tranh, số lượng người bán nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô của thị trường
lớn hay nhỏ. Sự cạnh tranh trên thị trường có thể do xảy ra giữa người bán,
người mua hay giữa người bán và người mua. Việc xác định giá cả trên thị
trường là do cung và cầu quyết định.
2.2.1. Các yếu tố phi thị trường
Nền kinh tế phi thị trường được dùng để chỉ các nền kinh tế nơi chính
phủ có độc quyền hoặc gần như độc quyền về thương mại và nhà nước ấn
định giá cả nội địa. Mỗi nước điều tra có quy định riêng về các tiêu chí xác
định nền kinh tế phi thị trường. Khi một nước xuất khẩu bị xem là có nền kinh

tế phi thị trường thì các nguyên tắc tính toán Giá thông thường sẽ không được
sử dụng và nước nhập khẩu có thể sử dụng các phương pháp tính toán khác
mà mình cho là hợp lý. Trên thực tế, quy định này tạo ra bất lợi rất lớn cho
các nhà sản xuất-xuất khẩu từ nước bị xem là có nền kinh tế phi thị trường.
Pháp luật một số nước để ngỏ khả năng từng nhà sản xuất-xuất khẩu có thể
chứng minh rằng hoạt động kinh doanh của mình hoàn toàn tuân theo các
nguyên tắc thị trường dù cho nền kinh tế nước xuất khẩu bị xem là phi thị
trường.
Nền kinh tế phi thị trường – hay còn được gọi là nền kinh tế kế hoạch
tập trung – là tên gọi được dùng đến cuối những năm 1980, đầu những năm
1990 cho nền kinh tế các nước Trung và Đông Âu, Liên Xô, Trung Quốc, Việt
Nam và một số nước khác, trong đó, các hoạt động kinh tế được dựa trên kế
hoạch hàng năm thông thường do một cơ quan giống như ủy ban kế hoạch
Nhà nước soạn thảo. Đa số các nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung nay đã
chuyển thành nền kinh tế thị trường hoặc đang trong quá trình hướng tới mục
tiêu đó.
18
Các yếu tố phi thị trường chủ yếu hiện nay:
- Nhà nước: thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thực thi quyền lực
nhà nước:
Lập pháp: tạo ra hành làn pháp lý
Hành pháp: thực thi pháp luật, quản lý mọi mặt của đời sống xã hộ
Tư pháp: bảo vệ pháp luật
- Các tổ chức được nhà nước ủy quyền;
- Các tổ chức phi chính phủ.
Những tác động của yếu tố phi thị trường:
Thứ nhất, tình trạng áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá của
mình tại những thị trường các nước chưa công nhận nền kinh tế phi thị trường.
Điều này sẽ gây bất lợi đối với doanh nghiệp trong cạnh tranh với hàng hoá
các nước khác khi thâm nhập các thị trường nói trên.

Ví dụ như thực tế cho thấy, từ năm 2001 đến nay, Việt Nam đã phải đối
phó với 12 vụ kiện chống bán phá giá do Hoa Kỳ và EU tiến hành. Mặc dù
Việt Nam cố chứng minh tính chất thị trường của nền kinh tế, nhưng các vụ
kiện đó Việt Nam vẫn thất bại và chịu mức áp đặt mức thuế bán phá giá. Đây
có thể xem là tác động trực tiếp nhất của tình trạng phi thị trường của nền
kinh tế. Nếu theo cam kết WTO, tình trạng này còn phải kéo dài cho đến
12/2018.
Thứ hai, những yếu tố phi thị trường sẽ làm sai lệch trong phân bổ
đầutư, làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gia tăng chi phí sản
xuất, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Nhiều dự án lớn cấp
quốc gia không hoạt động hiệu quả cũng có nguyên nhân từ sự phân bổ
nguồn lực không hợp lý như các dự án mía đường, xi măng, cảng biển, khu
công nghiệp tập trung Những yếu tố phi thị trường của nền kinh tế còn làm
méo mó môi trường kinh doanh, tạo ra những hiện tượng tiêu cực như tham
19
nhũng, đầu cơ, buôn lâu, làm nản lỏng các nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước
ngoài.
Thứ ba, tính chất phi thị trường của nền kinh tế làm giảm khả năng để
kháng của nền kinh tế trước những cú sốc bên trong và bên ngoài như đối phó
với tình hình tăng giá quốc tế, khủng hoảng tài chính, tín dụng.
Ví dụ biến động kinh tế năm 2004 và cuối năm 2007 đến nay đã cho
thấy nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc một cách bị động vào nền kinh tế thế
giới. Nếu không có những biện pháp đối phó, tình trạng nói trên sẽ dẫn đến
nguy cơ khủng hoảng, đánh mất cơ hội của quá trình hội nhập. Sự hoạt động
kém hiệu quả của các thị trường như tài chính tiền tệ, chứng khoán, bất động
sản, ở một mức độ nào đó, thể hiện sự kém hoàn hảo của thị trường nước ta.
Thứ tư, sự méo mó thị trường sẽ có tác động tiêu cực đến việc giải
quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Việc phân bổ nguồn lực không theo thị trường, môi trường kinh doanh không
bình đẳng, hệ thống tài chính yếu kém, các công cụ điều tiết thị trường hoạt

