Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

455 Nghiên cứu các biện pháp mở rộng & phát triển kinh doanh ở các Doanh nghiệp thương mại nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.12 KB, 57 trang )

lời mở đầu

Sau hơn mười năm đổi mới, nước ta đã trải qua một quá trình biến đổi mạnh
mẽ đầy ấn tượng trong lịch sử kinh tế. Nền kinh tế vĩ mô tăng trưởng, tốc độ tăng
GDP 8% -10%/ năm.Trong đó, lĩnh vực dịch vụ thương mại có mức tăng bình quân
cao nhất 12%. Xuất khẩu tăng nhanh, đời sống nhân dân ngày một tăng cao. Trong
quá trình đó, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã có những chuyển biến tích
cực, không ngừng hoàn thiện để vươn lên và tự khẳng định trên thương trường.
Song hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp
phải cạnh tranh quyết liệt. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước không còn được
bao cấp như trước nên phải dựa vào khả năng của chính mình, phải năng động sáng
tạo trong việc lựa chọn kinh doanh, trong tạo dựng các mối quan hệ làm ăn. Vì vậy
không ít doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng kinh doanh khó khăn, lúng túng và bị
động, chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh và phát triển kinh
doanh hiệu quả. Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả kinh doanh còn chưa được xem xét đúng mức, vì thế các giải pháp đẩy
mạnh và phát triển kinh doanh còn thiếu tính khả thi.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế Việt Nam và kinh tế khu vực ngày càng mở
rộng, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn lúng túng trước hàng loạt vấn đề. Doanh
nghệp phải làm gì trên lộ trình Việt Nam tham gia AFTA và hiệp định ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT)? Doanh nghiệp phải làm gì trong việc hợp tác và
phân công lao động quốc tế gữa các thành viên ASEAN? Doanh nghiệp phải làm gì
để không còn phải chấp nhận gia công mà tự mua nguyên liệu bán thành phẩm trên
thị trường quốc tế? Doanh nghiệp phải làm gì để giảm phụ thuộc vào các thị trường
trung gian chen chân vào các thị trường cuối cùng? Rõ ràng, các doanh nghiệp đang
rất cần phía Nhà nước, mà cụ thể trong lĩnh vực thuơng mại là các doanh nghiệp
thương mại nhà nước mở đường, hướng dẫn và hỗ trợ để họ thích nghi dần với trào
lưu tự do hoá thương mại trong nền kinh tế thế giới.
Về phương diện lý luận, vấn đề kinh doanh thương mại nói chung và các
phương hướng giải pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp
thương mại nhà nước nói riêng còn nhiều ý kiến khác nhau và thiếu sự thống nhất


trong đánh giá.
Vì tất cả những lý do trên, việc nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát
triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay là hết
sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề
tài:"Nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp
thương mại nhà nước".
1
Nội dung đề tài gồm các phần:
- Lời mở đầu.
-Chương I: Cơ sở lý luận chung về kinh doanh của doanh nghiệp thương
mại.
-Chương II: Thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà
nước trong giai đoạn hiện nay.
-Chương III: Một số biện pháp nhằm mở rộng và phát triển kinh doanh ở các
doanh nghiệp thương mại nhà nước.
-Kết luận.
Vấn đề mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà
nước là một vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi không chỉ kiến thức mà còn phải có kinh
nghiệm thực tế phong phú mới có thể giải quyết đầy đủ. Vì vậy đề án không thể
tránh khỏi có những thiếu sót. Sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn sinh
viên trong khoa sẽ là rất quí báu giúp tôi trau dồi thêm kiến thức.
Qua đây, tôi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS -TS Đặng Đình Đào giảng viên khoa thương mại trường đại học Kinh tế quốc
dân Hà nội đã giúp tôi hoàn thành đề án này.
2
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
I. BẢN CHẤT CỦA KINH DOANH THƯƠNG MẠI:
1.Bản chất kinh doanh thương mại:

Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá, quốc tế ngày càng phát triển mạnh cùng với
sự phát triển đa dạng của hàng hoá trên phạm vi toàn thế giới. Hoà nhận với xu thế
ấy, Việt Nam đã và đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hàh
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ở đó cho tăng cả về chất và
lượng, nhiều loại hàng hoá thoả mãn nhu cầu vô cùng đa dạng và phong phú của
con người.
Để tồn tại và phát triển con người cần nhiều nhu cầu khác nhau: ăn, ở, mặc đi
lại, học tập, giải trí... Muốn thoat mãn những nhu cầu ấy, con người phải thông qua
những hoạt động sản xuất và trao đổi các sản phẩm với nhau hay là thông qua hoạt
động kinh doanh.
Kinh doanh là việc tiến hành một, một số hoặc tấ cả công đoạn của quá trình
đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi.
Với sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng
phát triển tất yếu dẫn đến nhu cầu để trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất
chuyên môn hoá với nhau. Như vậy phân công lao động chuyên hoá sản xuất và tính
chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra là nguồn gốc phát
triển thương mại.
Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Hoạt
động thượng mại gắn liền với lĩnh vực lưu thông hàng hoá và lấy hàng hoá là đối
tượng mua bán.
Như thế kinh doanh thương mại là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện
việc mua bán lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Kinh doanh thương mại thực sự trở thành một lĩnh vực hoạt động không thể
thiếu trong nền kinh tế hàng hoá và nhất là trong nền kinh tế thị trường và xu thế
khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày nay.
3
2.Nội dung của kinh doanh thương mại.
2.1.Mục tiêu:
Lợi nhuận luôn được nhà kinh doanh đề cập như là một mục tiêu trước mắt,

lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp luôn phải cố
gắng nỗ lực để thu được doanh thu bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi. Song
lợi nhuận vẫn chỉ là một trong nhiều mục tiêu của quá trình kinh doanh của bản thân
doanh nghiệp. Trong kinh doanh thương mại, nhà kinh doanh phải quan tâm tới
nhưũng mục tiêu cơ bản đó là: khách hàng, đổi mới, chất lượng, cạnh tranh, lợi
nhuận mà tuỳ theo từng giai đoạn, chu kỳ kinh doanh để xây dựng tháp hệ thống các
mục tiêu thích hợp cho doanh nghiệp.
Khách hàng với nhu cầu của họ là điểm xuất phát cho mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Khách hàng theo quan điểm hiện đại là người trả lương
cho người lao động trong doanh nghiệp và nuôi sống doanh nghiệp. Vì vậy, doanh
nghiệp phải giữ cho được khách hàng truyền thống, thu hút khách mới, và hướng
đến khách hàng tiềm năng.
Đổi mới sản phẩm kinh doanh cũng như đổi mới các dịch vụ phục vụ khách
hàng là mục tiêu cơ bản cuả doanh nghiệp để hướng tới cung cấp tốt hơn những nhu
cầu ngày càng tăng về sản phẩm đồng bộ đa dạng.
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp phải ngày càng được nâng
cao. Mục tiêu này xuất phát từ qui luật "Ai có sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải
chăng thì người đó chính là người chiếm lĩnh thị trường".
Cạnh tranh là mục tiêu mà doanh nghiệp phải theo đuổi. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ
cũng như nâng cao vị thế của doanh nghiệp thì mới có thể tồn tại và phát triển kinh
doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh và đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp sau một thời kỳ kinh doanh, đồng thời là nguồn thu nhập và phân phối cho
các qũy doanh nghiệp để thực hiện tái sản xuất kinh doanh, mở rộng và phát triển
kinh doanh.
2.2.Nội dung hoạt động kinh doanh thương mại:
Đối với các dong nghiệp thương mại, khi tiến hành công việc kinh donh nhằm
thu lợi nhuận, doanh nghiệp phải thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
1.Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch

vụ để làm cơ sở cho hoạt độgn kinh doanh.
2.Tổ chức công tác tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường.
3.Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại.
4
4.Lựa chọn kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá.
5.Quản lý hàng hoá, thực hiện các dịch vụ và phân tích đánh giá kết
quả kinh doanh.
2.2.1.Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ
để làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh:
Doanh nghiệp thương mại là một tác nhân trên thị trường nên phải nghiên cứu
thị triường để phát triển kinh doanh thích ứng với thị trường. Nghiên cứu thị trường
là xuất phát điểm để đề ra các chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, từ các
chiến lược đã xác định tiến hành thực hiện các kế hoạch trung gian, chính sách thị
trường. Bất kỳ doanh nghiệp thương mại nào cũng phải nghiên cứu thị trường khi
bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hay muốn mở rộng phát triển kinh doanh.
Đối tượng kinh doanh thương mại là hàng hoá và dịch vụ. Mỗi doanh nghiệp
có thể kinh doanh một loại hàng hoá hoặc một nhóm hàng hoá. Doanh nghiệp phải
nghiên cứu xác định được nhu cầu của khách hàng, sự đáp ứng cho các nhu cầu đó
hiện có và khả năng nguồn cung ứng (sản xuất hoặc nhập khẩu) loại hàng đó. Cũng
có thể doanh nghiệp kinh doanh những loại hàng hoá mới và các cơ sở vật chất phù
hợp với mặt hàng đã lựa chọn để đi vào kinh doanh. Đấy là công việc mà doanh
nghiệp phải tiến hành thường xuyên để có phương án sản phẩm dịch vụ kinh doanh
tốt nhất.
Qua các bước thu thập thông tin, sử lý thông tin, ra quyết định của qúa trình
nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải giải đáp được các vấn đề:
- Đâu là thị trường có triển vọng nhất đối với các sản phẩm của doanh
nghiệp, hay lĩnh vực nào phù hợp nhất đối với các hoạt động của doanh nghiệp.
- Khả năng bán của doanh nghiệp trên thị trường là bao nhiêu .
- Cần có biện pháp như thế nào để chất lượng mẫu mã hàng hoá dịch vụ
tốt hơn.

