Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

561 Dự báo nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.08 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu ......................................................................................................2
I/Cơ sở lý luận và thực tiễn của hiện tượng dự báo.....................................3
1. Cầu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng .....................................................3
1. 1Khái niệm cầu thị trường ............................................................................3
1. 2Các nhân tố ảnh hưởng tới cầu thị trường ..................................................3
2. Phân tích mặt hàng dự báo ...........................................................................4
2. 1Đặc điểm, tính chất mặt hàng .....................................................................4
2. 2Những nhân tố ảnh hưởng tới cầu mặt hàng xăng trên thị trường Hà Nội
và biến động của những nhân tố này trong thời gian qua.................................5
2. 3 Xu thế biến động cầu thị trường xăng .....................................................10
II/Lựa chọn mô hình dự báo và xử lý số liệu..............................................12
1. Lựa chọn phương pháp dự báo ...................................................................12
2. Thu thập, xử lý sơ bộ thông tin dữ liệu cho mô hình dự báo.....................13
III/Mô phỏng và dự báo ...............................................................................21
1. Kết quả dự báo ...........................................................................................21
2. Đánh giá độ tin cậy của dự báo ..................................................................22
3. Các phương án dự báo khác........................................................................23
Kết luận..........................................................................................................25
Tài liệu tham khảo.........................................................................................26
Lời Mở Đầu
1
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học -công nghệ như hiện nay, con
người đã tìm ra nhiều nguồn nhiên liệu mới nhưng chưa có loại nhiên liệu nào
có khả năng thay thế xăng dầu do có trữ lượng lớn và đem lại hiệu quả cao
trong sử dụng. Trong bất kì nền kinh tế phát triển ở mức độ nào xăng luôn
được coi là mặt hàng chiến lược. Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung,
kinh tế Hà Nội nói riêng, xăng dầu luôn được coi là một mặt hàng thiết yếu.
Việc đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu của sản xuất cũng như sinh họat
không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà có cả yếu tố đảm bảo sự ổn định về mặt
chính trị. Do thiếu vốn và công nghệ, hiện nay Việt Nam đang xuất khẩu dầu


thô và toàn bộ lượng xăng tiêu thụ trên thị trường đều phải nhập khẩu, hàng
năm nhà nước thu được một lượng ngoại tệ lớn từ xuất khẩu dầu thô nhưng
cũng phải chi một lượng ngoại tệ không nhỏ để nhập khẩu lại xăng dầu, trong
đó xăng chiếm hơn một nửa. Trước những biến động liên tục của giá xăng
trên thế giới, hoạt động sản xuất cũng như tiêu dùng đều gặp không ít khó
khăn đã cho thấy mức độ quan trọng của nguồn nhiên liệu này. Vì vậy dự báo
nhu cầu xăng dầu xăng dầu tại Hà Nội, một thị trường tiêu thụ xăng lớn thứ
hai cả nước không chỉ cần thiết đối với các đơn vị kinh doanh xăng dầu trên
địa bàn thành phố mà còn có ý nghĩa đối với các công ty nhập khẩu xăng dầu
đầu mối để có kế hoạch nhập khẩu và dự trữ xăng, nhằm đảm bảo hiệu quả
sản xuất kinh doanh và ổn định kinh tế chính trị.
Do đó em chọn đề tài dự báo nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Do việc nhập khẩu xăng chiếm một lượng ngoại tệ lớn của nền
kinh tế và cơ sở vật chất cho việc dự trữ xăng còn nhiều hạn chế nên các công
ty kinh doanh xăng dầu, công ty nhập khẩu đầu mối cũng như các cơ quan
quản lý nhà nước chỉ xây dựng kế hoạch nhập khẩu và kinh doanh cho từng
năm dựa trên dự báo nhu cầu tiêu thụ của thị trường cho từng năm, nên đề tài
chỉ dự báo cầu thị trường của mặt hàng xăng cho năm 2005.
2

