Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

BÁO CÁO ĐƯA CÁC ĐIỀU KHOẢN MÔI TRƯỜNG VÀO HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA) DỰ KIẾN GIỮA EU – VIỆT NAM CÁC VẤN ĐỀ VÀ VIỄN CẢNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.56 KB, 26 trang )








BÁO CÁO

ĐƯA CÁC ĐIỀU KHOẢN MÔI TRƯỜNG VÀO HIỆP ĐỊNH THƯƠNG
MẠI TỰ DO (FTA) DỰ KIẾN GIỮA EU – VIỆT NAM:
CÁC VẤN ĐỀ VÀ VIỄN CẢNH

MÃ HOẠT ĐỘNG: FTA- 7C

Nhóm chuyên gia:
Anne Chetaille

Võ Trí Thành

Nguyễn Văn Tài












Hà Nội, 11/2011

Báo cáo này được xây dựng với sự hỗ trợ tài chính của Liên minh châu Âu. Quan điểm trong báo cáo là của các tác
giả, không phải là ý kiến chính thức của Liên minh châu Âu hay của Bộ Công Thương


MỤC LỤC


I. TÓM LƯỢC 5
1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN 5
2. NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH 5
2.1 Phân tích các điều khoản về môi trường trong các FTA EU đã ký 5
2.2 Khuôn khổ chính sách và pháp lý về bảo vệ môi trường ở Việt Nam 6
2.3 Hướng tới một FTA thân thiện với môi trường giữa Việt Nam và EU 6
3. CÁC KHUYẾN NGHỊ 7
II. PHÂN TÍCH CÁC ĐIỀU KHOẢN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO CỦA EU 7
1. TỔNG QUAN CÁC ĐIỀU KHOẢN MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC THỎA THUẬN WTO7
2. VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC FTA CỦA EU 9
2.1 Môi trường và các hiệp định thương mại khu vực: xem xét sơ bộ 9
2.2 Cách tiếp cận của Liên minh châu Âu 9
2.3 Quá trình hội nhập Ba cấp 10
3. MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC ĐÀM PHÁN VÀ THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU KHOẢN
MÔI TRƯỜNG TRONG FTA 15
III. ƯU TIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM15
1. TÌNH TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG
MẠI 16
2. KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 17

2.1 Luật bảo vệ môi trường 17
2.2 Các hiệp định môi trường đa phương, khu vực và song phương 19
3. CÁC SÁNG KIẾN VÀ TIÊU CHUẨN TỰ NGUYỆN 19
4. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ MÔI TRƯỜNG 20
5. NHỮNG THÁCH THỨC CƠ BẢN PHÍA TRƯỚC 21
IV. HƯỚNG TỚI MỘT FTA GIỮA EU-VIỆT NAM THÂN THIỆN VỚI MÔI TRƯỜNG21
1. SO SÁNH VỚI MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM 21
2. HÀM Ý VỀ PHÁP LUẬT 22
3. HÀM Ý VỀ KINH TẾ 22
V. KẾT LUẬN 23
VI. PHỤ LỤC 25



4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BKHCN
Bộ Khoa học công nghệ
BKHĐT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
BNNPTNT
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
BTNMT
Bộ Tài nguyên và Môi trường
CARIFORUM
Cộng đồng các nước Caribê
CITES
Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp

EC
Ủy ban châu Âu
EIA
Đánh giá tác động môi trường
EPA
Hiệp định đối tác kinh tế
EU
Liên minh châu Âu
FAO
Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc
FLEGT
Tăng cường luật pháp, quản trị và thương mại lâm sản
FSC
Hội đồng Rừng quốc tế
FTA
Hiệp định thương mại tự do
GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GEF
Quỹ môi trường toàn cầu
NGO
Tổ chức phi chính phủ
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
REACH
Quy định về việc đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế hóa chất

RTA
Hiệp định thương mại khu vực
SEA
Đánh giá tác động môi trường
SIA
Đánh giá tác động bền vững
SPS
Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật
TBT
Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
TRIPS
Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
UNDP
Chương trình phát triển của Liệp Hợp Quốc
UNIDO
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc
WTO
Tổ chức thương mại thế giới

5

I. TÓM LƯỢC
Phần này trình bày tóm lược kết quả phân tích các điều khoản về môi trường trong các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) mà Liên minh châu Âu (EU) ký kết, tổng quan khuôn khổ pháp lý và chính
sách bảo vệ môi trường ở Việt Nam, và đánh giá hàm ý pháp lý và kinh tế đối với Việt Nam nếu
những điều khoản như vậy được đưa vào FTA với EU.
Nhìn chung, đánh giá cho thấy cách EU tiếp cận những vấn đề thương mại, môi trường trong các FTA
dựa trên hợp tác và đối thoại chứ không phải chế tài. Những cơ chế mang tính khuyến khích nhằm đảm
bảo ngành thương mại thân thiện hơn với môi trường được đưa ra cùng với các biện pháp hỗ trợ trên cơ
sở hợp tác. Trong khi đó, Việt Nam đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý và chính sách bảo vệ môi

trường tương đối đầy đủ. Khu vực tư nhân cũng đang hài hòa hoạt động của mình nhằm tuân thủ những
yêu cầu của các đối tác thương mại, với EU là một trong những đối tác quan trọng và quan tâm nhất
đến vấn đề môi trường. Do vậy, hàm ý pháp lý và kinh tế không phải là chính yếu, với điều kiện các
điều khoản về môi trường liên quan đến thương mại được thực hiện song song cùng các biện pháp hợp
tác phù hợp.
1. Phương pháp luận
 Báo cáo này dựa trên việc nghiên cứu rà soát bốn hiệp định thương mại song phương ký kết
sau năm 2006 và thông tin thu nhận được trong các buổi làm việc thảo luận tại Việt Nam và
châu Âu. Những hiệp định thương mại này gồm: Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) giữa EU và
CARIFORUM; Hiệp định hiệp hội liên minh châu Âu EU và Trung Mỹ; Hiệp định hiệp hội
liên minh châu Âu với Columbia và Peru; Hiệp định thương mại tự do giữa EU và Hàn Quốc.
Nhằm hoàn thiện việc phân tích các điều khoản về môi trường trong các FTA mà EU đã ký
kết, tác giả đã thảo luận với đại diện của Tổng cục Thương mại, Tổng cục Môi trường của Uỷ
ban châu Âu là những người tham gia đàm phán FTA. Một loạt các buổi thảo luận với những
bên liên quan chủ chốt bao gồm các Bộ ngành, các Hiệp hội, các nhà tài trợ và các tổ chức
phi chính phủ (NGO) đã được thưc hiện trong 7 ngày làm việc của tác giả tại Việt Nam.
 Các vấn đề thương mại và môi trường dường như vẫn còn mới mẻ đối với các bên liên quan
của Việt Nam. Do vậy, những buổi gặp gỡ thảo luận cũng là dịp để chia sẻ thông tin và nâng
cao nhận thức về những điều khoản môi trường trong các FTA mà EU đã ký. Tuy nhiên, do
vấn đề còn mới mẻ và với số ngày làm việc hạn chế, hàm ý pháp lý và kinh tế cần được đánh
giá thêm. Điều này có thể thực hiện thông qua một nghiên cứu đánh giá tác động bền vững
của FTA trong tương lai giữa EU và Việt Nam, làm cơ sở cho quá trình đàm phán.
2. Kết quả chính
2.1 Phân tích các điều khoản về môi trường trong các FTA EU đã ký
 Cách tiếp cận chung của EU đối với thương mại và môi trường trong các FTA dựa trên hợp
tác và đối thoại chứ không phải chế tài;
 Các điều khoản về môi trường được đưa vào FTA với ba cấp độ. Đó là (i) những quy định
chính của WTO liên quan đến các biện pháp môi trường (sau đây gọi là “các quy định cơ bản
của WTO”); (ii) những biện pháp môi trường ghi trong phần văn bản chính của các mục về
từng lĩnh vực cụ thể như thuận lợi hóa thương mại, dịch vụ hoặc nông nghiệp (gọi là “các

điều khoản WTO cộng”), và (iii) một chương cụ thể về Thương mại và Phát triển bền vững
với một phần chính về môi trường (gọi là “điều khoản WTO bổ sung”);
 Điều khoản WTO bổ sung là một cách tiếp cận rất cụ thể của EU, mặc dù thực chất các điều
khoản có thể thay đổi phụ thuộc vào yêu cầu của nước đối tác;
6

 Mối quan tâm của EU một mặt là các biện pháp môi trường liên quan đến thương mại không
được lạm dụng (nhằm mục đích bảo hộ). Mặt khác, tự do hóa thương mại không được làm
ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển phát triển bền vững và phải dẫn đến việc nâng cao tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường (và xã hội);
 Ngoài nguyên tắc chung này còn có bốn nhóm biện pháp: (i) các biện pháp môi trường liên
quan đến thương mại nhằm tăng cường sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và đầu tư
vào các lĩnh vực hàng hóa dịch vụ thân thiện với môi trường; (ii) các cơ chế có tính thể chế
nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện điều khoản của các chương và quy định trong trường
hợp có bất đồng; (iii) các biện pháp hỗ trợ (điều khoản về hợp tác) và (iv) trách nhiệm và các
biện pháp minh bạch hóa (đối thoại các tổ chức dân sự, rà soát các tác động bền vững);
 Những bài học rút ra từ việc đàm phán và thực hiện các FTA EU có liên quan cho thấy:
o Vấn đề thương mại và môi trường thường có phần mới mẻ đối với một số nước đối
tác. Tiến hành các đánh giá tác động bền vững (SIA) nhìn chung cung cấp thêm
thông tin giúp các nhà đàm phán hiểu rõ tác động tiềm ẩn của tự do hóa thương mại
và xác định các biện pháp tiếp theo có thể thực hiện để đối phó với những tác động
tiêu cực và tăng cường tác động tích cực.
o Các điều khoản môi trường trong các FTA của EU đã nâng cao năng lực thể chế
và năng lực con người trong việc bảo vệ môi trường, củng cố khuôn khổ và quy
trình mang tính thể chế như là các cơ chế minh bạch hóa, sự tham gia của cộng
đồng và tăng cường hợp tác dựa vào các lĩnh vực.
2.2 Khuôn khổ chính sách và pháp lý về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
 Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam
song hành cùng áp lực ngày càng tăng lên môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tự do hóa thương mại trong một số ngành như thủy sản, dệt may và các sản phẩm gỗ có

thể tác động tới môi trường không khí (gia tăng lượng khí thải hiệu ứng nhà kính), sử
dụng tài nguyên đất và sinh thái, chất lượng môi trường, nước sạch và nước thải trừ khi
FTA khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào các hàng hóa và dịch vụ môi trường và thực
hiện các chương trình cấp chứng chỉ;
 Ý thức về việc cần phải đảm bảo quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên dường
như đang được nâng cao. Điều này có thể thấy bởi khuôn khổ chính sách và pháp lý về
môi trường tương đối đầy đủ, cũng như số lượng các tiêu chuẩn mang tính chất tự nguyện
được các cơ sở trong khu vực tư nhân áp dụng trong vài thập niên gần đây đang gia tăng;
 Đối với lĩnh vực tư nhân, tiếp cận thị trường thực sự là một động lực để thực hiện các quy
định về môi trường, chuyển sang tập quán quản lý bền vững hơn và các chương trình cấp
chứng nhận; tuy nhiên năng lực hài hoài hóa các tập quán khác nhau, phụ thuộc vào cấu
trúc của chuỗi cung ứng, quy mô của các đối tượng kinh tế (doanh nghiệp lớn, nhỏ và
vừa, tổ chức cộng đồng,…);
 Những thách thức căn bản đối với Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường là việc đảm
bảo tính nhất quán hơn nữa giữa pháp luật về môi trường, các chương trình và quy định
quốc gia với thực tiễn ở địa phương và nhằm làm giảm sự phân mảnh về mặt thể chế.
2.3 Hướng tới một FTA thân thiện với môi trường giữa Việt Nam và EU
 Dường như không có khoảng cách lớn giữa mối quan tâm của EU và khuôn khổ chính
sách, pháp lý hiện tại về bảo vệ môi trường;
 Do vậy, việc đưa các điều khoản môi trường vào FTA dự kiến không có nghĩa là sẽ gây
ra những thay đổi sâu sắc về khuôn khổ pháp lý. Việt Nam có thể cần thiết lập một cơ
7