- Cần có chiến lược, chính sách như thế nào để tăng cường khả năng
trên thị trường.
Từ việc xác định khả năng bán và lượng dự trữ kế hoạch, doanh nghiệp xác
định được nhu cầu đặt hàng sau khi đã trừ đi hàng tồn kho, hàng tiết kiệm, hình
thành quĩ mua bán hàng hoá của doanh nghiệp.
2.2.2.Tổ chức công tác tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường:
Để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo cung ứng cho sản xuất, tiêu dùng những loại
hàng hoá đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu, thuận lợi cho
khách hàng, các doanh nghiệp thương mại phải tổ chức tốt công tác tạo nguồn cho
doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải huy động tối đa các nguồn lực để phục
vụ cho công tác tạo nguồn. Các nguồn lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có
5
thể huy động được gồm: vốn hữu hình như tiền, nhà cửa, kho tàg, quầy hàng... và
vốn vô hình như: sự nổi tiếng của các nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh, tín nhiệm của
khách hàng đối với doanh nghiệp, ... và con người với tài năng kinh nghiệm, nghề
nghiệp được đào tạo, được huy động vào kinh doanh các nguồn lực thì có hạn, vì
vậy trong quá trình tạo nguồn hàng cũng như trong tổ chức các hoạt động nghiệp vụ
tiếp theo sau là bán, dự trữ, bảo quản, vận chuyển, khuyến mại và thực hiện dịch vụ
phục vụ khách hàng, doanh nghiệp phải huy động theo hướng tiết kiệm, sử dụng
triệt để để tiến hành kinh doanh một cách nhanh chóng, thuận lợi, rút ngắn được
thời gian chuẩn bị, phát triển kinh doanh của doanh nghiệp cả về bề rộng lẫn bề sâu.
Công tác tạo nguồn hàng là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra
nguồn hàng hoá đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng qui cách, cỡ loại,
mẫu mã... cho các nhu cầu khách hàng.
Đối với các doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường cần xác định
được các nguồn hàng chủ yếu sau:
-Nguồn hàng hoá sản xuất trong nước.
-Nguồn hàng nhập khẩu.
-Nguồn hàng tồn kho đầu kỳ.
-Nguồn hàng tự sản xuất, tự khai thác.

-Nguồn hàng liên doanh, liên kết.
-Nguồn đặt hàng và thu mua.
-Nguồn hàng của đơn vị cấp trên, nhận đại lý hoặc ký gửi.
Các nguồn hàng trên có thể là nguồn hàng tập trung để phục vụ cho những
nhu cầu đặt hàng lớn theo đơn đặt hàng và hợp đồng ký kết trước hoặc do nguồn phi
tập trung do doanh nghiệp tự khai thác trôi nổi trên thị trường.
Để tổ chức tốt công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp thương mại sử
dụng các biện pháp sau:
-Tổ chức mạng lưới thu mua.
- Áp dụng các biện pháp kinh tế trong hoạt động khai thác tạo nguồn hàng.
-Đầu tư, liên doanh, liên kết giúp dỡ các đơn vị nguồn hàng.
-Tổ chức tốt hệ thống thông tin từ các nguồn hàng về doanh nghiệp.
-Tổ chức quản lý dự trữ, bảo quản hàng hoá ở doanh nghiệp thương
mại.
2.2.3.Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại :
Nhằm ghép mối trong giao dịch mua bán đối với các đơn vị, doanh nghiệp
phải thực thi trên các nguyên tắc:
-Số lượng, chủng loại hàng hoá phải đáp ứng yêu cầu thị trường mà
donh nghiệp có khả năng cung ứng.
-Tổng quãng đường vận chuyển hàng trong kinh doanh là nhỏ nhất.
-Đơn giản hoá các mối quan hệ mua bán.
6
-Trong quan hệ mua bán hai bên đều phải có lợi.
Việc giao dịch thương mại chủ yếu thông qua:
-Mối quan hệ giao dịch thương mại trực tiếp.
-Quan hệ giao dịch thương mại gián tiếp.
Trong các mói quan hệ giao dịch thuơng mại, doanh nghiệp phải giải quyết
các vấn đề:
-Thoả thuận về giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá.
-Tổ chức vận chuyển, tiếp nhận, thanh toán...

-Ký kết hợp đồn với các bên đối tác.
Tổ chức tốt các mối quan hệ giao dịch thương mại là điều kiện tiền đề để đảm
bảo cho qúa trình bán hàng gặp thuận lơị và có kết quả.
2.2.4.Lựa chọn kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá:
Tổ chức hoạt động phân phối, bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng
bậc nhất của doanh nghiệp thương mại. Chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới thu
hồi được vốn, trang trải được chi phí lưu thông và có lợi nhuận. Kết quả bán hàng
phản ánh sự đúng đắn của mục tiêu, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đồng
thời thể hiện trình độ tổ chức, năng lực điều hành, tỏ rõ thế lực của doanh nghiệp
trên thương trường. Bán hàng là kết quả tổng hợp của nhiều hoạt động, nó bao gồm
các nội dung chính sau:
-Xác định đúng cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường của
doanh nghiệp.
-Lựa chọn các kênh phân phối, bán hàng thích hợp.
-Chính sách phân phối hàng hoá phù hợp với yêu cầu thị trường.
-Thực hiện xúc tiến bán hàng.
-Tổ chức nghiệp vụ bán hàng.
Để thực hiên tốt công tác bán hàng, doanh nghiệp phải lựa chọn xác định các
kênh phân phối, phương thức, hình thức bán hàng sao cho phù hợp với đặc điểm,
tính chất hoạt động của doanh nghiệp và loại hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp
cung ứng. Doanh nghiệp có thể lựa chon kênh phân phối dài hoặc ngắn, áp dụng cho
từng khu vực thị trường cụ thể.
Kênh phân phối ngắn là kênh phân phối hàng hoá từ doanh nghiệp thương
mại trực tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng hoặc nếu có chỉ thông qua mạng lưới
bán lẻ trung gian. Loại kênh này đảm bảo đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá,
chi phí lưu thông có thể thấp, quan hệ giao dịch mua bán đơn giản, thuận tiện. Tuy
nhiên tổ chức phát triển phức tạp, quan hệ thị trường hẹp nên chỉ phù hợp với hàng
hoá có tính chất thương phẩm.
Kênh phân phối dài là kênh mà hàng hoá đi từ doanh nghiệp thương mại qua
các nhà bán lẻ, bán buôn, nhà môi giới trung gian mới đến tay người tiêu thụ cuối