I/CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HIỆN TƯỢNG DỰ BÁO
1/Cầu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
1. 1Khái niệm cầu
Cầu là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng
mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Như vậy khi đề cập tới cầu phải chú ý rằng đó chính là các nhu cầu có khả
năng thanh toán hay nói cách khác khách hàng có khả năng mua và sẵn sàng
mua hàng hóa hoặc dịch vụ đó để thỏa mãn nhu cầu. Cầu chỉ số lượng hàng
hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng muốn có ở mức giá hiện hành. Cầu sinh
ra do nguyện vọng hưởng thụ vật chất của con người và bị hạn chế bởi khả

năng thanh toán, do đó cầu là sự thống nhất giữa khả năng và nguyện vọng.
Cần phân biệt các khái niệm sau đây:
-Cầu đối với hàng hóa mà người tiêu dùng mong muốn và có khả năng trả
tiền mua gọi là cầu hữu hiệu hay cầu thực sự. Nếu cầu chỉ là ý muốn có hàng
hóa hoặc dịch vụ mà không có khả năng trả tiền gọi là cầu mong ước (nhu
cầu).
-Cầu đối với hàng hóa mà có thể tăng lên hay giảm xuống theo sự thay đổi
giá cả của hàng hóa đó gọi là cầu co giãn. Ngược lại, cầu đối với một hàng
hóa không thể hoặc rất khó tăng lên hay giảm xuống khi giá cả hàng hóa hạ
xuống hay tăng lên gọi là cầu không co giãn.
-Cầu đối với một hàng hóa không phải vì trực tiếp cần nó mà để qua nó có
được hàng hóa khác mà người ta cần gọi là cầu gián tiếp.
3
-Cầu đối với hai hàng hóa cần sử dụng liền với nhau gọi là cầu liên kết. Cầu
đối với hai hay nhiều hàng hóa hoặc đối với những yếu tố sản xuất có thể
thay thế nhau được (như chè, cà phê, nước khoáng để uống) gọi là cầu thay
thế.
-Cầu độc lập và cầu phụ thuộc. Cầu độc lập là cầu về một hàng hóa hay dịch
vụ nào đó mà nó xảy ra một cách riêng rẽ với cầu hàng hóa khác. Ngược lại,
cầu về hàng hóa hay dịch vụ nào đó mà có liên hệ với cầu của hàng hóa hoặc
dịch vụ khác thì được gọi là cầu phụ thuộc.
1. 2Các nhân tố ảnh hưởng tới cầu thị trường.
Qua phân tích cầu cũng như trên thực tế lượng hàng hóa mà người tiêu dùng
muốn mua và có khả năng mua phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có
các yếu tố cơ bản sau đây:
-Gía hàng hóa:đối với hầu hết mọi hàng hóa thì đây là yếu tố quyết định trực
tiếp tới lượng tiêu dùng hàng hóa. Giá cả có quan hệ tỉ lệ nghịch với lượng
hàng hóa được tiêu thụ do giới hạn khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
Khi giá cả tăng lên lượng tiêu dùng mọi loại hàng hóa đều giảm và ngược lại
khi giá giảm người tiêu dùng đều tăng mức tiêu dùng hơn so với trước.