chế nội bộ nhằm giám sát thực hiện hiệu quả Chương về Thương mại và Phát triển bền
vững, bao gồm việc chỉ định đầu mối chỉ đạo, đối thoại với các bên liên quan và rà soát
tác động bền vững. Việc này có thể dựa trên các cơ chế thể chế hiện hành như SEA (đánh
giá chiến lược môi trường) và EIA (đánh giá tác động môi trường);
 Mặc dù không thể có một đánh giá toàn diện về tác động kinh tế, về tổng thể Việt Nam
dường như sẽ có lợi nhờ việc đưa vào các điều khoản môi trường. Kinh nghiệm cho thấy
tuân thủ các yêu cầu của EU về bảo vệ môi trường làm tăng cơ hội tiếp cận thị trường,

thậm chí đối với cả những thị trường ngoài EU.
3. Các khuyến nghị
 Việt Nam có thể dùng cơ hội FTA dự kiến với EU để làm rõ trách nhiệm của các Bộ
ngành, cơ quan nhà nước trong việc theo dõi mối liên hệ giữa thương mại và môi trường
trong mối tương quan với việc thực hiện các điều khoản môi trường của FTA;
 Có thể cần đến các biện pháp hợp tác để hỗ trợ các đối tượng kinh tế, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa để thích nghi với các tập quán quản lý bền vững;
 Cân nhắc vấn đề môi trường đối với ngành dệt may và du lịch có thể sẽ có lợi cho Việt
Nam, xét tầm quan trọng về mặt kinh tế và sự phụ thuộc vào chất lượng môi trường cũng
như tài nguyên thiên nhiên của những ngành này.
II. PHÂN TÍCH CÁC ĐIỀU KHOẢN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO CỦA EU
1. Tổng quan các điều khoản môi trường trong các thỏa thuận WTO
Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 vào năm 2003 (Doha), các thành viên WTO đã tái khẳng định
cam kết ủng hộ phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Những mục tiêu này được đưa vào
trong Hiệp định Marrakesh. Trong khi không có thỏa thuận cụ thể nào đề cập tới vấn đề môi
trường, các thành viên có thể chấp nhận các biện pháp liên quan đến thương mại theo quy định
của WTO nhằm bảo vệ môi trường miễn là đáp ứng được một số điều kiện để tránh lạm dụng
những biện pháp đó với mục đích bảo hộ. Những quy định này bao gồm Điều XX trong GATT
về các Ngoại lệ chung và các thỏa thuận WTO chuyên biệt.
Điều XX đưa ra một số hoàn cảnh cụ thể mà theo đó các thành viên WTO có thể được miễn các
quy định của GATT. Hai ngoại lệ liên quan đặc biệt đến bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe
con người. Theo đoạn (b) và (g) của Điều XX, các thành viên WTO có thể giải trình các biện
pháp không tuân theo GATT nếu lần lượt những biện pháp này hoặc là cần thiết để bảo vệ sức
khỏe con người, động thực vật, hoặc liên quan đến việc bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên có
thể bị cạn kiệt.
Ngoài Điều XX, hai thỏa thuận cơ bản của WTO đưa ra phạm vi cho các mục tiêu về môi trường
để giám sát và thực hiện những biện pháp cần thiết liên quan đến thương mại. Hiệp định về Rào
cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) và Hiệp định về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch
động thực vật (SPS) thừa nhận một cách rõ ràng các thành viên có quyền bảo vệ sức khỏe động

thực vật và môi trường ở mức độ họ lựa chọn:
- Hiệp định TBT: nhằm đảm bảo rằng những quy chuẩn sản phẩm, cho dù là mang tính bắt
buộc hay tự nguyện (được gọi là các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật), cũng như quy trình
thủ tục để đánh giá sự tuân thủ những quy chuẩn này, không gây ra những trở ngại không
đáng có cho thương mại. Trong phần giới thiệu, hiệp định này công nhận các thành viên
8

có quyền thực hiện những biện pháp như vậy ở mức độ mà họ thấy phù hợp – ví dụ như
để bảo vệ sức khỏe, cuộc sống của con người, động thực vật, hoặc môi trường. Hơn nữa,
các thành viên được phép thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ của
họ được đáp ứng. Đây được gọi là có “quy trình thủ tục đánh giá tính tuân thủ”.
- Hiệp định SPS: cung cấp những quy định khi nào các biện pháp vệ sinh dịch tễ được
phép và phải đáp ứng những điều kiện nào (như thông báo, minh bạch trong việc thiết lập
các quy định, việc dùng các tiêu chuẩn quốc tế khi phù hợp, …). Các tiêu chuẩn yêu cầu
phải được dựa trên cơ sở khoa học và thực hiện đánh giá rủi ro. Các biện pháp tạm thời
cũng được phép khi các thông tin khoa học hiện hành không đủ để đưa ra các biện pháp
lâu dài.
Các điều khoản môi trường cũng được đưa vào - ở mức độ nhẹ hơn- trong các hiệp định khác
của WTO như Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định về Quyền sở hữu trí
tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs), và Hiệp định về Nông nghiệp.
Kể từ Hiệp định Marrakesh, Ủy ban Thương mại và Môi trường (CTE) vẫn luôn thảo luận về
vấn đề môi trường. Ủy ban CTE thành lập năm 1994 nhằm đảm bảo việc hiểu rõ hơn về mối liên
quan giữa biện pháp thương mại và các biện pháp môi trường. Chương trình làm việc của CTE
đã được rà soát lại và hoàn thiện năm 2003 với Nhiệm vụ đàm phán Doha (xem hộp 1).

Nhiệm vụ đàm phán Doha về Thương mại và Môi trường
“31. Với quan điểm tăng cường hỗ trợ lẫn nhau về thương mại và môi trường, chúng ta thống nhất đàm phán, không
vội đánh giá trước kết quả, về:
(i) Mối liên quan giữa các quy định hiện hành của WTO và các nghĩa vụ thương mại cụ thể trong những hiệp định
đa phương về môi trường (MEA). Các cuộc đàm phán sẽ giới hạn trong phạm vi áp dụng các quy định hiện hành

của WTO và các bên liên quan trong hiệp định MEA. Các cuộc đàm phán sẽ không thiên vị quyền lợi WTO của bất
kỳ thành viên nào mà không phải là bên ký kết hiệp định MEA liên quan;
(ii) Thủ tục trao đổi thông tin thường kỳ giữa Ban Thư ký MEA và các Ủy ban WTO liên quan, và các tiêu chí trao
vị trí quan sát viên;
(iii) Cắt giảm hoặc, nếu phù hợp, xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa và dịch vụ môi
trường.
Chúng tôi xin lưu ý rằng trợ cấp ngành thủy sản là một phần của đàm phán nêu trong đoạn 28.
32. Chúng tôi hướng dẫn Ủy ban Thương mại và Môi trường, trong việc thực hiện các vấn đề trong chương trình
làm việc theo tham chiếu hiện hành, cần chú ý đặc biệt tới:
(i) Tác động của các biện pháp môi trường đối với việc tiếp cận thị trường, đặc biệt liên quan đến các nước đang
phát triển, nhất là những nước kém phát triển nhất trong số này, và trong những trường hợp việc xóa bỏ hoặc cắt
giảm hạn chế hay bóp méo thương mại sẽ có lợi cho thương mại, môi trường và phát triển;
(ii) Những điều khoản liên quan trong Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền sở hữu trí
tuệ; và
(iii) Yêu cầu nhãn mác vì mục đích môi trường.
Giải quyết những vấn đề này cần bao gồm cả việc xác định nhu cầu làm rõ các quy định liên quan của WTO. Ủy ban
sẽ báo cáo lên phiên họp thứ năm của Hội nghị Bộ trưởng, đưa ra kiến nghị, nếu cần, liên quan đến hành động trong
tương lai, bao gồm ngyện vọng của các cuộc đàm phán. Kết quả của việc này cũng như các cuộc đàm phán được
tiến hành theo đoạn 31 (i) và (ii) phải tương thích với bản chất mở và không phân biệt đối xử của hệ thống thương
mại đa phương, không tạo thêm hay xóa bỏ các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các hiệp định hiện hành
của WTO, đặc biệt là Hiệp định về Áp dụng các biện pháp SPS, cũng như thay đổi tính cân bằng của các quyền và
nghĩa vụ này, và sẽ cân nhắc đến những nhu cầu của các nước đang phát triển và các nước kém phát triển.
33. Chúng tôi thừa nhận tầm quan trọng của hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực trong lĩnh vực thương mại và môi
trường đối với các nước đang phát triển, nhất là những nước kém phát triển nhất trong số này. Chúng tôi cũng
9

khuyến khích chia sẻ chuyên môn và kinh nghiệm giữa các thành viên có nguyện vọng rà soát vấn đề môi trường ở
cấp quốc gia. Một bản báo cáo về những hoạt động này sẽ được chuẩn bị cho phiên họp thứ năm.”

2. Vấn đề bảo vệ môi trường trong các FTA của EU

2.1 Môi trường và các hiệp định thương mại khu vực: xem xét sơ bộ
Các tài liệu cho thấy việc đưa các điều khoản môi trường vào văn kiện của các Hiệp định thương
mại khu vực (RTA) ngày càng trở nên quan trọng. Thực tế, tự do hóa thương mại có thể có nhiều
hàm ý quan trọng về môi trường đối với nhiều ngành. Nhìn chung, các điều khoản môi trường
khác nhau cả về hình thức và nội dung. Trong một số hiệp định, môi trường có thể được đề cập
theo các cách khác nhau (mà không loại trừ lẫn nhau):
- Trong phần giới thiệu mở đầu;
- Trong một hiệp định riêng biệt bên lề;
- Trong một chương về môi trường (hoặc phát triển bền vững);
- Trong các mục liên quan của văn kiện.
Sự khác nhau về nội dung phụ thuộc vào liệu việc giải quyết bất đồng có được đề cập hay không,
mức độ chú trọng đến hợp tác về môi trường và các cơ chế hợp tác. Mức độ bắt buộc về mặt
pháp lý của các chương và điều khoản về thương mại và môi trường phụ thuộc vào việc thương
thảo. Một số người cho rằng điều đó còn phụ thuộc vào việc liệu giải quyết bất đồng có được
thiết lập cho các chương và điều khoản này hay không. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có giải
quyết bất đồng nào được khởi xướng
1
.
2.2 Cách tiếp cận của Liên minh châu Âu
Chiến lược Phát triển bền vững của EU đã hình thành khuôn khổ chính sách bao quát mà trong
đó Chiến lược Lisbon và Kế hoạch hành động về môi trường lần lượt tạo thành hai trụ cột chính
về kinh tế và môi trường. Những vấn đề chính yếu của EU bao gồm thay đổi khí hậu, mất cân
bằng sinh thái, khai thác quá mức nguồn tài nguyên biển và những mối quan tâm về sức khỏe
liên quan đến môi trường (chất lượng không khí, các chất hóa học độc hại).
Trong thông điệp “châu Âu toàn cầu” (2006)
2
, Ủy ban châu Âu (EC) đề ra các thành phần cốt lõi
của Chính sách thương mại của Liên minh châu Âu (EU), bao gồm những ưu tiên cho thế hệ
FTA mới. Đề cập tới các vấn đề phát triển bền vững là một trong số những ưu tiên này. Phương
thức tiếp cận mà EC đề xuất là lồng ghép “các chương và điều khoản về môi trường và xã hội

chú trọng đặc biệt đến yêu cầu không nới lỏng những tiêu chuẩn hiện hành để thu hút đầu tư
nước ngoài, tầm quan trọng của việc thực thi, các điều khoản ngoại lệ liên quan đến việc bảo vệ
sức khỏe con người và môi trường, nâng cao năng lực và hỗ trợ kỹ thuật, vai trò của xã hội dân
sự và cộng đồng nói chung trong việc thiết kế, triển khai và thực thi các biện pháp liên quan”.
Theo Ủy ban châu Âu EC, thương mại đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường cũng cần
được tăng cường với các bên đối tác thứ ba của EU và mối liên quan giữa chính sách thương mại
và thay đổi khí hậu có thể sẽ đòi hỏi có những đánh giá thêm
3
. Những mối quan tâm này đều phù
hợp ở cả mức độ đa phương và song phương.