cùng. Ở kênh này quan hệ mua bán theo từng khâu chặt chẽ, lưu thông có khối
7
lượng hàng hoá lớn, vòng quay vốn nhanh hơn, có điều kiện để doanh nghiệp mở
rộng thị trường, phát triển kinh doanh. Kênh này tuy thời gian lưu chuyển và chi phí
lưu thông lớn nhưng thích hợp khi kinh doanh nhiều loại hàng hoá phù hợp với quan
hệ mua bán của nhiều doanh nghiệp.
Tuỳ theo nhu cầu chuyển giao lớn tập trung ổn định hay nhu cầu nhỏ lẻ
không ổn định mà có thể sử dụng kênh dài hay kênh ngắn dể chuyển giao hàng hoá.
Ngoài sự lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp cần thực hiện chính sách
phân phối hàng hoá hợp lý trên cơ sở các nguyên tắc:
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
- Nguyên tắc đồng bộ liên tục.
- Nguyên tắc ưu tiên.
Doanh nghiệp phải xác định các phương thức, hình thức bán hàng hợp lý, có
hiệu quả. Tuỳ theo yêu cầu xác định khác nhau mà có các hình thức bán hàng sau:
- Theo mức chiết khấu thương mại có hình thức bán buôn, bán lẻ.
- Theo địa điểm giao nhận hàng hoá có hình thức bán tại kho người
cung cấp, kho người tiêu thụ, hoặc tại h, cửa hàng, quầy hàng của doanh nghiệp
thương mại.
Trong hoạt động bán hàng cần chú trọng đến những nội dung sau:
- Khối lượng, chất lượng hàng hoá dịch vụ đáp ứng được tối đa nhu cầu
của khách hàng.
- Tổ chức tốt các hoạt động trong quá trình bán hàng (trước, trong, sau
khi bán)
- Áp dụng các phương pháp bán hàng và quy trình bán hàng, hoàn thiện
nhằm nâng cao không ngừng năng suất lao động của người bán hàng hoá dịch vụ và
chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng.
- Không ngừng cải tiến thiết kế cửa hàng, quầy hàng và các loại hình cơ
sở vật chất kinh doanh. Đổi mới các loại thiết bị dụng cụ bảo quản, trưng bày và
bán, đảm bảo cho khách hàng bao giờ cũng được phục vụ bằng những phương tiện

hiện đại nhất.
- Làm tốt công tác quảng cáo kết hợp với bán hàng, làm công cụ thúc
đẩy bán hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt lao động bán hàng, đảm bảo cho thời gian lao động của
nhân viên bán hàng được sử dụng có hiệu quả nhất.
- Nghiêm chỉnh thi hành luật pháp trong kinh doanh.
- Xây dựng một thái độ bán hàng văn minh, lịch sự, tất cả vì khách hàng.
2.2.5. Quản lý hàng hóa, thực hiện các dịch vụ và phân tích đánh giá kết quả
kinh doanh:
Việc quản lý hàng hóa được tiến hành từ khâu chuẩn bị để tiếp nhận hàng hóa
cho tới khi chuyển giao hàng hóa cho người tiêu thụ. Đặc biệt quan trọng trong công
8
tác quản lý hàng hóa là công tác dự trữ hàng hóa, bởi đây là yếu tố đảm bảo cho bán
hàng diễn ra liên tục và đáp ứng yêu cầu mở rộng lưu thông không ngừng. Đây cũng
là phương tiện quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận trên
thương trường. Doanh nghiệp thưong mại thực hiện các dịch vụ bảo quản, dự trữ, cũng
như các dịch vụ trong quá trình bán hàng và thu được thu nhập từ các hoạt động đó.
Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp thương mại phải tiến hành tính
toán tổng thu nhập, chi phí cũng như các chỉ tiêu kinh doanh để xem xét đánh giá
hiệu quả kinh doanh đã đạt được. Từ những đánh giá về mặt tích cực cũng như
những điểm hạn chế của kỳ kinh doanh trước, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng các
kế hoạch cho kỳ kinh doanh mới.
II. DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG
CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC :
1. Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước
1.1 Khái niệm:
Theo pháp luật của nhà nước ta, doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh được thành
lập hợp pháp, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh và lấy hoạt động kinh
doanh làm nghề nghiệp chính. Có doanh nghiệp nhà nước, có doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp cổ phần, doanh nghiệp hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh...

Đặc điểm nhiều thành phần kinh tế của nền kinh tế nước ta đã được khẳng
định. Các thành phần kinh tế ấy không chỉ có trong sản xuất mà tồn tại trong mọi
giai đoạn của quá trình sản xuất xã hội. Trong kinh doanh thương mại cũng có sự
góp mặt của mọi thành phần kinh tế. Doanh nghiệp thương mại nhà nước là một
phần tử của hệ thống kinh doanh thương mại trong nền kinh tế quốc dân chuyên
kinh doanh mua bán hàng hóa dịch vụ.
Doanh nghiệp thương mại nhà nước là một loại hình doanh nghiệp thành lập
và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20 /
4 / 95. Nhà nước ra quyết định thành lập, đầu tư từ 51% vốn chở lên và quản lý với
tư cách chủ sở hữu phần vốn đầu tư.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp thương
mại nhà nước kinh doanh sản phẩm gì, qui cách, chất lượng, giá bán ra sao, địa chủ
tiêu thụ... đều do nhà nước quyết định từ trên xuống. Doanh nghiệp chỉ là một đơn
vị kinh doanh thụ động, không cần quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về giải phóng và huy động mọi nguồn
lực, năng lực sản xuất nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, doanh nghiệp thương mại
9
nhà nước có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh theo qui định của nhà nước,
hoạt động linh hoạt động hơn và kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2 Các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước :
- Căn cứ vào tính chất các mặt hàng kinh doanh có thể chia thành :
+ Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hóa : Đó là các doanh nghiệp
chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái hoặc
tính chất nhất định (Ví dụ : Tổng Công ty Xăng dầu, Tổng Công ty Muối...).
+ Doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp : Là các doanh nghiệp kinh doanh
nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái hoặc tính chất khác nhau (Ví dụ : Tổng
Công ty Bách hóa, Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị...).
+ Doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hóa : Là các doanh nghiệp kinh
doanh nhiều mặt hàng vừa kinh doanh, vừa sản xuất hàng hóa và thực hiện các hoạt

động dịch vụ.
- Căn cứ vào qui mô của doanh nghiệp :
+ Doanh nghiệp có qui mô nhỏ : Là doanh nghiệp có số lao động dưới
50 người và mức vốn dưới 1 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp có qui mô vừa : Là doanh nghiệp có số lao động dưới
200 người và mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp có qui mô lớn : Là doanh nghiệp có số lao động từ 200
người trở lên và mức vốn từ 5 tỷ đồng trở lên.
- Phân loại theo cấp quản lý :
+ Các doanh nghiệp do Bộ, Ngành của Trung ương quản lý.
+ Các doanh nghiệp do địa phương quản lý (Tỉnh, Thành phố, Quận, huyện...).
- Phân loại theo vùng sinh thái, địa phương:
Việc phân chia vùng, địa phương trong cả nước có thể thuận tiện trong quản
lý và đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của từng vùng, từng vùng, từng địa
phương (như : Vùng núi trung du phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc trung bộ,
Duyên hải miền Trung, Tây nguyên, Đông nam bộ, Đồng bằng sông Cửu long, vùng
biên giới phía bắc, phía tây nam...).
- Ngoài ra tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, người ta còn có thể phân loại
doanh nghiệp căn cứ vào mức lưu chuyển hàng hóa từng năm, phạm vi kinh doanh...
2. Vai trò của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong nền kinh tế :
2.1 Vai trò của kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường :
Là các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực thương mại, các doanh
nghiệp thương mại nhà nước góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, tạo ra
động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ
10
chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất lớn. Phát triển
kinh doanh thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hóa tiền tệ. Đó
là con đường lớn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất hàng hóa.
Bản thân nhà sản xuất không phải lúc nào cũng có thể tiến hành tổ chức hậu
cần đầu vào và đầu ra và nếu có thì hiệu quả thường thấp. Với sự hỗ trợ của các nhà

kinh doanh thương mại, việc sản xuất của nhà sản xuất được tiến hành thuận lợi, sản
phẩm của nhà sản xuất được tiêu thụ, phân phối tới mọi nơi có nhu cầu, tăng nhanh
khối lượng và tốc độ lưu chuyển hàng hóa, báo hiệu và kích thích nhà sản xuất.
Vì mục tiêu lợi nhuận, nhà sản xuất sẽ tìm mọi cách cải tiến công tác, áp dụng
khoa học kỹ thuật công nghệ mới, hạ chi phí. Đồng thời cạnh tranh trong thương
mại buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, nâng cao
năng suất lao động, tiết kiệm các nguồn lực và tính toán thực chất hoạt động kinh
doanh. Cùng với các công ty nước ngoài, các doanh nghiệp thương mại tổ chức hội
chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm mới và kỹ thuật tiên tiến cho các nhà sản xuất
trong nước. các doanh nghiệp thương mại làm cầu nối giữa các doanh nghiệp trong
nước với công ty nước ngoài trong hợp tác sản xuất kinh doanh và chuyển giao công
nghệ một cách có hiệu quả, hay có thể hợp tác kinh doanh và góp vốn đầu tư với các
doanh nghiệp trong nước để nhập khẩu thiết bị máy móc phát triển sản xuất. Đó là
những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Kinh doanh thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người
tiêu dùng thực hiện hành vi mua không xuất phát từ tình cảm mà từ lý trí của họ. Và
lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của nó sẽ tạo ra khả năng tái tạo
nhu cầu. Một mặt kinh doanh thương mại làm cho cầu trên thị trường trung thực với
nhu cầu, thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng
sản phẩm. Điều này có tác động ngược trở lại người tiêu dùng, khơi dậy các nhu cầu tiềm
năng, tăng trưởng nhu cầu và là gốc rễ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp thương mại tạo ra các dịch vụ để hoàn thiện sản phẩm.Kinh
doanh thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ
thương mại nước ta với các nước không ngừng phát triển, tạo điều kiện phát huy lợi
thế so sánh và từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới,
biến nước ta thành một bộ phận của phân công lao động quốc tế.
2.2.Vai trò của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế quốc dân:
Quá trình chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đa
thành phần đang đặt ra những nội dung mới về nhận thức và hướng phát triển của
các thành phần kinh tế . Trong lĩnh vực thương mại, những năm gần đây có sự