-Thu nhập của người tiêu dùng:là yếu tố quan trọng xác định cầu do nó ảnh
hưởng trực tiếp tới khả năng mua của người tiêu dùng. Khi thu nhập tăng
người tiêu dùng cầu nhiều hàng hóa hơn và ngược lại.
-Giá cả các hàng hóa liên quan: cầu đối với một loại hàng hóa không chỉ phụ
thuộc vào giá của bản thân hàng hóa đó mà còn phụ thuộc vào giá của hàng
hóa liên quan gồm hàng hóa bổ sung và hàng hóa thay thế.
Đối với hàng hóa bổ sung:là hàng hóa sử dụng đồng thời với hàng hóa khác.
Khi giá hàng hóa tăng lên thì cầu của hàng hóa bổ sung giâm.
Đối với hàng hóa thay thế: khi giá của một loại hàng hóa tăng thì cầu đối với
loại hàng hóa thay thế tăng.
4
-Dân số :đối với mặt hàng mà hầu hết người dân phải sử dụng thì quy mô dân
số tác động không nhỏ tới cầu thị trường của hàng hóa đó. Khi dân số tăng thì
cầu hàng hóa đó cũng tăng.
ngoài các yếu tố trên thì có một số yếu tố khác cũng tác động tới cầu thị
trường của một số loại hàng hóa nhất định như thị hiếu người tiêu dùng, các
kì vọng của người tiêu dùng về thu nhập, giá cả. . .
2. Phân tích mặt hàng dự báo.
2. 1 Đặc điểm, tính chất mặt hàng xăng.
Xăng là mặt hàng chiến lược có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân, quốc phòng, an ninh và đời sống dân sinh. Có thể nói xăng như mạch
máu của cơ thể đời sống xã hội do Nhà nước thống nhất quản lý. Hiện nay
xăng nước ta phải nhập khẩu 100%, giá xăng và nguồn nhập khẩu phụ thuộc
rất lớn vào giá và nguồn xăng dầu trên thế giới do đó việc dự báo cầu thị
trường của mặt hàng này để có kế hoạch nhập khẩu cũng như dự trữ là rất cần
thiết.
Xăng hiện nay chủ yếu được dùng làm nhiên liệu cho hầu hết các phương
tiện giao thông vận tải như xe máy, ô tô, máy bay, tàu thuyền, ngoài ra xăng
còn là nhiên liệu cho máy móc thiết bị trong công nghiệp, nông nghiệp.
Xét trên phạm vi thị trường Hà Nội xăng được tiêu thụ chủ yếu cho các

phương tiện giao thông. Với đặc điểm Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa,
xã hội, chính trị của cả nước, dân cư có mức thu nhập tương đối cao, số lượng
phương tiện giao thông nhiều và có mạng lưới giao thông thuận tiện nội vùng
cũng như đối với các với các vùng lân cận do đó xăng được coi là mặt hàng
thiết yếu rất quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội của thủ đô.
2. 2 Những nhân tố ảnh hưởng tới cầu mặt hàng xăng trên thị trường Hà Nội
và biến động của những nhân tố này trong thời gian qua.
5
-Giá xăng:
Đối với bất kì mặt hàng nào thì giá cả luôn là mối quan tâm hàng đầu của
khách hàng. Tính trung bình mỗi gia đình ở Hà Nội có từ 1-2 chiếc xe máy
với mức chi tiêu cho tiền xăng tính trung bình ở mức 150000-200000
đồng/xe, khoản tiền này chiếm một tỉ trọng không nhỏ trong tổng chi tiêu của
đại đa số các gia đình. Mặt khác, giá xăng trên thị trường mặc dù được Nhà
nước điều tiết nhưng vẫn tăng liên tục trong thời gian qua do đó được người
tiêu dùng quan tâm đặc biệt, họ có xu hướng tiết kiệm trong tiêu dùng và điều
có tác động nhất định tới cầu mặt hàng xăng. Chỉ trong vòng ba năm trở lại
đây giá xăng tăng liên tục từ 4300 -> 5100 -> 5400 -> 5600 -> 6000 -> 7000
-> 7500đ. Đặc biệt chỉ trong khoảng từ đầu năm 2004 đến nay giá xăng tăng 3
lần.
Ngày 21/2 bộ Tài chính ban hành quyết định 20/04/QĐ-BTC về giá định
hướng xăng dầu năm 2004 cho các loại xăng như sau:
MOGAS 83: 5600 đ/lít MOGAS 90: 5800đ/lít MOGAS 92:6000đ/lít
So với trước giá các loại xăng đều tăng 200đ/lít trong khi giá xăng dầu trên
thế giới dao động ở mức 39-40 USD /thùng. Giá bán lẻ xăng trong nước mới
tăng 7% trong khi giá xăng trên thị trường thế giới tăng 18%. Như vậy giá
xăng trên thị trường nội địa mới tăng nhẹ do Nhà nước sử dụng các biện pháp
tạm thời như giảm thuế nhập khẩu xăng còn 5%, bù lỗ nhập khẩu xăng nhằm
tránh phản ứng dây chuyền làm tăng giá các mặt hàng khác.
Ngày 18/6 bộ Tài chính ban hành quyết định 56/04/QĐ-BTC về điều chỉnh

