Bài làm
Trong dòng văn học cổ, hầu như bất kì một tác phẩm nào khi được sáng
tác ra cũng mang trong đó những nỗi lòng u uất, những tâm trạng thổn thức
đến bất an. Vâng, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là hơi thở, giá trị của
tác phẩm, là hiện thực của cuộc sống và của xã hội, là những trắc ẩn dường
như đến mênh mông… Và mỗi một tác giả có những nghệ thuật khác nhau
để xây dựng thế giới nội tâm tâm lí, nhưng hãy dừng lại một chút ở Truyện
Kiều, lắng nghe tiếng nói tâm trạng ta sẽ thấy được những nét chấm phá rất
nghệ thuật, rất Nguyễn Du. Nhà thơ đã từng viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Và có lẽ đó là chân lí nghệ thuật thơ của Nguyễn Du. Một thế giới nội
tâm trong thơ ông là những buồn vui trước thiên nhiên và cuộc sống phức
tạp xung quanh, là con người, là câu nói và là hiện thực xã hội trong thơ.
Chính vì vậy không phải ngẫu nhiên mà một nhà soạn sách văn học nào đó
đã nhận xét: Có thể nói trong văn học cổ không có một nhà thơ thứ hai nào
thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du, nhất là nội
tâm nhân vật Thúy Kiều.
Ở đây, tác giả đã viết rằng có thể nói, thật ra có thể nói chỉ là một sự mở
đầu uyển chuyển. Cái tài của Nguyễn Du không phải là có thể mà phải là
khẳng định. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học vĩ đại, và cái sâu sắc nhất
ở đây là nội tâm của Kiều. Một nhân vật, một tác phẩm không thể tuyệt vời
được nếu như nhân vật đó không có nội tâm, tác phẩm ấy không tạo cho
nhân vật cái nội tâm, cái hồn. Bởi nội tâm là thế giới tâm hồn phức tạp đem
lại sức sống của nhân vật, nội tâm cũng chính là cái hồn của tác phẩm, cái
hồn lắng đọng của thơ. Những nội tâm chồng chất đan chéo mâu thuẫn lên
nhau chính là cái hay trong ngòi bút của Nguyễn Du khi viết truyện thơ.
Thật vậy, khi tả đoạn Kiều trao duyên cho Thúy Vân, Nguyễn Du đã
không mở đầu bằng một nàng Kiều u uất mà ông viết về một Thúy Vân vô tư:
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
Có chi ngồi nhẫn tàn canh
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
Thế đấy, tâm trạng của Kiều được bộc bạch qua hành động của Thúy
Vân, được bắt đầu bằng những lời nói của Thúy Vân. Vân đang trong giấc
xuân thế sao Kiều lại ngồi nhẫn tàn canh? Thúy Vân đang cùng chị chuẩn
bị mừng duyên mới, cớ sao Kiều lại ngồi khóc. Tiếng khóc ấy không bật ra,
truyện chỉ qua lời nói của Thúy Vân nhưng ta vẫn cảm nhận, vẫn nhìn thấy
cái thẫn thờ, dằn vặt, ray rứt, bối rối, băn khoăn, xót xa, đau đớn qua cái vô
tư, bình thản của Thúy Vân. Thế đấy ngay cả cái hoàn cảnh mở đầu cho một
bài thơ, chúng ta vẫn có thể nhận thấy cái vô tình rất nghệ thuật của Nguyễn
Du. Cái vô tình ấy là một vô tình có dụng ý, nó càng chứng tỏ cái tinh tế
trong cách diễn tả nội tâm của nhân vật. Vân càng vô tâm để rồi sau mới
thắc mắc, hỏi han, càng làm bật lên nỗi âm thầm đau xót của Kiều. Chính vì
thế không vô tình khi bắt đầu đoạn đời gái lầu xanh, bắt đầu phải tiếp khách
làng chơi của Kiều. Nguyễn Du đã xây dựng tâm trạng nhân vật trong khung
cảnh Khi tỉnh rượu lúc tàn canh. Ngay sau cơn say, ngay giữa lúc canh tàn,
khi cuộc vui đã chấm dứt, khi thời gian đã tàn lụi, tác giả nói về nội tâm của
nàng Kiều. Nội tâm Kiều được thể hiện ngay ở những dòng đầu tiên của
đêm trao duyên và đêm truy hoan. Hai giai đoạn là hai nội tâm khác nhau và
cũng là hai hoàn cảnh khác nhau. Nếu như lúc trao duyên, Kiều day dứt, băn
khoăn được thể hiện qua cô em Thúy Vân, thì ở đây, trong cái cảnh tiếp
khác làng chơi, Nguyễn Du lại đặt nội tâm của Kiều vào đêm khuya, vào
mặt trái của những cuộc vui để thấy được cái chua chát, đau đớn của Kiều.