chuyển đổi rất lớn về cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh
trên thị trường. Doanh nghiệp thương mại nhà nước trong cơ chế mới không còn
hoạt động độc quyền như trong thời kỳ bao cấp mà kinh doanh song song với các
doanh nghiệp thương mại khác trên thị trường. Cơ chế kinh tế đã thay đổi, song
11
doanh nghiệp thương mại nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng và cần có nhận
thức đúng đắn để giữ được vai trò vốn có của nó.
Các doanh nghiệp thương mại nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu, vừa là
các đơn vị kinh tế vi mô, vừa là lực lượng kinh tế vĩ mô trong tay nhà nước. Là các
chủ thể kinh tế vi mô, các doanh nghiệp do nhà nước lập ra phải bảo đảm và gia
tăng nguồn lực kinh tế của nhà nước đã đầu tư vào các doanh nghiệp này, phải đóng
góp đáng kể trong GDP và tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước. Là lực lượng kinh tế vĩ
mô, các doanh nghiệp thương mại nhà nước phải góp phần tạo ra môi trường hay tiền đề,
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác và phải cung cấp,
đảm bảo các mặt hàng thiết yếu chiến lược cho nhân dân, ổn định đời sống xã hội.
Ngày nay, nhà nước đang ngày càng phát triển, bất chấp sự xuất xứ đa dạng
của nhà nước vẫn có những quan điểm chung khẳng định vai trò và tác dụng của
doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, dù rằng khu vực kinh tế nhà nước hoạt động thiếu
năng động và kém hiệu quả hơn khu vực kinh tế tư nhân những không phải vì thế
mà chính phủ xoá bỏ hoàn toàn kinh tế nhà nước. Ở các nước đó, doanh nghiệp nhà
nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, duy trì trong một phạm vi, quy mô phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự quản lý của chính phủ. Vì vậy
chính phủ ở các nước dó chủ trương không cần kinh tế nhà nước ở những ngành lĩnh
vực kinh doanh mà nhà nước không cần duy trì kinh tế quốc doanh và kinh tế tư
nhân có thể làm tốt hơn. Trong những ngành, lĩnh vực cần thiết cho xã hội, do dân
cư nhưng kinh tế tư nhân không đủ điều kiện đầu tư thì dù có nhiều rủi ro, chính
phủ cũng phải duy trì doanh nghiệp nhà nước ở mức độ cần thiết.
Xu thế chung của doanh nghiệp thương mại nhà nước là tồn tại, phát triển
như là một bộ phận hưu cơ nằm trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước và gắn chặt

với các doanh nghiệp sản xuất nhà nước. Sản xuất và thương mại liên kết với nhau
trong những chủ thể kinh tế lớn và bù đắp cho nhau trong kinh doanh.
Ở nước ta, vai trò của doanh nghiệp thương mại nhà nước phải được xét trên
quan điểm lịch sử và thực tiễn. Với quan điểm lịch sử cho thấy, khi xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá
thì số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, thương nghiệp
tư nhân nhỏ bé và bị hạn chế, vai trò quyết định trên thị trường thuộc về doanh
nghiệp thương mại nhà nước. Xuất phát từ thực tế khách quan, nền kinh tế nước ta
còn lạc hậu thương nghiệp tư nhân mới được phát triển, số lượng thương nghiệp tư
nhân tăng nhanh nhưng chỉ tập trung phân bố ở các lĩnh vực ngành hàng đem lại lợi
nhuận cao, khu vực đông dân cư, quy mô nhỏ lẻ là chủ yếu, chưa đủ sức đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng, nên hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn cần
thiết phải có. Thực tế hiện nay, doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn là những
doanh nghiệp chủ đạo trong kinh doanh một số ngành hàng nhất là trong hoạt động
xuất nhập khẩu - nơi mà doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự cáng đáng được, tỷ
12
trọng xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ đạo vẫn thuộc về các doanh nghiệp thương
mại nhà nước.
Mặt khác, doanh nghiệp thương mại nhà nước phải thực hiện một số nhiệm vụ
xã hội mà không thể giao cho các thàh phần kinh tế khác. Doanh nghiệp thương mại
nhà nước vẫn là những chủ thể mua bán lớn, có tác dụng trực tiếp tiêu thụ nông lâm
hải sản và hàng công nghiệp.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, doanh nghiệp thương
mại nhà nước cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác tồn tại không vì bản thân
nó mà vì lợi ích cộng đồng. Khi doanh nghiệp thương mại nhà nước được tổ chức
lại, mở rộng và phát triển theo hướng trở thành nhà buôn lớn thì thương nghiệp tác
động đến đời sống riêng lẻ không làm được. Dù xoá bỏ vai trò độc quyền của kinh
tế nhà nước trong thương mại song doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn là phần
quan trọng đặc biệt trong cơ cấu tổ chức thương nghiệp nhiều thành phần, sự phát
triển của nó trong bối cảnh mới phải vừa cạnh tranh vừa hợp tác để cùng phát triển.

3. Chức năng của doanh nghiệp thương mại nhà nước :
Là một loại hình doanh nghiệp thuộc hệ thống kinh doanh thương mại, doanh
nghiệp thương mại nhà nước cũng như nhiều loại hình doanh nghiệp thương mại
khác phải thực hiện chức năng chung đối với một doanh nghiệp thương mại. Những
chức năng đó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp thương mại
và là tiêu thức để phân biệt doanh nghiệp thương mại với doanh nghiệp của các
ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Các chức năng của doanh nghiệp
thương mại bao gồm:
3.1.Phát hiện nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách
để thoả mãn nhu cầu đó:
Ra đời từ sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, doanh
nghiệp thương mại đã trở thành bộ phân trung gian độc lập giữa sản xuất và tiêu
dùng, thực hiện chức năng phục vụ nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng bằng các loại
hàng hoá, dịch vụ đa dạng. Nếu không phục vụ một cách hữu ích cho sản xuất và
tiêu dùng, các doanh nghiệp thương mại không còn là trung gian cần thiết và không
còn lý do tồn tại trong nền kinh tế. Muốn phục vụ sản xuất và tiêu dùng có hiệu quả,
các doanh nghiệp thương mại cần phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu thị trường
để phát hiện tìm ra những hàng hoá, dịch vụ thoả mãn nhu cầu và bằng mọi cách
cung cấp hàng hoá, dịch vụ đó để thoả mãn nhu cầu thị trường. Có như vậy doanh
nghiệp mới tìm kiếm được lợi nhuận và phát triển kinh doanh.
3.2.Phải không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng để
nâng cao hiệu quả kinh doanh :
13
Trong môi trương kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt - giữa các doanh
nghiệp trong cùng ngành; giữa trong ngành và ngoài ngành; trong nước và quốc tế,
để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp thương mại trước hết phải là người "hậu
cần tốt"cho sản xuất và tiêu dùng, đem dến cho khách hàng những hàng hoá đủ về
chất lượng và tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, hợp lý về thời gian và giá cả.
Hơn nữa, doanh nghiệp thương mại còn tác động vào người sản xuất để tạo ra
hàng hoá theo nhu cầu. Đồng thời tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông, tạo mọi