giá bán xăng :
MOGAS 90: 6800đ/lít MOGAS 92 :7000đ/lít
Ngày 1/11 bộ trưởng bộ Thương mại đã quy định cho phép các doanh
nghiệp kinh doanh nhập khẩu đầu mối được +500đ/lít đối với mỗi chủng loại
xăng theo đó :
6
MOGAS 83:7100đ/lít MOGAS 90: 7300đ/lít MOGAS 92:7500đ/lít
Do giá xăng dầu trên thị trường thế giới tiếp tục lên cao, đỉnh điểm đạt 55
USD /thùng, Chính phủ cũng đã giảm thuế nhập khẩu xăng xuống 0% và
không thể tiếp tục bù lỗ cho mặt hàng xăng đồng thời đảm bảo mức lợi nhuận
hợp lý cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nên đã cho phép tăng giá
xăng như quyết định của bộ Thương mại. Như vậy trong năm 2004 giá xăng
đã tăng 1500đ/lít, việc này có ảnh hưởng tới đời sống nhân dân và hoạt động
sản xuất kinh doanh. Người dân thì phải chi nhiều hơn cho tiền xăng còn các
doanh nghiệp kinh doanh vận tải đặc biệt là các hãng taxi trên địa bàn Hà Nội
đã phải đồng loạt tăng giá cước 1000-1500đ/km.
Nhìn chung việc tăng giá xăng có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống kinh tế -xã
hội trên địa bàn Hà Nội nhưng chủ yếu làm tăng chi tiêu cho tiền xăng và kéo
theo sự tăng giá các mặt hàng khác chứ ít tác động tới cầu mặt hàng này.
Nguyên nhân là do hệ thống cung cấp các nhiên liệu khác có khả năng thay
thế xăng chưa phát triển, mặt khác đây là mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu câu
đi lại không thể thiếu do đó việc tăng giá chỉ có thể làm cho người sử dụng
tiết kiệm hơn nên không tác động đáng kể tới cầu.
-tổng thu nhập nội vùng GDP:
Sau yếu tố giá cả thì yếu tố thứ hai quyết định lượng mua của người tiêu
dùng là thu nhập, yếu tố quyết định khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
Xét trên cả thị trường thì có thể sử dụng chỉ tiêu tổng thu nhập nội vùng GDP
để đánh giá thu nhập cũng như mức sống của dân cư có ảnh hưởng như thế
nào đến cầu thị trường.
Với vai trò trung tâm chính trị, văn hóa -xã hội cũng như kinh tế của của cả

nước, thời gian qua Hà Nội đã đạt được những thành tựu quan trọng trên
nhiều lĩnh vực, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao và ổn định, điều
này có thể thấy qua bảng số liệu sau:
7

Một số chỉ tiêu kinh tế Hà Nội thời kì 1995-2003
GDP(tính theo
giá cố định)
dân số
dân số
(1000 người )
thu nhập /người
(triệu đồng)
10619587 2193. 8 4840. 727
12021365 2230. 1 5390. 505
13581920 2285. 4 5942. 907
15291945 2356. 5 6489. 262
17128332 2553. 7 6707. 261
18287510 2688 6803. 389
19999181 2737. 3 7306. 171
22003990 2790. 8 7884. 474
24653815 2847. 1 8659. 273
27390900 3055. 3 8965. 044

(Nguồn :Niên giám thống kê Hà Nội năm 1999, 2003)
GDP Hà Nội năm 2003 tăng gấp 3. 3 lần so với năm1995, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhìn chung đời sống
của nhân dân đều được nâng cao thu nhập bình quân đầu người tăng 2. 4 lần
so với năm 1995. Thu nhập thực tế của hầu hết hộ gia đình đều đảm bảo các
nhu cầu thiết yếu và có khả năng mua sắm các tài sản lâu bền có giá trị lớn