Cái hay chính là ở đó, chính là ở những khoảnh khắc mà con người trải qua
để rồi từng từ, từng ngữ, từng ý thơ, Nguyễn Du có thể biến nó thành những
nội tâm chồng chất một cách khéo léo và tài tình. Nhà thơ đã viết:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
…Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt nước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình hôn dễ hai bề vẹn hai.
Một lời mở đầu rất dịu dàng, dường như năn nỉ, dường như nài ép của
Kiều. Cậy, Kiều cậy em, Kiều nhờ em chịu lời. Kiều xin, Kiều lạy rồi Kiều
thưa. Từng từ, từng từ được thốt ra là điều cân nhắc và chọn lọc. Cái hay,
cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà
Nguyễn Du diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ
rất chín, Kiều đã quyết định trao duyên mình cho Thúy Vân. Cái băn khoăn
của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng sẽ phải lỡ làng. Cái ray rứt của nàng
là ray rứt cho Thúy Vân phải chắp nối tơ thừa. Nhưng khi ngỏ lời nàng còn
biết cách nói cho dịu lòng Vân, để ép Vân nhưng tại sao, tại sao nàng lại kể
về mối tình đầu thơ mộng, tuyệt đẹp của mình. Đáng lẽ ra trao duyên cho
Vân, nàng phải kể về những cái đẹp, cái tốt, cái đáng thương của Kim
Trọng, đằng này nàng lại khẳng định mối tình của mình. Khi đoạn Kể từ khi
gặp chàng Kim, ta bỗng thấy câu thơ ấy như bị khựng lại so với ý của câu
trên. Đó chính là tâm lí của cô gái, đó chính là nghệ thuật trong ngòi bút của
Nguyễn Du. Sự xúc động, niềm thương cảm đã làm bật dạy tình cảm, tâm
trạng của nàng Kiều. Suy nghĩ, đắn đo để quyết định trao duyên, nhưng khi
thực sự mở lời, nàng không thể kìm được sự xúc động của chính mình. Đó
là một tâm lí bình thường, một diễn biến tâm trạng rất hiển nhiên của con
người. Đem trao một mối tình ai chẳng xót xa. Nếu như lúc đầu lời lẽ nàng
cân nhắc, sắc sảo bao nhiêu thì giờ đây, khi nghĩ về mối tình của mình, nàng
chợt lộ một tâm trạng mâu thuẫn đáng thương:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
Kiều trao duyên cho em, thì chiếc thoa với bức tờ mây là của Vân và
Trọng. Thế mà nàng nghẹn ngào Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Ngay cả nhịp thơ bốn – bốn ở câu thơ này cũng bộc lộ nỗi niềm sâu kính
trong Kiều. Như nghẹn ngào thổn thức bật lên lời Vật này của chung, nàng
luyến tiếc đau khổ xót xa cho những kỷ vật xưa. Và rồi những tình cảm chân
thực ấy, tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng Kiều được Nguyễn Du thể
hiện bằng một từ duy nhất dù (Dù em nên vợ nên chồng). Khi đã quyết định
trao duyên cho Vân, lẽ ra Kiều phải nói nên vợ nên chồng nhưng ở đây lại là
dù em nên vợ nên chồng. Kiều không còn bình tĩnh nữa, một sự lúng túng