điều kiện thuận lợi cho sản phẩm sẵn sàng bước vào tiêu dùng. Đây là một chức
năng quan trọng trong kinh doanh thương mại.
Để nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng, cũng như là để tìm
kiếm lợi nhuận, các doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu thực hiện hoạt động
dịch vụ khách hàng.
Doanh nghiệp thương mại phải định hướng khách hàng trong mọi hoạt động
kinh doanh, đặt khách hàng vào vị trí trung tâm trong hoạt động của mình, không
ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
3.3.Giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa
doanh nghiệp với bên ngoài:
Doanh nghiệp thương mại tồn tại trong môi trường kinh doanh một mặt bị tác
động bởi các yếu tố của môi trường kinh doanh mặt khác lại tác động trở lại môi
trường kinh doanh.Chỉ khi các doanh nghiệp phối hợp tốt nhất các yếu tố bên trong
và bên ngoài thì mới có thể thành công. Giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong và
bên ngoài là việc cần thiết để doanh nghiệp tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng đó. Trong
đó giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong là cơ sở nền tảng để giải quyết tốt mối
quan hệ bên ngoài. Các mối quan hệ bên ngoài bao gồm bạn hàng, các quan hệ với
khách hàng, người cung ứng.
Đó là các chức năng chung của các doanh nghiệp thương mại.Bên cạnh đó
doanh nghiệp thương mại nhà nước còn có những chức năng riêng , đó là:
- Góp phần điều hoà cung cầu, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và
bền vững, công bằng và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế trong đó phaỉ đảm bảo lưu
thông những mặt hàng chủ yếu, thực hiện chính sách xã hội, bình ổn giá cả... và góp
phần tạo thêm việc làm mới, ngành nghề mới.
- Nắm chắc bán buôn và đóng vai trò nòng cốt trong liên kết kinh tế,
hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo quỹ đạo định hướng.
- Hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển kinh doanh vì mục đích
quốc tế dân sinh.
14
Doanh nghiệp thương mại nhà nước phải thực hiện tốt và toàn diện các chức

năng nêu trên kể cả các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động vì mục tiêu
lợi nhuận và các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động vì mục tiêu công ích.
III.Ý NGHĨA VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH DOANH Ở CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC :

Mở rộng và phát triển là điều kiện bắt buộc đối với mọi chủ thể tham gia vào
kinh tế thị trường. Nếu không mở rộng, phát triển được thì chủ thể đó sễ dần dần bị
thụt lùi và gạt ra khỏi quỹ đạo phát triển chung. Đối với các doanh nghiệp thương
mại nhà nước, yêu cầu mở rộng và phát triển xuất phát từ bản chất của kinh doanh
thương mại cũng như vai trò của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế hay do vai
trò kinh tế vi mô cũng như vi mô của nó.
Nếu mở rộng kinh doanh là sự biến đổi, tăng lên về mặt lượng thì phát triển
kinh doanh là sự tăng lên về mặt chất của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Mở rộng kinh doanh có thể là sự mở rộng danh mục mặt hàng kinh doanh , mở rộng
ngành hàng kinh doanh , kinh doanh tổng hợp, đa dạng hoá, liên kết mở rộng các
mối quan hệ trong kinh doanh, mở rộng thị trường, mở rộng các hình thức mua bán
ở phạm vi trong và ngoài nước. Phát triển phải gắn liền với mở rộng, biểu hiện bằng
sự tăng lên về thu nhập, nâng cao mức độ hoàn thành kế hoạch, doanh nghiệp tăng
được cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Cụ thể, doanh nghiệp có thể tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường
đã chiếm lĩnh được hay phát triển ra thị trường mới. Doanh nghiệp đưa ra thị trường
các hàng hoá mới, hàng hoá cải tiến với nhiều điều kiện hấp dẫn về giá cả, chất
lượng, chủng loại, dịch vụ, thời gian, địa điểm, phương thức thanh toán...Doanh
nghiệp có thể phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm (kinh doanh những mặt
hàng mới trên thị trường mới, thuộc những lĩnh vực ngành hàng kinh doanh truyền
thống của doanh nghiệp), hay đa dạng hoá kinh doanh (là kinh doanh hàng hoá mới
trên những thị trường mới thuộc lĩnh vực ngành nghề doanh nghiệp chưa từng kinh
doanh). Những hình thức phát triển này ngược lại đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
tiềm lực khá tương xứng và vững chắc về nhiều mặt.
Kết quả cuối cùng của quả trình này chính là nâng cao được hiệu quả kinh

doanh và thực hiện được các mục tiêu lợi nhuận, vị thế và sự an toàn mà doanh
nghiệp đã đặt ra.
Thực tế trong hơn 10 năm đổi mới, hệ thống các doanh nghiệp thương mại
nhà nước có nhiều biến đổi, các chỉ tiêu kinh tế quan trong của doanh nghiệp thương mại
nhà nước trong thời kỳ 1991-1995 đạt mức cao nhưng gần đây lại có dấu hiệu chững lại.
Có thể giải thích rằng, thành tựu cao của doanh nghiệp thương mại nhà nước
trong giai đoạn 1991-1995 là kết quả của sự chuyển đổi cơ chế, nhưng nguyên nhân
sâu xa là do dư địa thành công đối với doanh nghiệp lớn hơn. Bởi vì nhu cầu thị
15
trường đối với tất cả hàng hoá còn lớn. Do nhiều năm bao cấp quan hệ cung cầu
luôn luôn rơi vào trạng thái "đói hàng", khi cơ chế thay đổi doanh nghiệp thương
mại nhà nước được tự do phát triển hơn, đồng thời cầu thị trường còn lớn. Vì vậy
doanh nghiệp không gặp trở ngại đáng kể trong kinh doanh hàng hoá.
Trong những năm gần đây, cung có chiều hướng vượt cầu về mặt số lượng do
các thành phần kinh tế khác tham gia vào kinh doanh sản xuất hàng hoá ngày càng
nhiều. Nhu cầu thị trường đặc biệt ở các thành phố có xu hướng chuyển lên cấp cao
hơn, nhu cầu thị trường nông thôn phát triển chậm, khả năng khai thác thị trường
của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp thương mại nhà
nước nói riêng còn yếu.
Trước bối cảnh đó, hiện tượng phát triển chững lại của các doanh nghiệp
thương mại nhà nước chứng tỏ sự đổi mới của chúng chưa thực sự đủ sức để khai
thác và mở rộng thị trường khi có nhu cầu biến đổi. Điều đó cũng chứng tỏ rằng,
chủ thể kinh tế vi mô của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong nền kinh tế thị
trường còn yếu. Con đường đổi mới doanh nghiệp thương mại nhà nước chủ yếu đã
thực hiện là thông qua giải thể và sát nhập. Nhưng cả hai con đường này đều chưa
đưa đến sự biến đổi về chất trong công cuộc đổi mới. Bởi một là số doanh nghiệp
được giải thể cũng không đưa lại nguồn lực đáng kể cho những doanh nghiệp còn
lại, hai là những doanh nghiệp được sát nhập vừa quy mô nhỏ, lại vừa diễn ra chủ
yếu thông qua con đườngtập trung bằng mệnh lệnh hành chính, trong điều kiện quy
chế hoạt động giữa các doanh nghiệp sát nhập với nhau chưa rõ ràng, không ít

trường hợp đã làm cho doanh nghiệp mới yếu đi. Sự hình thành mới và một số sát
nhập nhanh choáng các doanh nghiệp thương mại nhà nước với các dơn vị sản xuất
để hình thành các tổng công ty là một minh chứng cho hiện tượng này. Con đường
cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn cho sự
phát triển của bản thân doanh nghiệp nhưng còn diẽen ra hết sức chậm chạp. Nhìn
chung, quá trình đổi mới hệ thóng doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn chưa tạo
được một thực lực về tài chính, quản lý và về con người để đủ sức đón thời cơ mới
của môi trường kinh doanh đang thay đổi, để định hướng chiến lược kinh doanh
đúng đắn và dành thắng lợi trong cạnh tranh nhằm tạo cho doanh nghiệp phát triển
một cách ổn định và vững chắc khi không còn sự bao cấp của Nhà nước.
Mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước
cần được đẩy mạnh (theo một tầm cao) hơn nữa bằng không chỉ các chính sách kinh
tế của nhà nước mà quan trọng hơn là phaỉ bằng chính nội lực và ý chí của các
doanh nghiệp. Trong thời gian tới, doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn phải tiếp
tục mở rộng và phát triển kinh doanh theo hướng tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các loại hình doanh nghiệp khác nhằm động viên mọi nguồn lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đồng thời phải lấy tiêu chuẩn hiệu quả làm thước đo cho sự tồn
tại và phát triển của mình.
16
Chương II:THỰC TRẠNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
I.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC :
1.Tổng quan về hoạt động thương mại nước ta hiện nay:
Công tác đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ Đại hội VI trải
qua gần 10 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những thay đổi to lớn và sắc trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để chuyển nền kinh tế theo hướng mới, Đảng đã đề ra hướng chuyển: Từ một
thành phần kinh tế , phát triển nền kinh tế với 5 thành phần kinh tế , xoá bỏ phân
phối hiện vật sang kinh tế hàng hoá, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