như xe máy, vì vậy thu nhập tăng là nguyên nhân dẫn tới tốc độ tiêu thụ xe
máy của dân cư Hà Nội tăng. Hiện nay theo thống kê trung bình mỗi hộ gia
đình tại Hà Nội có từ 1-2 chiếc xe máy, mà số lượng xe máy tăng là nguyên
nhân dẫn tới cầu mặt hàng xăng tăng vì đây là đối tượng tiêu thụ đa số lượng
xăng trên địa bàn. Như vậy thu nhập tăng có tác động trực tiếp cả trực tiếp lẫn
8
gián tiếp tới cầu thị trường do khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng
lên chi phí tiền xăng tính trung bình trên một xe cũng có xu hướng tăng và tác
động chủ yếu là do số lượng phương tiện cá nhân tăng sẽ làm tăng cầu thị
trường về mặt hàng xăng. Theo chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của
thành phố Hà Nội, thành phố phấn đấu về kinh tế tăng tỉ trọng GDP của Hà
Nội trong tổng GDP của cả nước từ 7. 3% năm 2000 lên 8. 3% vào năm 2005,
GDP/người năm 2005 gấp 1. 5 lần năm 2000. Như vậy năm 2005 là năm
phấn đấu hoàn thành kế họach 2001-2005, cùng với nhiều biện pháp, chính
sách mạnh cải cách và hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội, năm 2005 hứa hẹn là
một năm kinh tế tăng trưởng cao.
-Số lượng các phương tiện giao thông sử dụng xăng:
Đây là yếu tố quan trọng nhất tác động tới cầu mặt hàng xăng trên thị trường
Hà Nội. Cùng với sự gia tăng nhanh của dân số cũng như sự nâng cao mức
sống của người dân dẫn tới số lượng các phương tiện giao thông cá nhân cũng
như công cộng phâi tăng theo với tốc độ nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại
của nhân dân. Theo thống kê số lượng phương tiện giao thông đăng ký trên
địa bàn Hà Nội của hai loại phương tiện giao thông chủ yếu như sau:


Loại phương tiện Xe máy Ô tô
1990 195447 34222
2000 785969 96697
2003 1180151 122818
9

Qua số liệu trên cho thấy cả hai loại phương tiện giao thông đều tăng mạnh trong
những năm gần đây. Trong vòng 10 năm từ 1990 -> 2000 số lượng xe máy tăng 4
lần, từ năm 2000 -> 2003 số lượng xe máy tăng 1, 5 lần. Xét về mặt số lượng, xe
máy vẫn là phương tiện giao thông chủ yếu chưa có phương tiện thay thế do giá
cả phù hợp với mức thu nhập trung bình, thuận tiện, nhanh và cơ động. Với mức
thu nhập như hiện nay đa số hộ gia đình chưa có khả năng mua ô tô riêng, taxi là
loại phương tiện được ưa dùng nhưng tốn kém còn xe đạp có ưu thế chi phí rẻ
nhưng tốc độ chậm, ngoài ra còn phải kể tới sự phát triển của hệ thống xe buýt
hiện đại đă thu hút được sự quan tâm và sử dụng của nhiều người đặc biệt là
những người chưa có phương tiện riêng nhưng nó cũng có nhược điểm mất thời
gian, không thuận tiện cho những người phải di chuyển nhiều. Nên có thể nói xe
máy vẫn là phương tịên chiếm ưu thế trong vài năm tới và đây là đối tượng tiêu
thụ xăng chủ yếu. Tốc độ tăng về cầu mặt hàng xăng sẽ tăng tỉ lệ thuận với tốc độ
tăng của loại phương tiện này.
-Nhiên liệu thay thế xăng:
Nhiên liệu thay thế xăng ngày càng được nhắc tới nhiều hơn không chỉ do giá
xăng ngày càng leo thang mà còn do mức độ ô nhiễm của các động cơ sử dụng
xăng khá cao. Hiện nay có hai loại nhiên liệu thay thế xăng phổ biến trên thế giới
là diezen và các loại nhiên liệu sạch. Diezen là loại nhiên liệu hiện đang được sử
dụng phổ biến và có mạng lưới cung cấp thuận tiện như xăng ngay khắp thành
phố (ở cửa hàng xăng dầu nào cũng có hệ thống cung cấp đồng thời cả hai sản
phẩm này). Như vậy chỉ xét riêng về tính thuận tiện thì hai loại nhiên liệu này có
mức độ cạnh tranh như nhau nhưng diezen lại có ưu thế về giá rẻ. Đây là yếu tố
hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải, do đó sẽ
tác động tới sự lựa chọn các loại xe có hệ thống nhiên liệu sử dụng diezen. Ngoài
ra các loại nhiên liệu sạch ít gây ô nhiễm môi trường đang được sự quan tâm của
10
các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp cung ứng nhiên liệu. Nhiên liệu
sạch được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay có khí tự nhiên, khí hóa lỏng
(LPG), metanol, etanol, diezen sinh học. Trong các loại nhiên liệu này thì khí