động kém hiệu qủa là nguyên nhân làm nảy sinh các vấn đề xã hội như bất
bình đẳng về thu nhập, bấp bênh về việc làm, gia tăng các hiện tượng như
tham nhũng, quan liêu, làm mất lòng tin của dân chúng.
2.2.2. Các yếu tố thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán
tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Các yếu tố thị trường có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu của khu vực công:
nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên,
mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung.
20
Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản
xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có
cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua
nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới
bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới
việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể
không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều
chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng
cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo,
cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh
tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà
các yếu tố thị trường nhiều hay ít.
Các yếu tố thị trường chủ yếu hiện nay là:
- Các doanh nghiệp nhà nước: bộ phận quan trong trong khu vực nhà
nước, cung ứng các hàng hóa dịch vụ công ích như cấp thoát nước, bưu
chính…

Hội nghị trung ương lần thứ 3 của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua đã
kết luận phải cơ cấu lại nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng, và đã quyết
định ba lĩnh vực chính của việc tái cấu trúc: đầu tư công; khu vực doanh
nghiệp nhà nước; khu vực tài chính ngân hàng. Đáng mừng và hy vọng đây sẽ
là một cuộc cải tổ kinh tế toàn diện.
Cần rất thực tiễn: chỉ làm những việc có thể làm và mang lại kết
quả; đừng làm những việc không thể dẫu rất mong muốn làm vì chắc chắn dẫn
đến thất bại. Việc tái cơ cấu ba lĩnh vực nêu trên là việc nhà nước phải làm và
có thể làm.
21
- Đầu tư công là do nhà nước tiến hành, nên nhà nước chắc chắn tái cơ
cấu được: sửa quy hoạch; sửa đổi cơ chế phân cấp đầu tư; cắt các khoản đầu
tư không có hiệu quả kinh tế xã hội; bán các khoản đầu tư dang dở cho các
chủ đầu tư khác, v.v…
Với khu vực doanh nghiệp nói chung, nhà nước chỉ có thể tái cơ cấu
chúng một cách gián tiếp thông qua các chính sách mà nhà nước đưa ra hay
sửa đổi (kể cả quy hoạch) nhằm tạo ra các khuyến khích thúc đẩy chúng tự tái
cơ cấu. Sửa luật phá sản, cải tổ hệ thống tư pháp và hoàn thiện khung khổ
pháp luật, tạo dựng niềm tin… là những việc như thế.
Tạo sân chơi bình đẳng để cho khu vực tư nhân phát triển nhanh và
lành mạnh, góp phần vào tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước nói riêng. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, với tư cách
chủ sở hữu, nhà nước còn có thể trực tiếp sắp xếp lại (bán, bán một phần hay
cổ phần hóa, xóa sổ, hợp nhất, v.v…) bên cạnh các chính sách đối với doanh
nghiệp nói chung.
- Khu vực tài chính ngân hàng có nét đặc biệt riêng và nhà nước có thể
qua chính sách nói chung hay can thiệp trực tiếp (kể cả rút giấy phép) đối với
các ngân hàng tư nhân.
Sau khi có sự đồng thuận về việc phải tái cơ cấu, chúng ta phải làm gì?
Vấn đề tiếp theo là tái cơ cấu theo hướng nào và được tiến hành ra sao. Hướng