chuyển sang cơ chế thị trường, bảo đảm quyền độc lập tự chủ, tự trang trải của các
đơn vị sản xuất kinh doanh và từ nền kinh tế đóng chuyển sang nền kinh tế mở cửa,
kêu gọi các nước đầu tư vào nước ta.
Nhìn chung, chúng ta đã hình thành được thị trường thông suốt. Cục diện
chung của thương mại từ sau đổi mới đến nay hoạt động khá nhộn nhịp. Tổng mức
lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội tăng nhanhhàng năm từ 10-12%, năm 1997 đạt
khoảng 160 ngàn tỷ đồng, năm 1998đạt 179 tỷ đồng tăng 9,3% so năm 1997. Năm
1998, tổng mức bán lẻ hàng hoá trên thị trường xã hội ở hầu hết các địa phương cả
nước đều có sự tăng trưởng hơn năm 1997. Thành phố Hồ Chí Minh đạt: 48177 tỷ
đồn chiếm 27% tổng mức cả nước, thành phố Hà nội đạt 17041 tỷ đồng chiếm gần
10% cả nước, An giang 7447 tỷ đồng, Nghệ An 4611 tỷ đồng, Tiền Giang 3995 tỷ
đồng... Tuy nhiên 8 tháng đầu năm 1999, tổng lưu chuyển hàng hoá bán lẻ mới đạt
15535 tỷ đồng. Hàng hoá lưu thông trên thị trường phong phú đa dạng. Các mặt
hàng chiến lược liên quan tới nền kinh tế quốc dân như: xăng dầu, xi măng, sắt thép,
phân bón hoá học, đường... được bảo đảm, không còn xảy ra những cơn sốt giá cả,
kể cả sốt cục bộ như những năm trước (1992,1993,1994). Những mặt hàng chính
sách cung ứng cho vùng sâu, vùng xa được đảm bảo đầy đủ. Về ngoại thương, Việt
Nam đã nhanh chóng thích nghi với tình hình mới theo chủ trương đa dạng hoá quan
hệ và đa dạng hoá hình thức trao đổi mua bán. Nhờ đó tổng mức lưu chuyển hàng
hoá ngoại thương tăng nhanh qua các năm. Năm 1992 tăng 15,7%, năm 1993 tăng
34,9%, năm 1994 tăng 17,2%, năm 1995 tăng 37,7%, năm 1996 tăng 35,2%, năm
1997 tăng 12,8%. Năm 1998 và 8 tháng đầu năm 1999, tuy bị ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế tài chính khu vực và thời tiết không thuận lợi song tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu năm 1998 đạt 20,75 tỷ USD với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,35 tỷ
USD, tăng 0,9% so với năm 1997, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,39 tỷ USD giảm 3%
so với năm 1997. Trong 8 tháng đầu năm 1999, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt
17
7.302 triệu USD bằng 72% kế hoạch năm và tăng 15% so với cùng kỳ năm 1998, rút
ngắn tỷ lệ nhập siêu xuống còn 0,013% kim ngạch xuất khẩu (nhập khẩu 8 tháng
này là 7295 triệu USD). Chúng ta đã có nhiều mặt hàng chủ lực, phát huy được lợi

thế so sánh của đất nước, đó là gạo, thuỷ sản, cao su, dầu thô, sản phẩm may mặc...
đã bước đầu hình thành một thị trường với bên ngoài.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ mua bán với hơn 130 nước trên thế giới,
đồng thời đã gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế khu vực và toàn cầu như:
AFTA, APEC, chuẩn bị gia nhập WTO... Đây chính là cơ hội thuận lợi để hoạt động
ngoại thương Việt Nam có bước phát triển mới, là cơ hội thuận tiện để có vị trí đáng
kể trên thị trường quốc tế.
2.Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước:
Đóng góp vào thành tựu chung của hoạt động thương mại cả nước, các doanh
nghiệp thương mại nhà nước đang tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả kinh
doanh, thể hiện là một hợp phần quan trọng, tất yếu đối với nền kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng địnhtiếp tục đổi mới đường lối
kinh tế. Trong đó, củng cố đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để kinh tế nhà
nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có định hướng
XHCN có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính phủ đã đề ra nhiều Nghị định, chủ
trương, biện pháp nhằm tổ chức, sắp xếp lại, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế doanh
nghiệp nhà nước như: Nghị định 388/HĐBT, Quyết định 90/TTg, Quyết định
91/TTg, Chỉ thị 500/TTg, Nghị định 44/CP là những văn bản mang tính pháp luật
quy địnhviệc thành lập, gỉai thể và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Luật doanh
nghiệp nhà nước năm 1995 được Quốc hội khoá IX thông qua là sự khẳng định tồn
tại khách quan và sự cần thiết của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường.
Đối với ngành thương mại, Nghị quyết số 12 của BCT khoá VII ngày
3/1/1996 về "tiếp tục đổi mởi tổ chức và hoạt động thương nghiệp , phát triển thị
trường theo định hướng XHCN ", Luật thương mại được Quốc hội khoá IX thông
qua là những văn bản lớn để khẳng định sự đóng góp tích cực của ngành thương mại
và phương hướng cũng như giải pháp của ngành, của doanh nghiệp trong sự phát
triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Những chủ trương biện pháp của Đảng, Chính phủ trong đổi mới doanh nghiệp nhà
nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước thương mại nói riêng đã được triển
khai và đạt được những kết quả nhất định, đồng thời cũng đang gặp nhiều vấn đề

cần giải quyết.
Để đánh giá đúng thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh, đề ra các biện
pháp mở rộng và phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước
trước hết chúng ta phải nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp thương mại nhà nước
trong thời gian qua.
18
2.1.Về số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước :
Trong thời gian qua, số lượng các doanh nghiệp thương mại bao gồm doanh
nghiệp nhà nước ở trung ương và địa phương, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp
tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Mà ngược lại với sự tăng tổng số doanh nghiệp thương mại, số lượng và tỷ trọng của
doanh nghiệp thương mại nhà nước có xu hướng giảm đi qua các năm.
Bảng 1: SỐ LƯỢNG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
PHÂN THEO LOẠI HÌNH TỔ CHỨC
PHÂN LOẠI
1993 1994 1995 1996 1997
tổng số DNTM
*D.N có vốn đầu tư trong nước
1.D.N nhà nước
- D.N nhà nước trung ương
- D.N nhà nước địa phương
2.D.N tập thể
3.D.N tư nhân
4. Công ty cổ phần
5. Công ty trách nhiệm hữu hạn
*D.N có vốn đầu tư nước ngoài
5444
5444
1799
461

1368
211
1835
19
1580
-
8028
7953
1922
463
1459
197
3894
33
1907
76
10806
10689
1805
456
1340
248
6298
23
2315
117
14872
14741
1778
468

1310
268
8123
40
4532
130
14625
14505
1566
429
1137
186
9135
48
3570
120
Nguồn:Vụ thương mại và giá cả Tổng cục thống kê.
Xu hướng giảm về số lượng của doanh nghiệp thương mại nhà nước là tất yếu
bởi trong một số lĩnh vực ngành hàng, các doanh nghiệp thương mại nhà nước thực
hiện không tốt hơn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và
phải bị thay thế trong điều kiện cạnh tranh.
Mặc dù, số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước giảm nhưng vẫn chiếm
một tỷ đáng kể trong số doanh nghiệp thương mại. Năm 1994 chiếm 23,94%, năm
1995 chiếm 16,70%, năm 1996 chiếm 11,96%, năm 1997 chiếm 11,72% trong tổng
số doanh nghiệp thương mại. Tỷ trọng tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội thuộc khu
vực kinh tế nhà nước giảm qua các năm song tỷ trọng về tổng mức lưu chuyển hàng
hoá xã hội thuộc khu vực này khá cao.
CHỈ TIÊU
1995 1996 1997 1998
19

tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội khu
vực kinh tế nhà nước
3730 3965 4219 4598
tỷ trọng tổng số(%) 29,4 27 27,1 26,9
tỷ trọng tổng mức LCHH xã hội khu
vực kinh tế nhà nước trong tổng số(%)
47,53 49,65 50,25 49,96
Thực tế cho thấy doanh nghiệp thương mại nhà nước tuy có giảm về số
doanh nghiệp, về tổng mức bán lẻ, xong qui mô kinh doanh được thu hồi, thay đổi
theo hướng là đầu mối bán buôn và giữ được vai trò chủ đạo trong bán buô số
ngành hàng trọng yếu như xi măng, xăng dầu, sắt thép...
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp thương mại nhà nước có
đóng góp đáng kể: năm 1997 tổng giá trị xuất khẩu đạt 5911990 USD, trong đó xuất
khẩu trực tiếp là: 3806248 USD; 6tháng đầu năm 1998 đạt tổng trị giá xuất khẩu là
3133045 USD, trong đó xuất khẩu trực tiếp là: 1809918 USD. Năm 1997, tổng giá
trị nhập khẩu là: 4784474 USD, trong đó nhập khẩu trực tiếp là: 2296854 USD,
trong đó nhập khẩu trực tiếp là: 1851287 USD.
Năm 1995, số doanh nghiệp thương mại nhà nước tham gia xuất nhập khẩu
358 doanh nghiệp chiếm 25% số doanh nghiệp thương mại nhà nước , năm 1997 số
doanh nghiệp thương mại nhà nước tham gia xuất nhập khẩu tăng lên là 548 doanh
nghiệp chiếm 35% tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước. Như vậy, các doanh
nghiệp thương mại nhà nước đã tích cực tham gia vào hoạt động ngoại thương, đa dạng
hoá các hoạt động thương mại dịch vụ và mở rộng thị trường đa dạng hoá quốc tế, dẫn
tới mở đường cho các thành phần kinh tế khác hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương.
Về mạng lưới kinh doanh , năm 1998 thị trường cả nước đã có gần 1,1 triệu
điểm hoạt động kinh doanh trong đó 21727 điểm thuộc doanh nghiệp thương mại
nhà nước, trong đó có 7562 điểm ở nông thôn chỉ chiếm 35% (với dân số chiếm
khoảng 80% dân số cả nứơc) và 1705 diểm biên giới hải đảo chiếm 8%. Như vậy, sự
phân bố điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nhà nước mới chỉ
tập trung ở các thành phố lớn như Tp Hồ Chí Minh, Hà nội.

Trong 21727 điểm kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nhà nước năm
1998 có 18187 điểm kinh doanh thương nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu (83,7%) còn
lại là 798 điểm kinh doanh nhà hàng, 651 điểm kinh doanh khách sạn, 167 điểm kinh
doanh dịch vụ . Tính bình quân mỗi tỉnh thành phố có 27 doanh nghiệp , khách sạn,
nhà hàng du lịch, dịch vụ. Với hệ thống các điểm kinh doanh , khách sạn nhà hàng
đã mang lại một khoản lợi nhuận lớn cho ngân sách nhà nước và làm thay đổi bộ
mặt của đất nước.
2.2.Về vốn kinh doanh và quản lý tài chính:
20
Do tính chất của hoạt động thương mại, các doanh nghiệp thương mại nhà
nước luôn cần một lượng vốn lớn, nhất là vốn lưu động. Tuy nhiên trong những năm
qua, các doanh nghiệp bị thiếu vốn nghiêm trọng. Do thiếu vốn, nhiều doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả, không phát huy được quyền tự chủ kinh doanh theo những
ngành hàng được phân công hoặc tự lựa chọn trong cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra
là: Muốn tham gia thị trường nhiều hơn, muốn đầu tư cho sản xuất chế biến, muốn
vươn tới thị trường các nướcphải có vốn lớn. Và quan trọng hơn là việc sử dụng,
bảo toàn và phát triển nguồn vốn có vai tró quyết định đến sự hoạt động, phát triển
hay giải thể của doanh nghiệp.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, số lượng doanh nghiệp thương mại nhà
nước theo qui mô tổng nguồn vốn các năm vừa qua như sau:
MỨC VỐN 1996 1997 6 THÁNG 1998
S.LƯỢNG
D.N

CẤU(%)
S.LƯỢNG
D.N

CẤU(%)
S.LƯỢNG

D.N

CẤU(%)
Dưới 1 tỷ
từ 1 - 5 tỷ
từ 5 - 10 tỷ
từ 10 - 50 tỷ
từ 50 - 100 tỷ
từ 100 tỷ trở lên
354
567
244
250
98
53
22,5
36,2
15,6
16
6,3
3,4
167
484
246
445
103
121
10,7
30,9
15,7

28,4
6,6
7,7
145
485
246
461
111
118
9,3
31
15,7
29,4
7
7,6
Nhìn vào thống kê trên ta có thể thấy:
Số doanh nghiệp thương mại nhà nước có mức vốn dưới 1 tỷ đồng có xu
hướng giảm, năm 1996 có 354 doanh nghiệp , năm 1997 có 167 doanh nghiệp và 6
tháng đầu năm 1998 còn 145 doanh nghiệp. Điều này thể hiện các Nghị định chính
phủ ban hành 6 tháng cuối năm 1996 (50/CP,59/CP) về nâng vốn pháp định của
doanh nghiệp thương mại nhà nước lên một tỷ đồng và quy địnhviệc bổ sung vốn
điều lệ hoặc phá sản đối với doanh nghiệp chưa dủ vốn đã có tác dụng tích cực.
Số các doanh nghiệp có mức vốn từ 1 - 5 tỷ đồng chiếm tỷ trọng khá cao (trên
30%) trong tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước , đây là các doanh nghiệp có
mức vốn tương đối nhỏ. Các doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng hầu hết là các
doanh nghiệp địa phương, không hoặc ít đóng vai trò điều tiết hàng hoá.
Số doanh nghiệp có mức vốn từ 5 --50 tỷ đồng chiếm tỷ lệ đáng kể và tăng
lên. Như vậy các doanh nghiệp này có thể hoạt động khá linh hoạt trên thị trường .
21
Các doanh nghiệp có mức vốn tư 50 tỷ trở lên có xu hướng tăng lên qua các

năm. Năm 1996 có 151 doanh nghiệp chiếm 9,7%, năm 1997 có 224 doanh nghiệp
chiếm 14,3%, 6 tháng đầu năm 1998 có 229 doanh nghiệp chiếm 14,6%. Điều này
chứng tỏ số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn có xu hướng tăng.Trong đó số
các doanh nghiệp có mức vốn từ 100 tỷ trở lên đã tăng lên nhanh chóng và có thể
thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao về cân đối ổn định hàng trong nước và là đối
trọng khi kinh doanh với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên vẫn chưa đáng kể so
với các tập đoàn lớn trên thế giới.
Số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước đông nhưng chưa mạnh, vẫn chủ
yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy đã được nâng lên một bước về vốn đầu tư
của nhà nước, giảm bớt những doanh nghiệp quá nhỏ qua giải thể hay cổ phần hoá
nhưng tốc độ cải thiện còn chậm. Nguồn vồn phân bổ còn phân tán. Ngay cả những
doanh nghiệp trọng điểm của nhà nước tình trạng thiếu vốn vẫn là phổ biến. Ở Tp
Hồ Chí Minh - một địa bàn hoạt động sôi nổi nhất về thương mại thì các doanh
nghiệp thương mại nhà nước vẫn có 70% trong tình trạng thiếu vốn.
Cơ cấu vốn kinh doanh còn nhiều hạn chế. Vốn cố định hầu hết nằm ở tài sản
cố định và ít nằm trong đầu mối giao thông quan trọng nên chưa phát huy được tác
dụng. Vốn lưu động còn mỏng làm hạn chế tính chủ động về nguồn hàng dự trữ khi
cần, giảm sức cạnh tranh và hạn chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.Thực tế
lượng vốn huy động vào quá trình kinh doanh chỉ đạt 80%. Riêng vốn lưu động mới
chỉ đạt khoảng 50% trong tổng số vốn lưu động hiện có, số còn lại nằm trong hàng
hoá vật tư, ở các khoản nợ phải thu, phải trả khác. Mỗi năm các doanh nghiệp
thương mại do Bộ thương mại quản lý mới được bổ sung thêm 10 tỷ đồng. Lượng
vốn đó chưa đáp ứng được yêu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp mà mới chỉ
mang tính trợ giúp nhỏ lẻ.
Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải vay được vốn từ ngân hàng hay huy động
vốn cổ phần, liên doanh, liên kết... Song việc vay vốn ngân hàng chưa thực sự thích
ứng cho hoạt động kinh doanh loại hình doanh nghiệp thương mại cũng như đặc
điểm chu chuyển thực tế từng mặt hàng và ngành hàng. Nhất là đối với doanh
nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu phải thu mua sản phẩm theo mùa vụ như gạo,
mía, hạt điều... Mặt khác lãi suất ngân hàng quá cao (1,75%/tháng), thời hạn ngắn,