1
George C., “Các hiệp định thương mại khu vực và môi trường: Giám sát thực hiện và đánh giá tác động”, Báo cáo hội
thảo OECD (06/ 2010), Báo cáo công tác của OECD 2011/02.
2
Ủy ban châu Âu, “Châu Âu tòa cầu: cạnh tranh trên thế giới- Đóng góp cho chiến lược tăng trưởng và việc làm vủa
EU”, thông tin của Ủy ban Hội đồng, Nghị viện châu Âu, Ủy ban Kinh tế xã hôi châu Âu và Ủy ban các khu vực
(2006).
3
Xem trang 25, phần 2.3 “Đặt khía cạnh toàn cầu vào trọng tâm chính sách của EU”.
10

Một nét cơ bản nữa trong cách tiếp cận thương mại và phát triển bền vững của EU là tiến hành
Đánh giá tác động bền vững (SIA) song song với quá trình đàm phán
4
. Điều này giúp lồng ghép
vấn đề bền vững vào chính sách thương mại, bằng việc thông báo cho các nhà đàm phán của cả
hai bên những tác động về kinh tế, môi trường và xã hội của tự do hóa thương mại và xác định
những biện pháp tiếp theo nhằm giảm bớt các tác động tiêu cực/gia tăng tác động tích cực.
2.3 Quá trình hội nhập Ba cấp

Những hiệp định khu vực sau đã được phân tích: EU-CARIFORUM (Hiệp định đối tác kinh tế -
EPA), EU - Peru & Columbia (Hiệp định hiệp hội), EU-Central America (Hiệp định hiệp hội), và
EU - Hàn Quốc (FTA). Phân tích những hiệp định này cho thấy có ba cấp hội nhập của các điều
khoản môi trường:
- Cấp 1 – Các điều khoản WTO “cơ bản”: bao gồm các các quy định then chốt của WTO
liên quan đến biện pháp môi trường, cụ thể Điều XX.g, hiệp định TBT và SPS, và các
tham chiếu đến mục tiêu bảo vệ môi trường trong phần giới thiệu mở đầu của hiệp định.
- Cấp 2 – Các điều khoản “WTO+”: các điều khoản môi trường được đề cập trong phần
văn kiện chính (các chương/mục khác liên quan đến thương mại).
- Cấp 3 – Các điều khoản “WTO bổ sung”: đề cập đến các chương dành cho thương mại và
phát triển bền vững (hoặc về Môi trường trong trường hợp FTA với CARIFORUM).
Nội dung của những điều khoản này được nói đến trong phần phụ lục.
Các điều khoản WTO cơ bản:
Bốn hiệp định nhắc tới Điều XX.g một cách rõ ràng (EU-Trung Mỹ) hoặc gián tiếp bằng việc sử
dụng ngôn từ tương tự. Những hiệp định này bao gồm các chương cụ thể về TBT và SPS. Về
TBT, có các tham chiếu đến bảo vệ môi trường trong các điều liên quan đến “quy định kỹ thuật”
(EU-Hàn Quốc), về “Minh bạch và thủ tục thông báo” (EU- Columbia và Peru), (EU-Trung Mỹ),
về “Tiếp thị và nhãn mác” (EU-Trung Mỹ) và về “Trao đổi thông tin” (EU- CARIFORUM).
Hiệp định đối tác kinh tế EU- CARIFORUM cũng đề cập vấn đề bảo vệ môi trường trong những
mục tiêu của chương về TBT, theo đó cả hai bên đều cam kết mạnh mẽ hơn nữa về các vấn đề
môi trường trong điều kiện những trở ngại kỹ thuật trong thương mại được giảm bớt.
Các điều khoản “WTO+”:
Các biện pháp môi trường cũng được lồng ghép trong phần văn bản chính của các hiệp định. Nội
dung và phạm vi của các cam kết giữa các hiệp định là khác nhau, phụ thuộc vào một số yếu tố
kể cả tầm quan trọng của ngành đối với nền kinh tế:
- Dịch vụ: ngoại trừ hiệp định đối tác kinh tế EU-CARIFORUM, các hiệp định quy định
các biện pháp giảm thuế đối với dịch vụ không được hiểu là để các bên né tránh việc triển
khai và thực thi các biện pháp liên quan đến bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên có
nguy cơ cạn kiệt (tài nguyên sống hoặc không) hoặc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
những biện pháp này phải được áp dụng cùng những hạn chế đối với các nhà đầu tư trong

nước, dịch vụ cung cấp hoặc tiêu dùng trong nước. Tham chiếu đến bảo vệ môi trường lại
khác trong Hiệp định đối tác kinh tế EU- CARIFORUM EPA. Chương về Dịch vụ gộp
các biện pháp môi trường cụ thể cho ngành du lịch trong điều 115 về “tăng tác động của
du lịch đối với phát triển bền vững” và điều 116 về “Môi trường và tiêu chuẩn chất
lượng”
5
. Mặc dù các nền kinh tế Caribbean phụ thuộc rất nhiều vào doanh thu từ du lịch,

4

5
Điều 115 có nói “các Bên khuyến khích sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ CARIFORUM vào các chương trình
hỗ trợ tài chính quốc tế, khu vực, tiểu khu vực, song phương và tư nhân nhằm hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững”.
11

ngành này có thể hủy hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường nếu không được
quản lý theo cách bền vững. Điều này có thể cho thấy việc đưa các biện pháp này vào
hiệp định EPA này là hợp lý.
- Nông nghiệp và thủy sản: chương 5 của hiệp định đối tác kinh tế EU-CARIFORUM
EPA về nông nghiệp và thủy sản chú trọng mục đích phát triển bền vững. Chương này
nhấn mạnh tầm quan trọng về kinh tế và xã hội của những hoạt động liên quan đến nông
nghiệp và thủy sản đối với xóa đói giảm nghèo và an ninh lương thực, đồng thời công
nhận cần phải quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững (điều 37 – Mục tiêu).
Chương còn bao gồm các điều khoản hợp tác về các lĩnh vực như “tuân thủ và có các
tiêu chuẩn chất lượng liên quan đến sản xuất và tiếp thị thực phẩm, bao gồm các tiêu
chuẩn liên quan đến các tập quán nông nghiệp đúng đắn về mặt môi trường và xã hội,
thực phẩm sạch và không biến đổi gen”.
- Mua sắm chính phủ: hiệp định EU – Trung Mỹ nêu cụ thể trong chương về mua sắm
đấu thầu rằng các biện pháp về quy chuẩn kỹ thuật sẽ không ngăn cản một thực thể mời
thầu chuẩn bị, sử dụng hay áp dụng quy chuẩn kỹ thuật để tăng cường công tác bảo tồn

tài nguyên thiên nhiên hay bảo vệ môi trường.
- Thuận lợi hóa thương mại: Hiệp định EU-Hàn Quốc công nhận các biện pháp thuận lợi
hóa thương mại “sẽ không làm tổn hại đến việc thực hiện các mục tiêu chính sách hợp
pháp như […]môi trường” (điều 6.1 g).
Những biện pháp này có thể xuất phát từ cả phía EU hoặc đối tác.
Các điều khoản “WTO bổ sung”:
Đưa vào một chương về Thương mại và Phát triển bền vững thể hiện một cách cụ thể hơn cách
tiếp cận của EU về vấn đề này (như trình bày trong thông điệp của EC về chiến lược châu Âu
toàn cầu và cả trong chiến lược Phát triển bền vững EU). Đó là sự tiếp cận khởi đầu của EU. Tuy
nhiên, nội dung của chương này và chi tiết các điều khoản phụ thuộc vào việc thảo luận thêm
nữa với các đối tác thương mại. Những đối tác này cũng có thể đưa các yêu cầu cụ thể vào các
hiệp định, hoặc trong chương này, hoặc trong phần văn kiện chính.
Chương về Thương mại và Phát triển bền vững được dựa trên cơ sở đối thoại và hợp tác.
Chương này kết hợp các biện pháp cụ thể về cả vấn đề xã hội và môi trường, cũng như các biện
pháp liên ngành mang tính thể chế. Mười biện pháp then chốt được xác định nhằm mục đích:
- Biện pháp số 1: Công nhận và thực thi luật pháp, chính sách về bảo vệ môi
trường, bao gồm các hiệp định môi trường đa phương (trong tất cả các FTA của
EU) ;
- Biện pháp số 2: Tăng cường sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên trong lâm
nghiệp và thủy sản (Trung Mỹ, Columbia và Peru);
- Biện pháp số 3: Khuyến khích thương mại có lợi cho phát triển bền vững (Trung
Mỹ, Columbia và Peru, Hàn Quốc);
- Biện pháp số 4: Đề cập các vấn đề môi trường toàn cầu như thay đổi khí hậu và
mất cân bằng sinh thái (Columbia và Peru);
- Biện pháp số 5: Giám sát việc thực hiện Chương phát triển bền vững, thông qua
các cơ chế thể chế ở cả cấp quốc gia và cấp FTA (tất cả các FTA);

Điều 16 quy định các Bên khuyến khích tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường và chất lượng áp dụng cho ngành du
lịch, miễn là không gây những trở ngại không cần thiết cho thương mại.
12