trong lời nói rất nhỏ nhặt này đã bộc lộ tài năng của Nguyễn Du. Trong
Kiều lúc ấy sự lưu luyến tiếc thương, khi một nỗi lòng đau đớn xúc động,
một diễn biến tâm lý rất dễ hiểu, rất đáng thương được Nguyễn Du cân nhắc
bằng từng lời nói, từng chữ và đặc biệt là bằng sự Cảm thông sâu sắc lạ
lùng của nhà thơ. Bởi thế mới thấy được cái hay sát thực trong nghệ thuật
miêu tả nội tâm nhân vật của tác giả Truyện Kiều. Trong thơ ông, nghệ thuật
ấy chính là sức cảm thông lạ lùng mà thi hào dành cho tâm trạng những con
người đang yêu, nó ánh lên sự hy sinh cao đẹp và bật lên cái ích kỷ đáng yêu
trong tình yêu. Kiều trao duyên cho em nhưng nàng vẫn mong manh, đấy là
một minh chứng hùng hồn cho sự tài tình có một không hai ở ngòi bút của
Nguyễn Du, và cái tài tình ấy còn là tâm trạng phức tạp, sự khác biệt nội
tâm của nhân vật. Nhà thơ viết:
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Cũng là một nàng Kiều với nội tâm đầy sóng gió của mình, nhưng ở hai
giai đoạn đời là hai sự đúc kết khác nhau, là hai cách diễn đạt khác nhau.
Nếu như ở đoạn trao duyên cô gái trong trắng Thúy Kiều rất bình tĩnh,
bình tĩnh để nhìn lại đời mình, nàng đã không khóc, không kêu, một sự
bình tĩnh đến lạ lùng đến đáng sợ. Bởi tâm trạng nàng giờ đây không còn
là sự mong manh đau khổ của người con gái đầu tiên đối mặt với cuộc đời,
nó trở thành cái đau đớn lạnh giá trong lòng của một người phụ nữ ô nhục
sao, sao, và lại sao (Khi sao, giờ sao, mặt sao) điệp từ ấy như một khúc
điệp, đặt vào lòng người một tâm trạng tủi nhục đến ê chề của Kiều. Nàng
không còn là sự lưu luyến ngây thơ đau khổ, mà nàng đang chán chường
oán hờn. Cũng là đau khổ đấy, cũng là tiếc thương cho những gì đã có đã
qua, một mối tình, một cuộc sống phong gấm rủ là, nhưng ở cô gái Thúy
Kiều còn trướng rủ màn che nó khác với người phụ nữ đã dày gió dạn
sương, đã bướm chán ong chường. Hai tâm trạng đời người với hai nét
bút, hai nét vẽ. Cái khổ nào cũng là tột cùng, cái khổ nào của nàng cũng là
sự tan vỡ tâm hồn. Nhưng khi nghĩ về chính mình ở đoạn trao duyên, sự
đau đớn của nàng bật lên thành lời, một tiếng kêu khẩn thiết của nỗi lòng
đau khổ của một cô gái yếu đuối:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây…
Sự đau khổ, sự ức chế được thốt ra thì khi nghĩ về phận mình, về đời
mình ở chốn lầu xanh, Nguyễn Du để cho nàng đắm chìm trong suy nghĩ,
không cho nàng một tiếng kêu khóc xót xa, có chăng thì đó chỉ là những câu
hỏi thầm oán hận không câu trả lời. Để rồi chính nhà thơ bằng ngòi bút của
mình đã nói lên nỗi đau khổ, tuyệt vọng tột đỉnh của nhân vật:
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót xa trong hội đoạn trường đòi cơn….