hóa lỏng (LPG) đang rất được quan tâm sử dụng tại các đô thị lớn tại Việt Nam
như Hà Nội. Khí hóa lỏng (LPG) là nhiên liệu đốt sạch, rẻ và sẵn có nhiều nơi
trên thế giới. Vì hệ thống nhiên liệu xe chạy bằng khí nén nên khí thất thoát khi
bơm nhiên liệu không đáng kể. Khí thải của LPG là hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
và CO cũng giảm đi. Với hiệu suất năng lượng tương đương, khí thải hiệu ứng
nhà kính thải ra từ xe chạy LPG thấp hơn khoảng 15-20%. LPG là loại nhiên liệu
dùng cho động cơ đánh lửa, chi phí chuyển đổi xe chạy xăng sang chạy LPG
tương đối rẻ do giá thành bình chứa thấp và dễ dàng mang trên thân xe. LPG
đang được sử dụng rộng rãi làm nhiên liệu cho xe ở Mĩ, Canada, Hà Lan, Nhật và
một số nơi khác. ở Nhật, 260000 xe taxi chiếm 94% đội xe taxi của nước này
đang dùng LPG. Nhiều xe taxi chạy diezen ở HongKong, Trung Quốc cũng đã
chuyển sang chạy bằng LPG. Trong khi LPG đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều
nơi trên thế giới thì nó mới chỉ đặt những bước chân đầu tiên trên thị trường Hà
Nội. Tiên phong trong việc sử dụng phổ biến LPG là công ty taxi Gas petrolimex,
doanh nghiệp đều sử dụng xe ô tô có hệ thống nhiên liệu chạy bằng LPG và có
khả năng tự cung ứng nhiên liệu do là công ty thành viên của công ty Gas
Petrolimex. Trong tương lai không xa thì hệ thống xe buýt Hà Nội cũng sẽ
chuyển sang sử dụng loại nhiên liệu này. Công ty dầu khí Sông Hồng (Sông
Hồng Gas) đã phối hợp với công ty Vận tải và dịch vụ hành khách công cộng Hà
Nội (Transerco) để phát triển Autogas cho lực lượng xe buýt Hà Nội sau đó sẽ
tiếp tục cho các khách hàng khác. Hiện nay hai bên đã hoàn chỉnh phần nghiên
cứu phân tích, khâu tiếp theo là lựa chọn thiết bị phù hợp để lắp đặt trên các xe
đang sử dụng, kiểm soát vị trí lắp đặt và thực hiện thiết kế các trạm nạp gas. Các
công trình liên quan đang thực hiện ở mức đề tài nghiên cứu, sản xuất thử
11
nghiệm và sử dụng trên phạm vi hẹp. Như vậy chúng ta có thể nhìn thấy xu
hướng phát triển của LPG, LPG cũng sẽ trở thành nhiên liệu chủ yếu thay thế
một phần nhu cầu về xăng trong tương lai. Hạn chế hiện nay của LPG là hệ thống
cung cấp nhiên liệu. Các doanh nghiệp cung ứng nhiên liệu trên địa bàn Hà Nội
mới đang thử nghiệm và lên kế hoạch xây lắp các trạm bán LPG nên trong năm