- Biện pháp số 6: Giải quyết bất đồng phát sinh thông qua tham vấn
(CARIFORUM) hoặc qua một ban cố vấn (Hàn Quốc, Trung Mỹ,Columbia và Pe-
ru);
- Biện pháp số 7: Đảm bảo việc hợp tác, bao gồm hỗ trợ ký thuật, trao đổi thông tin,
nâng cao nhận thức của cộng đồng (tất cả các FTA);
- Biện pháp số 8: Tạo thuận lợi cho đối thoại với xã hội dân sự về những vấn đề
liên quan đến việc thực hiện chương này (Hàn Quốc, Trung Mỹ, Columbia và Pe-
ru, CARIFORUM);
- Biện pháp số 9: Trao đổi thông tin khoa học khi chuẩn bị và thực hiện các biện
pháp nhằm mục đích bảo vệ môi trường (tất cả các FTA);
- Biện pháp số 10: Rà soát tác động bền vững (Trung Mỹ, Columbia và Peru, Hàn
Quốc).
Cách diễn đạt và nội dung của các biện pháp số 1, 8, 9 và 10 khá tương đồng trong tất cả các
FTA. Các biện pháp còn lại có ít nhiều khác biệt. Phân tích các hiệp định này cho thấy các điều
khoản môi trường chi tiết hơn trong các hiệp định của EU với Trung Mỹ, Hàn Quốc, Columbia
và Peru, như trong hiệp định đối tác kinh tế (EPA) EU-CARIFORUM. Hiệp định EPA này là
hiệp định đầu tiên sau khi EU có Chiến lược châu Âu toàn cầu. Liên minh EU dựa trên hiệp định
đầu tiên này để đàm phán các chương về Thương mại và phát triển bền vững chi tiết hơn trong
ba hiệp đinh còn lại.
Biện pháp số 1 có thể được coi là một nguyên tắc cơ bản theo đó, một mặt, các biện pháp tự do
hóa thương mại không được làm tổn hại đến các luật môi trường và các hiệp định môi trường đa
phương (MEA), mặt khác, các biện pháp bảo vệ môi trường không được sử dụng nhằm mục đích
bảo hộ. Biện pháp này công nhận quyền của quốc gia trong việc quy định, giám sát. Như vậy rõ
ràng là EU không yêu cầu hài hòa hóa các tiêu chuẩn.
Các biện pháp khác có thể được phân loại như sau:
a. Các biện pháp môi trường liên quan đến thương mại (biện pháp số 2 đến 4)
Những biện pháp này có trong tất cả các hiệp định trừ hiệp định giữa EU –CARIFORUM. Hiệp
định EU-Hàn Quốc chỉ đề cập đến biện pháp số 3. Theo biện pháp này, các bên sẽ nỗ lực tạo
thuận lợi và tăng cường thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hàng hóa và dịch vụ

môi trường (công nghệ thân thiện với môi trường, hàng hóa có nhãn mác sinh thái, hàng hóa
trong các chương trình như thương mại công bằng,…), gồm cả đề cập các hàng rào phi thuế liên
quan.
Hiệp định EU- Trung Mỹ gồm cả hai biện pháp số 2 và 3. Biện pháp số 2 đề cập đến thương mại
lâm sản và thủy sản. Các bên cam kết cùng hợp tác để cải thiện tăng cường luật pháp, quản trị và
thương mại lâm sản (FLEGT), tăng cường thương mại lâm sản hợp pháp và bền vững thông qua
các công cụ bao gồm việc sử dụng hiệu quả CITES (Công ước về buôn bán quốc tế các loài
động, thực vật hoang dã nguy cấp), Hiệp định đối tác tự nguyện FLEGT và các chương trình cấp
chứng chỉ cho các sản phẩm lâm sản được thu hái một cách bền vững. Các bên cam kết tôn trọng
và thực hiện hiệu quả các nguyên tắc của Hiệp định về Thực hiện các điều khoản trong Hiệp ước
của Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Các bên liên quan cùng hợp tác để ngăn chặn đánh bắt cá bất
hợp pháp. Ở mức độ chưa làm được như vậy, các bên liên quan nhất trí có các biện pháp phù hợp
với Hiệp định của Tổ chức nông lương của Liên Hợp Quốc (FAO) nhằm ngăn chặn, hạn chế và
xóa bỏ tập quán đánh bắt cá bất hợp pháp, để thực hiện các kế hoạch kiểm soát, giám sát.
Cuối cùng, hiệp định EU-Columbia và Peru là hiệp định toàn diện nhất bởi nó kết hợp các biện
pháp 2, 3 và 4. Cách diễn đạt biện pháp 2 và 3 có phần hơi khác, nhưng nhìn chung nội dung
không có gì thay đổi. Biện pháp số 4 đề cập vấn đề thay đổi khí hậu và sinh thái. Các bên
13

thống nhất hành động nhằm góp phần giảm thiểu thay đổi khí hậu và đạt mục tiêu hài hòa hóa
thông qua chính sách thương mại và đầu tư, bằng việc tạo điều kiện rỡ bỏ các rào cản thương
mại và đầu tư trong việc tiếp cận và cải tiến, phát triển hàng hóa và dịch vụ môi trường, cũng
như những công nghệ có thể góp phần giảm thiểu và hài hòa hóa. Điều khoản về sinh thái chủ
yếu xử lý những vấn đề quan trọng của các nước này: bảo vệ hiểu biết truyền thống về các cộng
đồng bản xứ, tiếp cận các nguồn lực phái sinh và những lợi ích có được từ việc sử dụng các
nguồn lực này vì mục đích thương mại hoặc mục đích khác. Các bên công nhận những nghĩa vụ
liên quan theo Hiệp ước về đa dạng sinh thái (CBD). Điều này đề cập sự cần thiết phải củng cố
năng lực các thể chế quốc gia chịu trách nhiệm bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn sinh thái.
b. Các cơ chế thể chế nhằm thuận lợi hóa việc thực hiện các điều khoản của chương, và
giải quyết bất đồng có thể phát sinh (biện pháp 5, 6 và 9)

Các hiệp định bao gồm cơ chế bắt buộc đối với quản trị, giám sát việc thực hiện và giải quyết bất
đồng. Tuy nhiên, không có việc rút lại những nhượng bộ thương mại trong quá trình thực hiện
bởi mối quan tâm tập trung vào cách tiếp cận mang tính hợp tác và trách nhiệm cộng đồng
6
.
Nói một cách cụ thể hơn, những cơ chế, thể chế thiết lập để giám sát việc thực hiện giữa các hiệp
định là khác nhau. Chúng thường bao gồm một thể chế ở cấp FTA chuyên trách nhiệm vụ này,
và một nhóm cố vấn quốc gia (ngoại trừ FTA EU-CARIFORUM). Các bên cũng phải xác định
các đầu mối liên hệ trong việc quản trị. Liên quan đến thể chế thiết lập ở cấp FTA, nhiệm vụ của
nó cũng khác biệt phụ thuộc vào hình thức pháp lý. Chẳng hạn, FTA EU-Hàn Quốc thành lập
một Ủy ban về Thương mại và Phát triển bền vững ngoài các ủy ban khác (Ủy ban về thương
mại và dịch vụ, Ủy ban về Các biện pháp SPS,…). Hiệp định thương mại tự do giữa EU và Co-
lumbia và Peru thiết lập một tiểu ban. Tiểu ban này có những quy định về thủ tục riêng và có thể
đệ trình kiến nghị lên Ủy ban Thương mại. FTA giữa EU-Trung Mỹ bao gồm một Ban về
Thương mại và Phát triển bền vững. Liên quan đến EPA với CARIFORUM, một ủy ban tham
vấn đã được thành lập. Ban này có thể đệ trình các bên những kiến nghị bằng lời hoặc bằng văn
bản để phổ biến và trao đổi thông tin về những thông lệ tốt nhất liên quan đến những vấn đề của
chương này. Vì vậy, nhiệm vụ của Ban này không mạnh như Ủy ban Thương mại và Phát triển
bền vững theo FTA giữa EU và Hàn Quốc.
Cơ chế giải quyết tranh chấp được thiết lập trong các hiệp định dựa trên hợp tác và đối thoại
chứ không phải chế tài. Giữa các hiệp đinh có sự khác nhau. Theo hiệp định EU-Hàn Quốc, một
bên có thể đề nghị tham vấn bên còn lại về bất kỳ vấn đề gì liên quan đến lợi ích hai bên phát
sinh trong khuôn khổ chương Thương mại và Phát triển bền vững. Nếu một bên thấy vấn đề nào
cần thảo luận thêm thì có thể kiến nghị triệu tập Ủy ban Thương mại và Phát triển bền vững để
xem xét vấn đề. Quyết định của ủy ban sẽ được công bố. Ủy ban có thể tham vấn một hoặc cả
hai Nhóm cố vấn trong nước. Cuối cùng, trừ khi các bên đồng ý cách khác, một bên có thể yêu
cầu triệu tập một Ban chuyên gia để xem xét vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng qua tham
vấn chính phủ. Ban chuyên gia sẽ trình bày một bản báo cáo với các bên trong vòng 90 ngày kể
từ khi chuyên gia cuối cùng được lựa chọn. Những khuyến nghị của các chuyên gia sẽ được Ủy
ban Thương mại và Phát triển bền vững giám sát. Báo cáo sẽ được cung cấp cho nhóm cố vấn

trong nước của các bên.
Hiệp định EU-Trung Mỹ cũng bao gồm thủ tục tương tự: tham vấn chính phủ, kiến nghị lên Ban
thương mại và phát triển bền vững và thành lập Ban chuyên gia, là giải pháp cuối cùng. Tuy
nhiên, các điều khoản chi tiết hơn liên quan đến nhiệm vụ, thành phần, quy định thủ tục và báo
cáo của ban chuyên gia. Các chuyên gia sẽ trình bày với các bên báo cáo ban đầu, bao gồm
những khuyến nghị, có tính đến tình hình kinh tế xã hội của các bên. Các bên có thể có ý kiến
bằng văn bản gửi ban chuyên gia trong vòng 30 ngày sau khi có báo cáo. Báo cáo cuối cùng của

6
George C., Serret Y., Hiệp định thương mại khu vực và môi trường, Báo cáo công tác của OECD, 2011/01
14

ban chuyên gia sẽ bàn đến những vấn đề tranh cãi trong văn bản kiến nghị của các bên. Báo cáo
cuối cùng được nộp không muộn hơn 180 ngày kể từ ngày ban chuyên gia được thiết lập, và phải
được công bố trong vòng 15 ngày kể từ ngày báo cáo được đưa ra. Ủy ban sẽ giám sát việc thực
hiện hành động mà các bên đã quyết định.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong hiệp định với Columbia và Peru là sự kết hợp hai hiệp định
giữa EU với Hàn Quốc và Trung Mỹ. Có một số khác biệt nhỏ về thời gian cho phép chuyên gia
ra báo cáo (60 thay vì 90 ngày). Các chuyên gia phải nộp bản ban đầu để lấy ý kiến và một bản
cuối cùng giải quyết bất đồng các bên đưa ra. Báo caó cuối cùng phải được đưa ra trong vòng 45
ngày kể từ khi có bản báo cáo ban đầu. Báo cáo không bắt buộc phải công bố hay trình bày với
các ban cố vấn trong nước.
Cuối cùng, thủ tục trong hiệp định đối tác kinh tế EU-CARIFORUM thì không chi tiết về giải
quyết tranh chấp như vậy và cách diễn đạt nhẹ nhàng hơn. Hiệp định đưa ra khả năng để các bên
kiến nghị tham vấn với bên còn lại không quá 3 tháng. Nếu vấn đề không giải quyết được thông
qua tham vấn, bên nào cũng có thể triệu tập một Ủy ban cố vấn. Ủy ban có 3 tháng để đưa ra báo
cáo cho các bên. Báo cáo này sẽ được cung cấp cho Ủy ban Tham vấn CARIFORUM-EC.
c. Các biện pháp hỗ trợ (biện pháp số 7)
Liên quan đến hợp tác và kỹ thuật, các biện pháp này bao gồm trao đổi thông tin, hỗ trợ kỹ
thuật, đối thoại chính sách và nâng cao năng lực nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện các