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân
Thế đấy, nội tâm của Kiều thể hiện qua tiếng lòng xót thương của
Nguyễn Du. Song sa, vò võ rồi lại phương trời, từng từ, từng từ như luyến
quyện vào nhau để bật lên cái cô đơn ê chề trong hoàn cảnh của Kiều, cho
cái kiếp hồng nhan bạc mệnh của nàng. Không chỉ là một sức cảm thông lạ
lùng của Nguyễn Du dành cho Kiều, mà còn là tình thương to lớn, thương
cho tâm trạng tan nát của nàng. Nguyễn Du đã thốt lên rằng: làm cho, cho
hại, cho tàn, cho cân. Thật sự nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của
Nguyễn Du đã lên đến đỉnh cao trong dòng văn học cổ. Bất kỳ một chi tiết,
một hoàn cảnh nào, Nguyễn Du cũng mượn nó để chứa đựng, để phơi bày
thế giới nội tâm của nhân vật. Thật vậy, trong đau khổ, con người ta hay tự
tìm cho mình một chỗ dựa để vươn lên, và để sống. Ở Kiều, chỗ dựa vững
chắc cho tâm hồn nàng chính là gia đình và người tình. Nhưng nếu như
trong những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, nàng đã sớm nghĩ về Kim
Trọng trong sự lo lắng cho người yêu và có chút gì đó hy vọng thì ở đây
nàng lại nghĩ về gia đình trước.
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà
Dặm nghìn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này
Nàng nghĩ về chữ hiếu, rồi mới nhớ đến chữ tình:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay!
Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp cánh này cho chưa?
Tại sao trong đoạn đời tủi nhục này, nàng lại nghĩ trước hết về chữ hiếu,
về cha mẹ? Đó là một khía cạnh trong nội tâm của Kiều mà Nguyễn Du
khéo tả. Nếu như trước đây, Kim Trọng là sự đau đớn vô vọng. Nàng chỉ
mong được trả nghĩa, nàng tự hỏi Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
Nàng đã chấp nhận số mạng, Kim Trọng chỉ còn là những kỷ niệm bởi nàng
đã là người phụ nữ ê chề chốn lầu xanh. Và cha mẹ, chữ hiếu giờ đây chính
là điểm tựa để nàng sống, để nàng vượt lên những đau khổ hiện tại, và
những nét đẹp tâm hồn ấy, những biểu hiện trong nội tâm của Kiều đã được
Nguyễn Du khai thác triệt để, nó càng chứng tỏ tài năng vượt trội của thi
hào. Nếu như ở Hồ Xuân Hương hay ở Nguyễn Khuyến thế giới nội tâm
cũng được bộc lộ trong từng từ, từng câu, từng hoàn cảnh với những dụng ý
viết rất nghệ thuật thì ở Nguyễn Du, cao hơn một bước, thế giới nội tâm
trong ngòi bút của ông không bó trong một khoảng không gian hẹp, không
giới hạn trong cái nhìn về những bức xúc của người phụ nữ như trong thơ
Hồ Xuân Hương Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn; cũng như không chỉ là những
trăn trở về thời cuộc như của Nguyễn Khuyến. Thế giới nội tâm của Nguyễn
Du trải dài, xuyên suốt một tác phẩm lớn, đi từ cái nhỏ nhất, bình dị nhất
của cuộc sống đến những cái khát quát cao sâu. Trong dòng văn học cổ, thế
giới nội tâm thường là những khái quát về một bức xúc trong xã hội, thì ở
Nguyễn Du là nội tâm của từng con người trong từng giai đoạn đời người,
đó là những tâm lý đời thường dung dị.
Và không dừng lại ở đó, ngòi bút của Tố Như là một ngòi bút thiên phú,
thế giới nội tâm trong thơ Nguyễn Du còn được ngụy trang bằng thiên
nhiên, bằng những nghệ thuật ước lệ tài tình:
Đòi phen gió tựa hoa kèn
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Tám câu thơ là hai đoạn đối nhau, đối về hình thức, nghệ thuật, nội dung.