2005, sự xuất hiện của LPG sẽ chưa có tác động đáng kể tới nhu cầu về xăng.
Mặt khác loại nhiên liệu này sẽ chỉ tác động tới cầu xăng của những cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức sử dụng ô tô còn không tác động tới những người sử dụng
xe máy do xe máy không có cấu tạo sử dụng phù hợp cũng như chưa có các thiết
bị chuyển đổi. Do đó việc dự báo nhu cầu xăng trên địa bàn thời kì dài hạn sẽ
phải xem xét tới mức độ ưa thích và sử dụng LPG của những người sử dụng ô tô.
- Các yếu tố khác:
+ sự phát triển của mạng lưới giao thông thành phố:
Xây dựng kết cấu hạ tầng và quản lý đô thị trên địa bàn thành phố có một số mặt
tiến bộ, bộ mặt thủ đô những năm gần đây có những thay đổi khang trang, hiện
đại hơn. Phương án điều chỉnh quy hoạch không gian đô thị đã được phê duyệt,
bằng nhiều nguồn vốn thành phố đã tập trung đầu tư xây dựng nâng cấp kết cấu
hạ tầng đô thị mở rộng nhiều tuyến đường, nút giao thông quan trọng.
Tình hình phát triển cơ sở hạ tầng đô thị


Đơn vị Năm
1995
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Đường xây mới km 0. 5 10. 5 3. 6 1. 3 22
Đường rải thảm mới 1000m2 174 250 420 500 614
12
Bên cạnh cơ sở hạ tầng giao thông nội đô, rất nhiều đường cao tốc, đường quốc

lộ hướng từ thành phố đến các tỉnh đã được xây mới, cải tạo nâng cấp tạo điều
kiện thuận lợi cho nhu cầu đi lại của nhân dân. Nhìn vào mật độ giao thông của
Hà Nội những năm gần đây cả trong và ngoài giờ cao điểm đều thấy sự tăng vọt
về lưu lượng các phương tiện giao thông trong đó có sự đóng góp đáng kể của
các phương tiện giao thông của các tỉnh lân cận. Với sự phát triển kinh tế và
mạng lưới giao thông kéo theo sự gia tăng trong nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu của
các loại phương tiện Việc dự báo nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu trên địa bàn Hà Nội
phải tính tới cả tiêu thụ nhiên liệu của các phương tiện vãng lai khi Hà Nội ngày
càng khẳng định vị trí trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, văn hóa,
xã hội, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
+Sự phát triển của dịch vụ vận tải hành khách công cộng.
Năm 1998, Chính phủ đã quyết định đầu tư cho vận tải hành khách công cộng ở
hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đầu năm 2001, Hà Nội
đã tạo một bước đột phá trước cả nước trong việc tổ chức sắp xếp lại đội ngũ cải
tiến tác phong lề lối làm việc, có chế độ tiền lương thích hợp và từng bước trang
bị một số lượng lớn xe buýt mới, hiện đại đưa vào phục vụ. Đến nay Hà Nội đã
có 40 tuyến xe tiêu chuẩn, chất lượng phục vụ tốt nên ngày càng thu hút nhiều
hành khách đến với xe buýt. Khối lượng vận chuyển cũng ngày càng tăng. Năm
2000 mới vận chuyển được 3. 6% lượng hành khách đi lại nhưng đến năm 2002
tăng lên 14% với 48 triệu lượt khách, năm 2003 vận chuyển 172 triệu lượt khách,
tăng gấp 4 lần năm 2002. Có thể thấy loại phương tiện văn minh này đang chiếm
được lòng tin của khách hàng. Xe buýt phát triển tốt sẽ dẫn tới sự giảm bớt tốc độ
tăng các phương tiện giao thông cá nhân , đặc biệt tác động tới nhu cầu mua xe
của những người chưa có xe. Hệ thống xe buýt hiện nay của Hà Nội chủ yếu sử
dụng nhiên liệu diezen nên không làm tăng cầu xăng trên thị trường nhưng lại có
13
tác dụng làm lượng lưu thông của xe máy nên sẽ làm giảm tốc độ tăng lượng
xăng tiêu thụ trên thị trường.
+Một số biện pháp chính sách có ảnh hưởng của Chính phủ cũng như chính
quyền thành phố.