biện pháp môi trường liên quan đến thương mại như đã nêu trên. Những biện pháp này được
diễn giải trong điều khoản liên quan của chương về Thương mại và Phát triển bền vững
(CARIFORUM
7
, Columbia và Peru). Chúng cũng có thể được nêu ngắn gọn cùng với các biện
pháp chi tiết và mang tính bổ trợ trong phần phụ lục (Hàn Quốc) hoặc trong phần về Hợp tác của
các Hiệp định hiệp hội hoặc Hiệp định đối tác kinh tế (CARIFORUM, Trung Mỹ, Columbia và
Peru). Trong các hiệp định không nói đến nguồn tài chính nào dành cho các biện pháp hợp tác
như vậy. Các biện pháp hợp tác này chỉ xác định những ưu tiên và đưa ra cơ cấu để mở rộng thảo
luận trong các văn bản chương trình hợp tác. Nguồn tài chính cho hợp tác về các vấn đề thương
mại và môi trường có thể được nước đối tác xác định trong văn bản hợp tác chiến lược với EU.
Vì vậy, điều này cho phép có được sự nhất quán hơn nữa với các chương trình hợp tác về môi
trường.
d. Trách nhiệm và các biện pháp minh bạch (biện pháp số 8 và 10)
Phần diễn giải và nội dung liên quan đến đối thoại với xã hội dân sự và rà soát tác động bền
vững rất tương đồng trong tất cả các hiệp định ngoại trừ hiệp định với CARIFORUM. Trong
hiệp định này, không có điều khoản cụ thể về rà soát tác động bền vững và đối thoại xã hội dân
sự. Tuy nhiên, có một điều khoản về tính minh bạch đề cập đến việc tham vấn với các đối tượng
ngoài khối nhà nước. Đối với các hiệp định khác, điều khoản về rà soát tác động bền vững quy
định mỗi bên cần cam kết rà soát, giám sát và đánh giá tác động của việc thực hiện hiệp định đối
với phát triển bền vững. Phải có đối thoại xã hội dân sự mỗi năm một lần (trừ khi các bên thống
nhất cách khác). Hiệp định EU-Trung Mỹ quy định mỗi cuộc họp của Ủy ban sẽ gồm một phiên
trong đó các thành viên báo cáo về việc thực hiện đối thoại xã hội dân sự. Trong hiệp định EU-
Hàn Quốc, các quan điểm, ý kiến hoặc kết quả đối thoại xã hội dân sự có thể trực tiếp trình lên
các bên hoặc thông qua các nhóm cố vấn trong nước. Cuối cùng, theo hiệp định EU-Columbia và
Peru, phải có tóm tắt các phiên họp. Đối lập với hiệp định EU-Trung Mỹ và EU-Hàn Quốc,
không có gì liên quan đến tiểu ban cũng như cơ chế chia sẻ thông tin với các nhóm cố vấn trong
nước.

7

Trong chương về Môi trường liên quan đến CARIFORUM.
15

Ba loại biện pháp sau cùng cũng áp dụng cho các điều khoản xã hội. Chúng nhằm mục đích tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hiệu quả và minh bạch các biện pháp môi trường (và xã
hội) liên quan đến thương mại.
3. Một số bài học rút ra từ việc đàm phán và thực hiện các điều khoản môi trường
trong FTA.
Liên minh châu Âu EU hiện đang đàm phán các FTA khác, ví dụ với Malaysia, Ấn Độ và Singa-
pore. EU dựa trên những FTA trước đây, làm cơ sở cho việc đàm phán. EU định dùng cách tiếp
cận giống nhau đối với các vấn đề thương mại và phát triển bền vững, và sẽ vẫn dựa trên hợp tác
và đối thoại.
Đáng chú ý là các vấn đề thương mại và môi trường có thể mới mẻ đối với các nước đối tác, như
Malaysia hay Hàn Quốc. Đây là lần đầu họ đàm phán về những vấn đề này. Tuy nhiên, các đánh
giá tác động bền vững có thể cung cấp thêm thông tin giúp các nhà đàm phán hiểu rõ tác động
tiềm tàng của các FTA đối với môi trường và thiết kết các biện pháp tiếp theo để đối phó với
những tác động này. Chẳng hạn, đánh giá tác động bền vững thực hiện cho FTA EU-ASEAN
nhấn mạnh các vấn đề bền vững đối với hầu hết các nước ASEAN, gồm vả Việt Nam. Đánh giá
đề xuất các biện pháp chính sách liên quan đến trụ cột về môi trường
8
. Đánh giá đề xuất gộp một
Chương về thương mại và phát triển bền vững, và những điều khoản liên quan trong các chương
khác của hiệp định FTA liên quan đến các ngành cụ thể như du lịch, dệt may, thủy sản,… Một
số biện pháp tiếp theo cũng được xác định như khuyến khích sản xuất thân thiện với môi trường,
tăng cường đánh giá tác động môi trường,…Một trong số các biện pháp này có thể phù hợp trong
trường hợp FTA tương lai giữa Việt nam và EU và sẽ được nói đến chi tiết hơn trong báo cáo.
Đánh giá tác động bổ sung có thể cần thiết cho FTA giữa EU và Việt Nam.
Các nước khác như các nước Trung Mỹ, Columbia và Peru, và Singapore đã bàn về mối liên
quan giữa thương mại và môi trường trong FTA với Hoa Kỳ. Chẳng hạn, Singapore đã có cơ cấu
thể chế để đàm phán những vấn đề này. Họ đã quen hơn với quá trình này.

Bốn hiệp định nghiên cứu trong báo cáo này tương đối mới nên việc đánh giá toàn diện việc thực
hiện hiệp định cũng khó. Tuy nhiên, có thể rút ra một số bài học. Một báo cáo mới đây của
OECD cho thấy các điều khoản môi trường trong các FTA của EU đã cải thiện năng lực thể chế
và nhân lực trong việc bảo tồn môi trường, củng cố các quá trình và khuôn khổ thể chế như cơ
chế minh bạch hóa, sự tham gia của cộng đồng, tăng cường hợp tác phụ thuộc vào các ngành
9

Tăng cường các hoạt động hợp tác về môi trường và nâng cao năng lực là việc quan trọng để có
sự tham gia hiệu quả của các bên liên quan trong khối nhà nước và tư nhân.
III. ƯU TIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM
Như đã nói ở trên, các hiệp định FTA của EU nhìn chung kết hợp ba cấp độ điều khoản. Với các
quy định cơ bản của WTO, cả hai bên đều cam kết với tư cách là thành viên của WTO. Hiệp
định FTA dự kiến giữa EU và Việt Nam được cho là sẽ có những quy định này. Mặt khác,
“WTO cộng” và “WTO bổ sung” tham vọng hơn và có thể dẫn đến những cam kết mới bổ sung
đối với cả hai bên so với các quy định của WTO. Tuy nhiên, trong khi việc đưa vào một chương
về Thương mại và Phát triển bền vững (WTO bổ sung) được cho là yêu cầu cụ thể của phía EU

8
Đánh giá tác động bền vững thương mại của FTA giữa EU-ASEAN, Báo cáo cuối cùng, Tập 1 – Những kết quả chính
và các đề xuất, TARDE07/C1/01 – Lot 2, ECORYS, IIDE, CES, MEKONG Economics, INACON, Rajah & Tann
LLP, 2009.
9
Ibid. George C. (2011 a)

16

thì lại khó có thể biết được bên nào yêu cầu có các biện pháp môi trường trong phần văn kiện
chính (WTO cộng). Với tình hình như vậy, báo cáo lựa chọn tập trung vào các điều khoản WTO
bổ sung và đánh giá xem liệu các điều khoản có thể chấp nhận được đối với Việt Nam và với

điều kiện nào. Phân tích chỉ đề cập đến trụ cột môi trường của chương về Thương mại và phát
triển bền vững.
Phần sau sẽ trình bày tổng quan những ưu tiên về môi trường ở Việt Nam và khuôn khổ chính
sách, pháp lý hiện có để bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể, phần tổng quan sẽ
trình bày những vấn đề môi trường cơ bản ở Việt Nam là gì, đặc biệt trong mối tương quan với
thương mại, đã có chiến lược, chương trình, luật pháp, quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn mang tính
tự nguyện nào về bảo vệ môi trường, được thực hiện hiệu quả đến đâu và những thách thức
không chỉ đối với Việt Nam trong việc đảm bảo sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững hơn.
Phần tổng quan này tạo ra cơ sở để đánh giá những hệ lũy tiềm tàng của việc kết hợp Chương về
Thương mại và phát triển bền vững (xem Phần 4).
1. Tình trạng môi trường và các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại
Việt Nam là một trong những nước đa dạng sinh thái nhất trên thế giới. Là một phần của điểm
nóng Ấn-Miến
10
, với các khu vực bản xứ đặc hữu về sinh vật, đặc biệt là khu vực đồi núi và cả
rừng nguyên sinh vùng trũng nằm biệt lập ở một số nơi và các lưu vực sông.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, đô thị hóa và công nghiệp ở Việt Nam đã song hành
cùng áp lực ngày càng tăng đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Theo Chiến lược quốc
gia về bảo vệ môi trường đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 của Chính phủ, Việt Nam đã
thấy môi trường bị xuống cấp và mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng trong năm thập kỷ trở lại
đây. Sự phân mảnh môi trường sống do tăng dân số, chặt phá khai thác rừng, xây dựng đường
xá, phát triển nông nghiệp, đã góp phần làm mất dần hệ sinh thái
11
. Hệ sinh thái học nông
nghiệp bị đe dọa bởi việc lạm dụng các hóa chất nông nghiệp và thuốc trừ sâu, tập quán nông
nghiệp và chặt phá rừng không đúng cách đã dẫn đến suy thoái tài nguyên đất và ô nhiễm. Việc
quản lý và xử lý không hiệu quả nước thải và chất thải sinh hoạt và công nghiệp gây ra vấn đề ô
nhiễm nguồn nước nghiêm trọng (nước trên bề mặt, nước ngầm và nước biển). Chất lượng không
khí bị ảnh hưởng bởi các tạp chất và khí gây ô nhiễm ở hầu hết tất cả các khu vực thành thị và
khu công nghiệp. Trong một thập kỷ nữa, lượng khí CO

2
thải ra sẽ tăng gấp đôi và sẽ tiếp tục
tăng thêm. Khí thải chủ yếu từ công nghiệp chế tạo, xây dựng và vận tải. Việt Nam phải đối mặt
với những thách thức như các nước láng giềng ASEAN. Du lịch, đánh bắt cá quá mức và áp lực
do sử dụng đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên đất tự nhiên, cùng với chặt phá rừng bất
hợp pháp làm tăng áp lực lên các nguồn tài nhiên thiên nhiên của ASEAN
12
.
Mối liên quan giữa tự do hóa thương mại và bảo vệ môi trường là vấn đề gây tranh luận; có
người cho rằng tự do hóa thương mại có tác động tiêu cực với môi trường, có người cho rằng thu
nhập có được từ tự do hóa thương mại có thể dùng để tăng mức độ bảo vệ môi trường. Báo cáo
đánh giá tác động bền vững EU-ASEAN cho thấy tự do hóa thương mại hơn nữa có thể có tác
động tiêu cực đối với môi trường không khí (tăng khí thải nhà kính), sử dụng đất và sinh thái,
chất lượng môi trường, nước sạch và nước thải trừ khi FTA khuyến khích đầu tư nhiều hơn nữa
vào hàng hóa và dịch vụ môi trường và thực hiện các chương trình cấp chứng chỉ. Không xét
đoán trước những kết quả của đánh giá tác động bền vững có thể thực hiện bổ sung về FTA giữa
EU và Việt Nam, những tác động như vậy có thể xảy ra ở Việt Nam.