Tám câu thơ là rất nhiều khung cảnh thiên nhiên. Với bút pháp ước lệ quen
thuộc của mình Nguyễn Du đã bộc lộ tâm trạng nàng Kiều rất sâu sắc. Có
thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Cảnh vật
trong thơ ông bao giờ cũng mang cái tình, cũng in đậm một thế giới nội tâm
ông, thi hào Nguyễn Du, đã mượn thiên nhiên để ước lệ cuộc sống lầu xanh,
một cuộc sống có hoa, có gió, có trăng, có những cảnh đẹp nên thơ; Một
cuộc sống có cái vẻ thanh thản thưởng thức tiếng đàn dưới trăng, chơi cờ,
ngâm thơ trong cái ngạt ngào của hương hoa. Và những nét đẹp đó còn đẹp
hơn trên nền tảng nghệ thuật ước lệ tượng trưng mà Nguyễn Du thường sử
dụng. Nhưng cũng chính những mặt phải tưởng như tao nhã ấy đã đẩy bật
cái nội tâm sâu sắc, cái tâm hồn tinh khiết của Thúy Kiều. Nếu như Nguyễn
Trãi mượn thiên nhiên để gửi vào đó cái u ám của xã hội thì Nguyễn Du sử
dụng thiên nhiên để làm đẹp cho cuộc sống lầu xanh, một xã hội phong kiến
thu nhỏ, bởi cả hai đều đẩy con người vào con đường cùng để rồi chính
những nét đẹp đó bị nội tâm trăn trở, u uất của Kiều đè bẹp. Chính nội tâm
sâu sắc của Kiều:
Vui là vui gượng kẻo là.
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Chính sự bức xúc đau đớn, chính cái ai bế tắc, chính cái vui gượng xót xa
trong nội tâm của Kiều đã công kích, đối nghịch với những nét tao nhã chốn
lầu xanh. Mặt trái cuộc sống được phơi bày, cái tao nhã ấy, những nét đẹp
ấy chỉ là sự giả tạo dối trá gió chỉ tựu và hoa chỉ kề. Nghe cung đàn, thưởng
thức câu thơ, không được xuất phát tiếng nói của tình yêu, mà được cất lên
từ tiếng đàn vui gượng, mới thấy được những tiếng vỗ tay tán thưởng cho tài
năng của nàng hoàn toàn vô nghĩa. Đó chỉ là cuộc sống bạc bẽo, nhầy nhụa
ở chốn lầu xanh. Nội tâm cô đơn u uất của Kiều là lời tố cáo cuộc sống của
nàng mà nàng đang phải sống. Nó bóp nghẹt tiếng đàn, câu thơ của nàng.
Nhưng tâm trạng, nội tâm của nàng không bị vùi lấp bởi sự đau khổ ấy, nó
vẫn vươn lên.
Thế đấy, không thể lẫn, càng không thể so được tài năng của Nguyễn Du.
Sự chán chường, đau khổ, tuyệt vọng của Kiều được Nguyễn Du diễn tả
bằng những bút pháp khác nhau. Để rồi từ những diễn biến tâm lý rất hợp
lý, tinh vi trong cuộc sống, trong tình yêu, Nguyễn Du khái quát thành một
thế giới nội tâm phong phú đầy day dứt băn khoăn, khắc khoải. Chính qua
cái thế giới nội tâm ấy, thi hào Nguyễn Du đã làm bật lên một số đặc điểm
cố hữu: mượn cái đau đớn của nội tâm để tố cáo xã hội, tố cáo những kẻ đã
đẩy con người, đã trút lên con người những tủi nhục ê chề đó.
Thơ Nguyễn Du khi diễn tả thế giới nội tâm có vài cái chung trong thơ
văn cổ, và cũng có những nét riêng sáng tạo. Đó chính là một nghệ thuật
diệu kỳ, và đó cũng là lời minh chứng hùng hồn không có một nhà thơ thứ
hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du. Và
Kiều, thế giới nội tâm của nàng là cơ sở nền tảng cho lời nhận xét ấy!
Trần Thị Bình An
Trường PTTH chuyên Hà Nội – Amsterdam