doanh nghiệp không đủ sức ứng trước vốn cho nông dân thâm canh tăng năng suất,
dự trữ nguyên liệu, nguồn hàng xuất khẩu với số lượng đủ lớn, đáp ứng nguyên liệu
cho sản xuất chế biến lâm thổ sản. Điều này đã dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn
lớn giữa các bạn hàng trong nước, bị thua thiệt khi phải buôn bán nhỏ lẻ từng
thương vụ với bạn hàng nước ngoài.
2.3.Quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước :
22
Quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước lớn song hiệu
quả còn hạn chế, tốc độ chu chuyển vốn cồn thấp (năm 92-93 vào khoảng 4
vòng/năm). Nhất là ở các doanh nghiệp địa phương vốn ít, chỉ chiếm 20% tổng số
vốn của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, hiệu quả sử dụng và vòng quay vốn
là rất thấp. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp không chú ý đúng mức tới việc tổ
chức các kênh lưu thông hợp lý hoặc tổ chức đại lý và có quy trình cung ứng chắc
chắn, ổn định cho thị trường nội địa, dễ bị một số doanh nghiệp có vốn hoặc tạo
được vốn khá nhưng lại thiếu năng động trong quản lý sử dụng vốn không đúng mục
đích, dùng vốn lưu động để xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị đắt tiền...
đầu tư xây dựng cơ bản chưa có trọng điểm, tràn lan hoặc dự báo không đúng diễn
biến của thị trường dẫn đến tình trạng thua lỗ không trả được nợ. Một số doanh
nghiệp đưa vốn lưu động vào liên doanh, liên kết nhưng chưa phát huy đựoc hiệu
quả hoặc chưa có hiệu quả, thậm chí có trường hợp thất thoát vốn trong quá trình
liên doanh.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lấn át. Về cơ chế quản lý
tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, do từ trước tới nay các doanh nghiệp
thương mại nhà nước chịu sự quản lý theo hai mặt: quản lý của nhà nước theo quy
định của pháp luật và quản lý nhà nước theo chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp nhà
nước nên có tình trạng vừa buông lỏng vừa cứng nhắc. Hai mặt này có lúc bị lẫn
lộn, làm cho giới hạn trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp thương mại nhà nước
không rõ ràng và cuối cùng nhà nước phải gánh chụi thua lỗ (nếu có), nếu không lại
gây cho doanh nghiệp phải tuân thủ cứng nhắc các quy định về sử vốn bỏ qua nhiều
cơ hội kinh doanh, không tạo động lực thực sự thúc đẩy doanh nghiệp và người lao

động làm ăn có hiệu quả.
2.4.Về lao động :
Lao động là một yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, mỗi doanh nghiệp để nâng cai hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải biết
khuyến khích lợi ích cả vật chất lẫn tinh thần và trách nhiệm đối với người lao động.
Doanh nghiệp cũng cần có những chính sách thu hút lao động có chất lượng hướng
vào doanh nghiệp để tuyển chọn khi mở rộng kinh doanh.
Về số lượng lao động, các doanh nghiệp thương mại nhà nước có số lao động
bình quân hàng năm tăng không đáng kể, xu hướng lao động chuyển sang và tăng
nhanh ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên lượng lao động trong các
doanh nghiệp thương mại nhà nước là không nhỏ. Tình hình phân bổ lao động ở các
doanh nghiệp thương mại nhà nước những năm gần đây:
23
QUI MÔ LAO ĐỘNG
1997
SỐ DOANH
NGHIỆP
SỐ LAO
ĐỘNG
1998
SỐ DOANH
NGHIỆP
SỐ LAO
ĐỘNG
1 -10 lao động
11 - 30 lao động
31 - 100 lao động
101 - 500 lao động
500 - 1000 lao động
1000 lao động trở lên

31
271
593
572
68
31
116
5769
35287
122039
46093
58939
18
265
613
570
69
31
135
5591
36088
121313
47410
57970
Có thể thấy tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước, số các doanh nghiệp
có lao động dưới 100 lao động và từ 101 - 500 lao động chiếm đa số. Điều đó cho ta
thấy qui mô lao động của doanh nghiệp thương mại nhà nước chủ yếu là doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp có trên 500 lao động chỉ chiếm 6,3% (năm
1997).
Lực lượng lao động ở các doanh nghiệp được thay thế và bổ sung bằng đội

ngũ lao động trẻ khoẻ, có nghiệp vụ , thay dần đội ngũ lao động cũ. Chất lượng lao
động chưa cao về trình độ nghiệp vụ chuyên môn, chủ yếu vẫn là lao động phổ
thông thực hiện các hoạt động dịch vụ , bán hàng, vận chyển... lao động chưa thể
hiện được sự chuyên sâu trong hoạt động thương mại và còn thua kém về sự năng
động, tính linh hoạt sáng tạo và tinh thần trách nhiệm đối với doanh nghiệp nếu so
sánh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp cổ phần... Điều này ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các doanh
nghiệp thương mại nhà nước chưa phản ánh đúng tiềm năng thực sự của doanh
nghiệp, và cũng ảnh hưởng tới thu nhập của doanh nghiệp và bản thân người lao
động. Đa số các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiên nay có mức thu nhập tháng
bình quân trên đầu người ở mức 400.000 đồng trở xuống và có tới 33 doanh nghiệp
có mức thu nhập bình quân đầu người 150.00 đồng (năm 1997). Số doanh nghiệp có
mức thu nhập bình quân đầu người trên 1 triệu đồng/ tháng chỉ chiếm khoảng 15%
trên tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Một vấn đề đang đặt ra cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng như
cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung là năng lực trình độ của đội ngũ nhà quản
lý, quản trị và cán bộ nghiệp vụ kinh doanh ở các doanh nghiệp còn thấp. Nhất là
học vấn và bề dầy kinh nghiệm trong buôn bán làm ăn với bạn hàng nước ngoài.
Theo điều tra của các doanh nghiệp nhà nước thời gian gần đây cho thấy khả năng
điều hành của giám đốc doanh nghiệp như sau:
24
TIÊU CHÍ
DOANH NGHIỆP
TRUNG ƯƠNG
DOANH NGHIỆP
ĐỊA PHƯƠNG
CÓ LÃI ĐỦ CHI THUA LỖ CÓ LÃI ĐỦ CHI THUA LỖ
Theo số năm làm việc
- làm 5 năm liên tục
- 6 -9 năm liên tục

- 10 -14 năm liên tục
- 15 -19 năm liên tục
- trên 20 năm liên tục
Theo bằng cấp
- Không có bắng cấp
- Có bằng trung cấp
- Có bằng đại học
- Có bằng thạc sĩ trở lên
68
74
71
71
64
13
69
76,7
80,6
25
19
20
22
33
13
27,4
23,1
19,4
7
7
9
7

3
74
3,6
0,2
54
65
67
65
63
14
80,5
73,5
70
39
27
26
27
29
15
18,9
24,5
20
7
8
7
8
8
71
0,6
2,0

10
Có thể thấy dù là ở doanh nghiệp trung ương hay địa phương, cán bộ quản trị
có bằng cấp càng cao thì khả năng doanh nghiệp có lãi càng nhiều và thâm niên làm
việc càng nhiều thì khả năng bị thua lỗ giảm đi. Những yếu kém thiếu hụt về học
vấn và bề dầy kinh nghiệm của giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp sé dẫ đến
thất bại trong đàm phán, bị động, thậm chí, bị lường gạt trong kinh doanh . Đó sé là
nguy cơ dẫn đến sự thua thiệt, thậm chí phá sản doanh nghiệp mà trong những năm
gần đây chúng ta vẫn bắt gặp. Cần phải coi đây là một trong những vấn đề trọng tâm
bức xúc phải giải quyết để nâng cao nội lực cho các doanh nghiệp.
2.5.Về thị trường:
Do chuyển sang cơ chế thị trường nhường chỗ cho các thành phần kinh tế
khác phát triển, thương mại nhà nước đã giảm bớt đầu mối bán lẻ mà tăng cường vai
trò bán buôn trên thị trường trong nước, tuy thương mại nhà nước chiếm tỷ trọng
không lớn về bán lẻ (khoảng 20-30%) nhưng vẫn giữu vai trò chủ đạo, điều phối
hoạt động thương mại trên cả nước thông qua việc nắm giữ các nguồn hàng và
mạng lưới bán buôn trên toàn quốc (70-80%) cùng một số mặt hàng quan trọng có ý
nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế như: xăng, dầu, than, thuốc lá...
Các doanh nghiệp thương mại nhà nước trong những năm gần đây đã chú
trọng phát triển đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực khác
như: khách sạn, nhà hàng, du lịch, dịch vụ... Điều đó xuất phát từ nhu cầu của mỗi
doanh nghiệp bởi nếu chỉ làm lưu thông thuần tuý thì khó dứng vững trên thương
trường. Các doanh nghiệp đã phải tích cực nghiên cứu thị trường, chuyển hướng sản
25

×