10
Điểm nóng là một khu vực sinh địa có nguồn sinh thái bị đe dọa bởi con người
11
Giám sát môi trường Việt Nam, 2005, Ngân hàng thế giới
12
Xem báo cáo Đánh giá tác động bền vững EU-ASEAN
17

Đóng góp của xuất khẩu của Việt Nam cho GDP là 64, 7%
13
. Liên minh châu Âu là một trong
những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Xuất khẩu sang EU chủ yếu là:

- Dệt và may mặc;
- Máy móc và thiết bị vận tải;
- Sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là cá.
Mặc dù các sản phẩm gỗ không chiếm nhiều trong nhập khẩu của EU từ Việt Nam (1,2% chứ
không phải 21,4% như ngành dệt may) nhưng lại chiếm tới 1,1% tổng nhập khẩu của EU.
Với báo cáo này, thông tin thu được từ các buổi gặp gỡ với đại diện các ngành dệt may, sản
phẩm gỗ, thủy sản. Nếu không có quy trình và phương pháp sản xuất hợp lý, tác động môi
trường do những hoạt động này gây ra nhìn chung có thể nói như sau:
- Da giầy và dệt may: tác hại môi trường chủ yếu là ô nhiễm đất và nước do các tạp chất
của quá trình nhuộm;
- Các sản phẩm gỗ: những mối đe dọa đối với môi trường do chặt phá là sự hủy hoại rừng
tự nhiên và rừng bị xuống cấp. Liên quan đến quá trình chế biến gỗ, ô nhiễm nước và đất
là mối nguy hại chính với môi trường;
- Thủy sản: việc biến vùng chàm đước thành khu vực để nuôi cá, tôm, cua và tảo rất nguy
hại với hệ sinh thái ven biển. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản đòi hỏi phải phá bỏ
những khu chàm đước rộng lớn và để lại chất kháng sinh cùng dư lượng hóa chất dùng
cho việc nuôi trồng trong đất và nước làm hủy hoại các khu chàm đước lân cận. Sản
phẩm thủy sản có giá thành cao khiến hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh
14
.
Đối với nuôi và khai thác cá da trơn (Pangasius), những vấn đề môi trường chủ yếu là
kiểm soát dòng chảy ra nguồn nước ngọt. Cuối cùng, tập quán đánh bắt cá gây nguy hại
(dùng lưới vét) và khai thác quá mức nguồn cá cũng là những hiểm họa với môi trường.
Như đã đề cập trong đánh giá tác động bền vững của hiệp định FTA EU-ASEAN, tự do hóa
thương mại hơn nữa trong những ngành này có thể làm gia tăng áp lực đối với môi trường (mất
cân bằng sinh thái, chất lượng không khí và nước xuống cấp,…). Tuy nhiên, đó cũng có thể là cơ
hội để cải thiện bảo vệ môi trường, với điều kiện quy định chất lượng và công nghệ thân thiện
với môi trường được tăng cường. Điều này cũng có thể là trường hợp liên quan đến tác động của
FTA EU-Việt Nam.
2. Khuôn khổ pháp lý và chính sách về bảo vệ môi trường

Ý thức về việc cần phải đảm bảo quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên có vẻ như đang
được nâng cao. Điều này có thể thấy qua một số luật và quy định kỹ thuật của Chính phủ và
những tiêu chuẩn mang tính tự nguyện do một số cơ sở trong khối tư nhân áp dụng trong thập kỷ
qua. Theo thời gian, một hệ thống thể chế về bảo vệ môi trường cùng một khuôn khổ tương thích
đã được thiết lập.
2.1 Luật bảo vệ môi trường
Kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững (1991-2000) là văn bản chính
thức đầu tiên công nhận tính cấp thiết của vấn đề và lập chương trình hành động. Chương trình
hành động 21 của Việt Nam năm 2004 gồm một số các chiến lược mà các Bộ ngành, địa phương
và các tổ chức và cá nhân liên quan phải theo sát. Các chiến lược then chốt khác là Chiến lược

13
Số liệu thương mại song phương giữa Việt Nam-EU và thương mại với thế giới, 2011.
14
Thực vật trong nước: Những khuôn khổ pháp lý đối với rừng đước ở Việt Nam, trong chuỗi nghiên cứu sáng kiến pháp
lý quốc gia của Katoomb, GTZ, SNV, (2010).
18

quốc gia bảo vệ môi trường đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 (2003) và Chiến lược định
hướng phát triển hướng tới phát triển bền vững (2004).
Phần này trình bày những điểm nổi bật của luật bảo vệ môi trường (năm 2005, thay thế luật năm
1993).
Luật này gồm 15 chương: (1) các điều khoản chung; (2) các tiêu chuẩn môi trường; (3) đánh giá
chiến lược môi trường, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường; (4) bảo tồn
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách có tính toán; (5) bảo vệ môi trường trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ
15
; (6) bảo vệ môi trường ở trung tâm đo thị và khu dân cư; (7)
bảo vệ môi trường biển, sông và các nguồn nước khác; (8) quản lý chất thải; (9) bảo vệ, ứng phó
đối với các sự cố môi trường, biện pháp cải thiện tình trạng ô nhiễm và khắc phục môi trường;

(10) giám sát và thông tin môi trường; (11) nguồn lực cho việc bảo vệ môi trường; (12) hợp tác
quốc tế trong việc bảo vệ môi trường; (13) trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với vảo vệ môi trường; (14) thanh tra, xử lý vi phạm,
xử lý khiếu nại, tố cáo liên quan đến môi trường và đền bù thiệt hại môi trường, và (15) các điều
khoản thực thi.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (BTNMT) có nhiệm vụ chung về chiến lược, xây dựng pháp lý và
chính sách liên quan đến môi trường, đánh giá tác động môi trường, nghiên cứu về môi trường,
các tiêu chuẩn chất lượng môi trường, thu thập và xử lý số liệu. Bộ cũng đồng thời giám sát và
hỗ trợ các tỉnh thực hiện chính sách và quy định quốc gia. Tổng cục Môi trường Việt Nam
(VEA) là một cơ quan trực thuộc BTNMT, cố vấn và hỗ trợ BTNMT trong lĩnh vực quản lý môi
trường và cung cấp dịch vụ công theo pháp luật. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên môi
trường (ISPONRE) là cơ quan cố vấn của BTNMT về xây dựng luật, chính sách và chiến lược.
Các Bộ ngành khác tham gia vào việc thực hiện các luật và chính sách môi trường, cụ thể là Bộ
Kế hoạch và Đầu tư (BKHĐT), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (BNNPTNT), Bộ Công
Thương (BCT), Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Công an. Các Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh huyện cũng chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Các chương từ 4 đến 9 đề cập các vấn đề môi trường cụ thể. Các chương này kết hợp các nguyên
tắc, liệt kê những nghĩa vụ chung và những nghĩa vụ của các bên liên quan (nhà nước, các tổ
chức và cá nhân, các đơn vị kinh tế,…).
Ngoài những biện pháp này, pháp luật yêu cầu tiến hành Đánh giá chiến lược môi trường
(SEA) để hỗ trợ chính phủ trong việc thiết lập các chiến lược phát triển tương lai, quy hoạch sử
dụng đất, bảo vệ rừng, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trong các khu
vực liên tỉnh hoặc liên vùng,…Nghiên cứu SEA đã được đưa ra vào năm 1994. Những nghiên
cứu này phải do các cơ quan được giao nhiệm vụ xây dựng các dự án liên quan thực hiện. Những
báo cáo SEA phải được thẩm định bởi một Hội đồng gồm đại diện của cơ quan phê duyệt dự án,
các Bộ ngành, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Nhà nước, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến dự
án, các chuyên gia có kinh nghiệm và đại diện các cơ quan, cá nhân do cơ quan chức năng quyết
định. Ngoài nghiên cứu SEA, các chủ dự án cũng phải có Đánh giá tác động môi trường (EIA)
tỉ mỉ cho những dự án quan trọng với quốc gia, để xây dựng cơ sở hạ tầng trong các khu kinh
tế,…Thủ tục thẩm định và phê duyệt các báo cáo EIA cũng được nêu chi tiết trong luật.

Luật pháp dùng đến hệ thống giám sát môi trường, hệ thống được thiết lập năm 1994. Hệ
thống này gồm các cơ sở khảo sát và giám định mẫu, phòng thí nghiệm, các trung tâm phân tích
mẫu cũng như các chương trình giám sát môi trường. Trách nhiệm chung giữa: (i) BTNMT phụ
trách tổ chức giám sát tình trạng môi trường quốc gia; (ii) các Bộ ngành và cơ quan ngang Bộ,
các đơn vị thuộc nhà nước chịu trách nhiệm giám sát tác động môi trường của các hoạt động và

15
Các hoạt động gồm các làng nghề thủ công, bệnh viện, giao thông, nhập khẩu và vận chuyển hàng hóa, du lịch, nuôi
trồng thủy sản, khai khoáng,…
19

ngành nghề do họ quản lý; (iii) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý trình trạng môi trường trong
địa phương mình và (iv) các nhà quản lý hoặc phụ trách hoạt động sản xuất. Có các báo cáo Tình
trạng môi trường cấp quốc gia và cấp tỉnh và báo cáo Tác động của các đơn vị chi nhánh. Các
báo cáo gồm thông tin về chất lượng nguồn nước, không khí, đất, tài nguyên thiên nhiên, môi
trường ở thành thị,…Đến năm 2005 đã có 25 cơ sở tiến hành giám sát ở 300 địa điểm. Những địa
điểm này gồm những điểm nóng như các khu công nghiệp, các thành phố lớn và các vùng sinh
thái môi trường nhạy cảm. Luật cũng định rõ những biện pháp nhằm đảm bảo việc công bố
những thông tin môi trường và đối thoại về các vấn đề môi trường.
Nguồn tài chính cho việc bảo vệ môi trường là của nhà nước, quỹ của các tổ chức và cá nhân,
tiền bồi thường thiệt hại về môi trường, thuế môi trường,…Quỹ Môi trường Việt Nam thành lập
năm 2002 là tiền từ ngân sách nhà nước, tiền bồi thường, đóng góp tự nguyện,…Quỹ này nhằm
cung cấp cho nhà đầu tư của các dự án môi trường những khoản vay ưu đãi, trợ cấp hoặc cùng
góp vốn. Ngân sách dành cho BTNMT và chi phí cho bảo vệ môi trường chiếm 1% GDP của
Việt Nam.
Có các văn bản khác nhau tùy theo phạm vi và hình thức pháp lý. Các văn bản này có thể mang
tính liên ngành và bao quát về bảo vệ môi trường, hoặc tập trung vào các vấn đề môi trường
(sinh thái, thay đổi khí hậu, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ rừng, sử dụng bền vững nguồn tài
nguyên biển,…). Chúng bao gồm những chiến lược, kế hoạch hành động, chương trình quốc gia,
luật, nghị định,…Những chiến lược của các ngành liên quan cũng đề cập những mối quan tâm về

môi trường (Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2015 và Định hướng đến năm 2020,
Chiến lược phát triển nông thôn mới,…)
16
.
2.2 Các hiệp định môi trường đa phương, khu vực và song phương
Việt Nam đã thông qua 15 hiệp định MEA, gồm Công ước về buôn bán quốc tế các loài động,
thực vật hoang dã nguy cấp (CITES), Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu
(UNFCCC), Công ước về Đa dạng sinh thái (CBD), Công ước Basel về Kiểm soát di chuyển
chất thải độc hại, Công ước Ramsar về khu vực đầm lầy,… (xem phần Phụ lục).
Việt Nam cũng đã thông qua Kế hoạch quốc tế nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ đánh bắt
cá lậu và trái phép (IPOA-IUU) theo Tổ chức FAO.
Việt Nam hiện đang đàm phán một hiệp định đối tác tự nguyện (VPA) với EU về FLEGT. Công
tác đàm phán có thể sẽ hoàn tất vào năm 2010. Theo hiệp định VPA, Việt Nam đồng ý rằng các
sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ được xuất sang EU sau khi các sản phẩm xác định được tính hợp
pháp.
3. Các sáng kiến và tiêu chuẩn mang tính tự nguyện
Thông tin thu được sau khi trao đổi với đại diện hiệp hội ngành thủy sản, sản phẩm gỗ, dệt may
cho thấy khối tư nhân sẵn sàng thích nghi với thị trường nước ngoài đang thay đổi, và đặc biệt là
các quy định của EU và mối quan tâm của người tiêu dùng châu Âu về bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, năng lực thích nghi của các ngành phụ thuộc vào quy mô và cơ cấu tổ chức của từng
ngành.
Do xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp, Việt Nam cần tuân thủ các quy định nhập khẩu. Tiếp
cận thị trường là động lực thực sự để thực thi các quy định SPS và tiến tới tập quán quản lý bền
vững hơn. Trường hợp ngành cá và thủy sản là một ví dụ thành công. Luật về nghề cá đã được
thông qua năm 2003. Ưu tiên dành cho việc tiếp cận thị trường EU. Luật này bao gồm các quy