mà sai hay làm không đúng cách thì tái cơ cấu có thể mang lại kết quả tệ hại.
Thực ra đã có nhiều cuộc tái cơ cấu như vậy, tuy có lẽ không có quy mô
và mức toàn diện như dự kiến lần này. Thí dụ gần đây nhất là việc sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước theo hướng tập trung - thành lập các tập đoàn kinh
tế nhà nước được tiến hành từ 2006.
Hoặc, trong các năm 1997-1999 đã có cuộc sắp xếp lại các ngân hàng
thương mại cổ phần bằng cách xử lý một số ngân hàng yếu kém làm giảm số
22
ngân hàng cổ phần thương mại đô thị từ 25 năm 1997 xuống còn 20 năm
1999.
Rồi từ 2003, và nhất là trong giai đoạn 2005-2008, việc một loạt ngân
hàng nông thôn được nâng cấp lên thành ngân hàng đô thị cùng với các ngân
hàng mới được thành lập, khiến số ngân hàng thương mại cổ phần đô thị tăng
lên 35.
Việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước theo hướng tập trung, tăng
cường sự độc quyền, các tập đoàn được ưu ái và năng lực quản lý kém một
phần do không theo kịp sự tăng về quy mô là ba nguyên nhân chính khiến
chúng hoạt động kém hiệu quả và gây ra các hậu quả tai hại mà Vinashin chỉ
là một thí dụ điển hình.
Việc sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị 1997-1999
có thể coi là sự tái cơ cấu thành công. Song việc ào ạt nâng cấp các ngân hàng
nông thôn (quy mô nhỏ, hoạt động ở vùng nông thôn) thành các ngân hàng đô
thị và lập mới thêm tổng cộng 15 ngân hàng nữa chủ yếu trong giai đoạn
2005-2008, cũng là một kiểu tái cơ cấu theo hướng ngược lại trước, lại gây ra
nhiều hệ lụy mới.
Thí dụ, việc này đã làm cho các khách hàng ở vùng nông thôn mất đi sự
tiếp cận đến dịch vụ ngân hàng, mảng ngân hàng đô thị khá nhiều và cạnh
tranh rất gay gắt và nhiều khi không lành mạnh gây ra nhiều căng thẳng mà
một dấu hiệu là lãi suất liên ngân hàng tăng lên khủng khiếp - 43%/năm ngày
19.2.2008 và gần đây nhất lên 30% ngày 17.10.2011.

Tình hình đã đến mức phải có quyết định tái cơ cấu mảng ngân hàng
thương mại cổ phần đô thị “theo hướng giảm số lượng” như phó Thủ tướng
Vũ Văn Ninh đã nói trong Hội thảo Triển vọng kinh tế thế giới và Chính sách
ứng phó của Việt Nam do Uỷ Ban Giám sát Tài chính Quốc gia tổ chức cùng
với Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Ngân hàng Thế giới ngày 18.10.2011
vừa qua.
23
Qua ba thí dụ về “tái cơ cấu” kể trên có thể thấy việc nhận ra phải tái cơ
cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng, là rất quan trọng, song chưa đủ.
Tái cơ cấu theo hướng nào (nói cách khác là tiến đến các mục tiêu cụ
thể nào) là bước tiếp theo hết sức quan trọng. Định hướng sai có thể gây rắc
rối như 2 trong ba thí dụ trên gợi ý.
2.3. Quản lý khu vực công
2.3.1. Đặc điểm cơ bản của quản lý trong khu vực công
Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói đến
những nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng
quản lý xã hội khác. Với cách tiếp cận như trên, quản lý hành chính nhà nước
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ
chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước luôn mang tính quyền lực nhà
nước và được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước. Tính quyền lực là đặc
điểm cơ bản nhất để phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các
hoạt động quản lý mang tính xã hội khác.
- Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình
và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ
bản. Mục tiêu quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động
thích hợp với những hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt mục tiêu mà
24

Đảng đề ra, các cơ quan hành chính nhà nước cần phải xây dựng chương trình
kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn và tổ chức thực hiện.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành - điều hành trên
cơ sở pháp luật nhưng có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều
hành và xử lý các công việc cụ thể.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định
trong tổ chức và hoạt động.
Nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ nhân dân một cách
thường xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo tính liên tục
để thoả mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân, của xã hội và phải có tính ổn
định cao để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống
chính trị - xã hội nào.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là
một hệ thống thông suốt từ Trung uơng đến cơ sở, cấp dưới phục tùng cấp
trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên (đặc
điểm này có điểm khác với hệ thống các cơ quan dân cử và hệ thống các cơ
quan xét xử).
- Quản lý hành chính nhà nước dưới chế độ XHCN không có sự cách
biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Bởi vì,
thứ nhất, trong quản lý xã hội thì con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng
của quản lý. Mặt khác, dưới chế độ CNXH, nhân dân là chủ thể quản lý đất
nước.
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính không vụ lợi. Hoạt
động quản lý hành chính nhà nước XHCN không chạy theo lợi nhuận mà
nhằm phục vụ lợi ích công, lợi ích nhân dân
25

×