16
Xem thêm chi tiết về luật và quy định về môi trường của Việt Nam: />regulations.asp#VietNam
20


định về nhà máy chế biến cá, đánh bắt cá bất hợp pháp
17
. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu thủy sản
năm 1990. Xuất khẩu hiện nay vào khoảng 5 tỷ USD. Ngoài các quy định, khối tư nhân đã có
một số tiêu chuẩn mang tính tự nguyện của các nước đối tác như tiêu chuẩn Global GAP
18
vốn
được áp dụng rộng rãi tại châu Âu. Ngành nuôi và khai thác cá da trơn đã có khả năng hài hòa
hóa phương pháp và quy trình sản xuất. Việc này khó khăn và tốn kém hơn đối với ngành tôm
vốn có quy mô nhỏ và tập quán nuôi và đánh bắt truyền thống. Truy xuất nguồn gốc trong ngành
này là khó khăn.
Đối với ngành sản xuất sản phẩm gỗ, yêu cầu nâng cao nhu cầu đối với sản phẩm gỗ có Chứng
chỉ của Hội đồng Rừng quốc tế (FSC) từ các công ty xuất khẩu đồ nội thất của Việt Nam tăng
cao và đồ nhập khẩu cao cấp từ nước ngoài hầu như đáp ứng được hoàn toàn yêu cầu này. Chiến
lược rừng của Việt Nam nhằm mục tiêu chứng nhận 30% diện tích 4,48 triệu hecta rừng khai
thác trong thập niên tới. Tuy nhiên, phần lớn 2,5 triệu hecta diện tích rừng đồn điền lại do các hộ
trồng rừng nhỏ quản lý, đa phần là các hộ nông dân nghèo. Trên 100 công ty ở Việt Nam có
Chứng nhận Chuỗi giám hộ (COC) của FSC, cho phép họ nhập khẩu, chế biến và bán sản phẩm
gỗ có chứng nhận FSC ở nơi khác. Tuy nhiên, đến năm 2007 chỉ một công ty nhận được chứng
nhận cho sản xuất gỗ ở Việt Nam. Do vậy, phần lớn sản phẩm gỗ có chứng nhận FSC xuất đi từ
Việt Nam lại được làm từ gỗ không phải của Việt Nam.
Cuối cùng, đối với ngành dệt may thì không có quy định cụ thể nào ở Việt Nam. Họ phải áp
dụng các quy định kỹ thuật trong Luật Bảo vệ môi trường, đề cập đến quản lý nước thải và chất
thải rắn. Ngành này cố gắng để không ngừng thích ứng với các yêu cầu của EU như Quy định về
việc đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế các hóa chất (REACH)
19
. Các tiêu chuẩn môi trường
mang tính tự nguyện cũng được áp dụng như như ISO 9001
20
, ISO 14001 (hệ thống quản lý môi

trường
21
), hoặc tiêu chuẩn Oeko-Tex 100
22
.
4. Hợp tác quốc tế về môi trường
Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ một số nhà tài trợ song phương, hoặc qua các khoản tài trợ
(Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển, Anh,…) và/hoặc các khoản vay (chủ yếu từ Nhật
và Pháp). Hỗ trợ đa phương chủ yếu là từ Quỹ môi trường toàn cầu
23
(GEF), Chương trình phát
triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), và Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), Tổ
chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) và ngân hàng phát triển châu Á.

17
Xem
18
GLOBALG.A.P là một cơ quan trong khối tư nhân đề ra các tiêu chuẩn mang tính tự nguyện cho chứng nhận quy trình
sản phẩm nông nghiệp (bao gồm cả nuôi trồng thủy sản) trên toàn cầu.
19
Mục tiêu chính của REACH là nhằm đảm bảo việc bảo vệ sức khỏe con người và môi trường khỏi những rủi ro mà hóa
chất có thể gây ra, tăng cường các phương pháp kiểm định thay thế, lưu thông các chất tự do trên thị trường nội địa,
củng cố năng lực cạnh tranh và sáng kiến cải tiến. Một số hóa chất dùng trong ngành da và dệt may có nằm trong
REACH.

20

ISO 9001 là một trong những tiêu chuẩn trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đối với hệt thống quản lý chất lượng gồm (1)
một bộ các thủ tục dành cho các quá trình then chốt trong kinh doanh, (2) các quá trình giám sát nhằm đảm bảo hiệu
quả, (3) lưu trữ đầy đủ, (4) kiểm tra lỗi ở đầu ra và sửa chữa nếu cần thiết, (5) rà soát định kỳ các quá trình riêng lẻ và

hệ thống chất lượng nhằm đảm bảo hiệu quả, và (6) tạo điều kiện để không ngừng cải tiến. Chứng nhận ISO 9001
không đảm bảo rằng công ty có sản phẩm chất lượng hảo hạng. Nó chỉ chứng nhận rằng công ty đã làm theo thủ tục
như đã quy định theo tiêu chuẩn.
21
Mục tiêu của ISO 14001 là khuyến khích các tổ chức giải quyết một cách có hệ thống những tác động môi trường do
hoạt động của mình gây ra và thiết lập một phương thức tiếp cận chung đối với hệ thống quản lý môi trường. Những
tiêu chuẩn này dự kiến sẽ được áp dụng cho các doanh nghiệp với mọi quy mô trên thế giới. Chúng cung cấp một
khuôn khổ để tổ chức những nhiệm vụ cần thiết cho việc quản lý môi trường hiệu quả.
22
Oeko-Tex là hệ thống chứng nhận kiểm định toàn cầu nhằm phát hiện những chất độc hại trong sản phẩm dệt may tiêu
dùng. Hệ thống được xây dựng năm 1992 do một nhóm cá tổ chức dệt may của châu Âu. Đó là tiêu chuẩn vượt trội trên
toàn cầu trong lĩnh vực nhãn mác thân thiện với môi trường dành cho sản phẩm dệt may, với hơn 48000 giấy chứng
nhận được cấp trên toàn thế giới kể từ khi bắt đầu.
23
GEF-4 (2006-2010), GEF tài trợ khoảng 19 triệu USD cho Việt Nam (về sinh thái và thay đổi khí hậu).
21

Khoảng 5% viện trợ ODA cho môi trường dành cho tăng cường thể chế (bao gồm điều phối
chính sách môi trường, đánh giá SEA, giáo dục và nâng cao nhận thức,…), các chương trình tiêu
chuẩn hóa,…Về bảo tồn sinh thái, chi phí trung bình hàng năm chiếm 2% tổng viện trợ ODA cho
lĩnh vực môi trường
24
.
5. Những thách thức cơ bản phía trước
Theo thời gian, một hệ thống thể chế về bảo vệ môi trường cùng với khuôn khổ pháp lý tương
tích đã được hình thành. Điều này đã góp phần làm giảm ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi
trường. Tuy nhiên, hệ thống này đang phải đối mặt với một số thách thức:

- Đảm bảo sự nhất quán và kết nối tốt hơn nữa với nhu cầu của các thành phần kinh tế
và với thực tế của các địa phương;

- Tạo điều kiện cho việc phổ biến thông tin rộng rãi hơn và thu thập số liệu cho mục
đích giám sát môi trường;
- Giảm sự phân mảnh trong thể chế, sự phân mảnh này làm các hoạt động thanh tra
giám sát thiếu hiệu quả.
IV. HƯỚNG TỚI MỘT FTA GIỮA EU-VIỆT NAM THÂN THIỆN VỚI
MÔI TRƯỜNG
Như đã đề cập ở trên, các điều khoản môi trường trong những FTA mà EU đã ký kết dựa trên cơ
sở hợp tác và khuyến khích. Những điều khoản này nhằm đảm bảo việc tự do hóa thương mại sẽ
không làm ảnh hưởng đến bảo vệ môi trường (biện pháp 1) và nhằm tăng cường các biện pháp
thương mại ủng hộ việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi
trường (biện pháp số 2 đến 4). Các biện pháp khác kèm theo tạo thuận lợi cho việc thực thi hiệu
quả và minh bạch.
Trong bối cảnh này, có vẻ như khuôn khổ luật pháp và chính sách ở Việt Nam phù hợp với cách
tiếp cận này và thậm chí còn có thể được hưởng lợi.
1. So sánh với môi trường pháp lý và chính sách ở Việt Nam
Khuôn khổ pháp lý và chính sách của Việt Nam khá toàn diện, đề cập những vấn đề môi trường
then chốt mà EU quan tâm. Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để tuân thủ những chỉ thị, quy định của
EU và nhu cầu của người tiêu dùng EU về bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, số lượng những tiêu
chuẩn mang tính tự nguyện cũng tăng, cho thấy mức độ tiếp cận thị trường đặc biệt là thị trường
EU là động lực thay đổi đối với khối tư nhân. Theo đó, những biện pháp môi trường liên quan
đến thương mại đề xuất trong các FTA có thể sẽ nhất quán với những tiêu chuẩn mang tính tự
nguyện mà khối tư nhân đang áp dụng và trong các hiệp định khu vực/song phương đang đàm
phán hoặc Việt Nam đã ký (Tăng cường luật pháp, quản trị và thương mại lâm sản, đánh bắt cá
bất hợp pháp và trái quy định, ).
Liên quan đến vấn đề trách nhiệm, khung khổ pháp lý hiện hành có chỗ dành cho đối thoại với
những đối tượng ngoài khối nhà nước. Vì vậy, đối thoại xã hội dân sự tập trung vào những vấn
đề môi trường có thể sẽ khả thi. Tuy nhiên, những đối tượng ngoài khối nhà nước (khối tư nhân,
NGO, ) dường như vẫn chưa thực sự ý thức được cũng như chưa được phổ biến về những vấn
đề tự do hóa thương mại và bảo vệ môi trường. Nâng cao nhận thức và phổ biến thông tin về
những vấn đề này có thể là cần thiết để họ có thể tham gia một cách hiệu quả trong đối thoại về


24
Giám sát môi trường Việt Nam, 2005, Ngân hàng thế giới.
22

vấn đề thương mại và môi trường trong FTA giữa EU và Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam có thể
dựa vào kinh nghiệm trong việc đánh giá môi trường chiến lược và mạng lưới giám sát môi
trường để rà soát và đánh giá tác động của việc thực thi hiệp định FTA về vấn đề môi trường.
2. Hàm ý về pháp luật
Việc đưa các điều khoản môi trường vào hiệp định FTA tương lai với EU không dẫn đến việc
thay đổi một cách sâu sắc về khuôn khổ pháp lý. Hàm ý về mặt pháp luật cũng sẽ chỉ là thứ yếu
nếu so với “những vấn đề mới” khác (quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, đầu tư và dịch
vụ, cạnh tranh). Chúng sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sự lựa chọn cơ chế thể chế mà sẽ được đàm
phán để giám sát việc thực thi Chương về Thương mại và Bền vững, một mặt giải quyết những
bất đồng, mặt khác đảm bảo trách nhiệm và minh bạch (rà soát tác động bền vững, đối thoại xã
hội dân sự).
Việt Nam trước hết cần thiết lập một quy trình điều phối nội bộ. Điều này có nghĩa là lập một
văn phòng làm đầu mối với mục đích thực hiện Chương về Thương mại và Phát triển bền vững.
Chẳng hạn văn phòng này có thể đặt trong BTNMT hoặc BCT. Có thể sẽ phải thành lập một
nhóm cố vấn quốc gia trong trường hợp EU và Việt Nam đưa nó vào một điều khoản về cơ chế
thể chế. Thành phần của nhóm này có thể được xác định trong hiệp định hoặc tùy các bên. Một
điểm hỏi đáp và nhóm cố vấn sẽ có hàm ý ban hành một nghị định (hoặc sửa đổi luật) để hợp
pháp hóa những thay đổi về mặt thể chế này.
Việc thực thi một điều khoản về rà soát tác động bền vững trong khuôn khổ FTA tương lai với
EU có thể dựa trên SEA về Hệ thống giám sát môi trường và quy trình EIA hiện hành. Như đã
chỉ ra trong Đánh giá tác động bền vững FTA ASEAN-EU, tăng cường đánh giá tác động môi
trường và giám sát có thể là biện pháp hữu hiệu tiếp theo. Khi cần thiết, điều này có nghĩa là xác
định các chỉ số giám sát mới mà có thể được đáp ứng đầy đủ (ô nhiễm, chặt phá rừng, mất cân
bằng sinh thái, khí thải nhà kính,…). Điều này cũng phát triển (hoặc cải thiện) cơ chế chia sẻ
thông tin giữa BTNMT và các Bộ ngành khác liên quan đến những vấn đề thương mại và môi

trường (các quy định và quy trình tiêu chuẩn hóa, nghiên cứu về hàng hóa và dịch vụ môi
trường, thực thi những chương trình sử dụng bền vững nguồn tài nguyên,…) đặc biệt là
BNNPTNT, BCT và BKHCN.
Cuối cùng, việc thiết lập đối thoại xã hội dân sự cũng đòi hỏi phải được hợp pháp hóa thông qua
điều chỉnh pháp luật.
3. Hàm ý về kinh tế
Những chuyên gia được hỏi ý kiến trên toàn cầu cho rằng những biện pháp môi trường liên quan
đến thương mại (chứng nhận thân thiện với môi trường, chương trình quản lý bền vững, ) có thể
mang lại lợi ích về tiếp cận thị trường vào EU và vào các nước đối tác thương mại khác quan
tâm đến vấn đề môi trường. Bên cạnh đó, tự do hóa thương mại với EU có thể mang lại những
tác động môi trường tiêu cực. Cũng cần phải nhắc lại là báo cáo SIA của FTA giữa ASEAN và
EU đã đề xuất các biện pháp chính sách để đối phó với những tác động này. Những cân nhắc và
điều khoản liên quan có thể được lồng ghép trong các phần khác của FTA về các lĩnh vực vụ thể
như du lịch, dệt may, thủy sản,…Việt Nam có thể quan tâm đến việc cân nhắc kết hợp những
biện pháp như vậy trong FTA tương lai với EU, xét đến tầm quan trọng về mặt kinh tế và cả sự
phụ thuộc vào chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên của những ngành này. Các biện
pháp tiếp theo Việt Nam có thể cần phải cân nhắc thêm như tăng cường hàng hóa và dịch vụ thân
thiện với môi trường.

23

Kinh nghiệm hiện tại về chứng nhận thân thiện với môi trường (đối với dệt may, thủy sản và sản
phẩm gỗ) cho thấy những quy trình này rất tốn kém. Việc thực hiện tập quán quản lý bền
vững đòi hỏi cả sự hỗ trợ tài chính lẫn sự linh động về thời gian. Các ngành dệt may, thủy sản và
đồ gỗ, đối tượng nghiên cứu của báo cáo này khá là đa dạng về tổ chức chuỗi cung ứng, quy mô
doanh nghiệp và nhà máy. Trong trường hợp ngành gỗ, sản xuất chủ yếu do các doanh nghiệp tư
nhân và có quy mô nhỏ. Chi phí để có được một chứng nhận (thủ tục đánh giá) có thể vào
khoảng 70.000 USD. Sau đó, còn có các chi phí quản lý khác (kiểm toán thường niên có thể tốn
khoảng 15.000 USD). Ngành nuôi tôm cũng chủ yếu là các hộ nông dân quy mô nhỏ mà đối với
họ việc bán tôm mang lại thu nhập thêm. Tập quán đánh bắt của họ thường gây ra những tác hại

môi trường đối với khu vực rừng đước, hệ sinh thái ven biển và tài nguyên biển. Kết quả là, cần
theo một cách tiếp cận khác để xét tình hình cụ thể và thực tế ngành mà có thể được giải quyết
trong Chương về thương mại và phát triển bền vững. Điều này có thể được cụ thể hóa trong
trong các biện pháp hợp tác liên quan đến thương mại và môi trường của FTA. Lĩnh vực hàng
hóa và dịch vụ môi trường có vẻ còn mới mẻ và đang nổi ở Việt Nam. Các chương trình và dự
án quốc gia về tiết kiệm năng lượng và công nghệ xanh (do UNIDO hỗ trợ) gần đây đã được
khởi xướng. Hàng hóa và dịch vụ môi trường được tăng cường đến mức độ nào cũng được kết
nối với những chính sách về hợp tác công-tư và FDI. Chính phủ yêu cầu các công ty nước ngoài
tập trung vào các lĩnh vực sử dụng công nghệ sạch. Hiệp định FTA EU-Việt Nam có thể mang
lại cơ hội khuyến khích hợp tác công-tư giữa các trung tâm nghiên cứu và các ngành công
nghiệp của EU và Việt Nam. Tự do hóa thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường có
thể là một cơ hội ở cấp song phương để khuyến khích nhanh hơn việc sử dụng công nghệ sạch.
Các quỹ tạm thời cần phải được thiết lập để giúp nâng cấp công nghệ sản xuất.
V. KẾT LUẬN
Phân tích các điều khoản môi trường trong các FTA mà EU ký kết gần đây cho thấy ba cấp độ.
Những FTA này bao gồm các quy định của WTO (Điều XXg), SPS và TBT, các điều khoản
“WTO cộng” (các điều khoản được đưa vào phần văn kiện chính trong mục liên quan đến những
lĩnh vực cụ thể) và các điều khoản “WTO bổ sung” (đưa vào một chương về Thương mại và Phát
triển bền vững). Cấp độ sau này rất đúng với cách tiếp cận của EU, trong khi cấp độ thứ hai có
thể là do các nước đối tác, tùy thuộc vào tầm quan trọng của lĩnh vực (nông nghiệp, dịch vụ,
thuận lợi hóa thương mại,…). Các chương về Thương mại và Phát triển bền vững bao gồm các
biện pháp môi trường liên quan đến thương mại, cơ chế thể chế để tạo thuận lợi cho việc thực thi
các điều khoản của chương, và giải quyết bất đồng phát sinh, các biện pháp hỗ trợ, trách nhiệm
và các biện pháp minh bạch.
Khuôn khổ pháp lý và chính sách về bảo vệ môi trường ở Việt Nam cũng như sự gia tăng các
tiêu chuẩn mang tính tự nguyện trong lĩnh vực này cho thấy Việt Nam không chỉ sẵn sàng giải
quyết những vấn đề môi trường mà còn sẵn sàng tuân thủ yêu cầu của những đối tác thương mại
chính như EU. Tuy nhiên, vẫn có có những quy trình nhằm đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả
của các chiến lược, luật, quy định và các chương trình quốc gia liên quan đến bảo vệ môi trường
cũng như các lĩnh vực phối hợp các điều khoản môi trường (nông nghiệp và phát triển nông

thôn, khoa học công nghệ,…).
So sánh tình hình bảo vệ môi trường của Việt Nam với các điều khoản của Chương về Thương
mại và Phát triển bền vững cho thấy không có khoảng cách lớn và những điều khoản này có thể
phù hợp với chính sách, cơ chế thể chế và những sáng kiến mang tính tự nguyện của Việt Nam.
Đưa các điều khoản này vào FTA tương lai giữa EU và Việt Nam có thể không mang lại những
hệ lụy to lớn xét về quan điểm kinh tế và pháp lý. Việt Nam có thể dùng cơ hội của FTA tương
lai với EU để làm rõ trách nhiệm của các Bộ ngành liên quan đến phối hợp thương mại và môi
trường, trong mối tương quan với việc thực hiện các FTA có các điều khoản môi trường. Tăng
cường các biện pháp thương mại ủng hộ bảo vệ môi trường, theo các bên liên quan, là cơ hội để
24

tiếp cận thị trường EU cũng như thị trường quốc tế. Tuy nhiên, các biện pháp hỗ trợ về trao đổi
thông tin, hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực có thể là cần thiết. Những biện pháp này cần
được xây dựng để giải quyết những nhu cầu và đặc tính cụ thể của từng chuỗi cung ứng (dệt
may, da giầy. đồ gỗ, thủy sản,…). Tùy theo tình hình thể chế được thống nhất để giám sát việc
thực thi FTA và giải quyết bất đồng, những thay đổi nhỏ có thể vận hành trong khuôn khổ pháp
lý. Việc thực hiện rà soát tác động bền vững có thể cũng đòi hỏi dựa theo những SEA và Hệ
thống giám sát môi trường hiện hành. Cuối cùng, các hoạt động nâng cao nhận thức và giáo dục
về các vấn đề thương mại, môi trường của các đối tượng ngoài khối nhà nước cũng có thể phù
hợp để họ có thể tham gia một cách hiệu quả vào đối thoại xã hội dân sự, với điều kiện các bên
đồng ý về điểm này.
Bên cạnh Chương về Thương mại và Phát triển bền vững, Việt Nam có thể muốn cân nhắc đưa
các điều khoản môi trường vào phần văn kiện chính của FTA. Điều này có thể phù hợp với,
chẳng hạn như ngành dệt may và du lịch là hai ngành quan trọng đối với Việt Nam. Tuy nhiên,
điều này còn phụ thuộc vào mức độ hai ngành này được đề cập trong công tác đàm phán tương
lai.








25


VI. PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC HIỆP ƯỚC VÀ HIỆP ĐỊNH MÔI TRƯỜNG
VIỆT NAM ĐÃ THÔNG QUA
TÊN HIỆP ƯỚC
NGÀY
DUYỆT
Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường của con người, 1972


Công ước về Bảo vệ Di sản tự nhiên và di sản văn hóa thế giới, 1972
19/10/1987
Công ước về Thông báo sớm tai nạn hạt nhân (IAEA), 1985
30/10/1987
Công ước về Hỗ trợ trong trương fhowj tai nạn hạt nhân hoặc tình trạng phóng xạ khẩn
cấp (IAEA), 1986

29/11/1989
Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES), 1973
20/01/1994

Công ước Vienna về Bảo vệ tầng Ozone, 1985
- Nghị định thư Montreal về các chất gây nguy hại cho tầng Ozone, 1987
26/04/1994


Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển, 1992

Công ước của Liên Hợp Quốc nhằm chống sa mạc hóa (UNCCD), 1992

Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu (UNFCCC), 1992
16/11/1994
Nghị định thư Kyoto đối với Công ước khung củ Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu, 1992
16/02/2005
Công ước về đa dạng sinh thái (CBD), 1992
- Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh thái đối với công ước về đa dạng sinh thái
16/11/1994
Công ước Basel về Kiểm soát vận chuyển và xử lý các chất thải độc hại qua biên giới
(BASEL), 1989
13/03/1995
Tuyên bố quốc tế về Sản xuất sạch
22/09/1999
Công ước Stockholm về các chất hữu cơ gây ô nhiễm (POP), 2001
10/08/2006
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), 1982
23/06/1994


×