Ngày 18/6/2004 Chính phủ đã ban hành chỉ thị về việc tiếp tục đẩy mạnh các
biện pháp tiết kiệm xăng dầu. Chỉ thị này yêu cầu các cơ quan, đơn vị sử dụng
ngân sách nhà nước phải có biện pháp để tiết kiệm xăng dầu trong năm 2004 ít
nhất đạt 10%.
Trong năm 2004 thành phố Hà Nội đã ngừng cấp đăng kí xe máy trong một số
quận nội thành nhằm kìm hãm tốc độ gia tăng quá nhanh của loại phương tiện
này và trong năm 2005 nếu giao thông Hà Nội không được cải thiện, biện pháp
này sẽ được mở rộng phạm vi sang các quận huyện khác.
Qua phân tích ở trên có thể có rất nhiều nhân tố có tác động tới cầu thị trường
của một mặt hàng nói chung, cũng như cầu thị trường của một mặt hàng thiết yếu
như xăng nói riêng. Có những nhân tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp ở các
khía cạnh khác nhau cũng như ở các mức độ khác nhau. Tổng kết qu phần phân
tích các nhân tố trên có thể thấy các nhân tố có ảnh hưởng lớn tới mức tiêu thụ
xăng thực tế trên thị trường là :giá xăng, thu nhập người tiêu dùng mà xét trên
phạm vi cả thị trường Hà Nội thì có thể sử dụng chỉ tiêu tổng thu nhập nội vùng
GDP Hà Nội và số lượng ô tô, xe máy.
2. 3Xu thế biến động cầu thị trường xăng.
Có thể nhận thấy xu thế vẫn tăng mạnh về cầu thị trường mặt hàng xăng thông
qua số liệu về lượng xăng tiêu thụ trên thị trường Hà Nội.
Lượng tiêu thụ xăng của thành phố Hà Nội từ 1990 -2003
(đơn vị : triệu lít)
14
năm lượng tiêu thụ năm lượng tiêu thụ năm lượng tiêu thụ
1990 113, 520 1995 135, 040 2000 172, 472
1991 114, 758 1996 144, 684 2001 187, 797
1992 119, 143 1997 159, 845 2002 212, 158
1993 124, 010 1998 151, 754 2003 226, 954
1994 124, 083 1999 144, 848
Nhìn chung hằng năm lượng tiêu thụ xăng trên địa bàn đều tăng (cá biệt hai năm
1998, 1999 là lượng tiêu thụ giảm do nền kinh tế chịu ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực ) nhưng tốc độ tăng không đều. Thời kỳ
1990 -1997 tốc độ tăng bình quân năm đạt 5, 08%, những năm gần đây từ 2000-
2003 tốc độ tăng bình quân là 9, 61 %, với nền kinh tế ổn định, mức thu nhập
bình quân đầu người tăng thì trong những năm tới cầu xăng sẽ vẫn tiếp tục tăng.

II. /Lựa chọn và sử dụng mô hình dự báo.
1. Lựa chọn phương pháp dự báo.
Các nhà kinh tế cũng như các nhà quản trị doanh nghiệp luôn luôn quan tâm đến
cầu về hàng hóa và dịch vụ trong một thời kì nhất định, bởi vì đó mới là những
nhu cầu có khả năng thanh tóan hay những cá nhân này sẵn sàng tiêu dùng để
15
thỏa mãn nhu cầu. Cầu thị trường chủ yếu được tính toán dựa trên các phương
pháp sau :
-Kỹ thuật định tính : thông thường phương pháp định tính dựa vào việc lấy ý kiến
của các chuyên gia có chuyên môn sâu trong lĩnh vực dự báo và có kiến thức
tổng hợp. Người tham gia dự báo sẽ xem xét số liệu sẵn có, thu thập lời khuyên
của các chuyên gia và sau đó phân tích tổng hợp, đánh giá để đưa ra ý kiến dự
báo. Nội dung của kỹ thuật này gồm: thu thập các thông tin số liệu, phân tích số
liệu đã thu thập được, sử dụng lời khuyên của các chuyên gia về xu hướng tác
động của các nhân tố tới cầu hàng hóa, tổng hợp và đưa ra các đánh giá dự báo.
Nhìn chung phương pháp này phức tạp, tốn kém cần kết hợp và bổ sung bằng các
phân tích định lượng phù hợp đối với các vấn đề tổng hợp mang tính chất liên
ngành hơn.
-Phương pháp định mức: Các định mức về tiêu dùng cũng như về nhu cầu có thể
phản ánh chính xác tình trạng tiêu dùng của dân cư. Công thức dự báo:
Số lượng cầu =định mức * số lượng đối tượng tiêu dùng
Theo công thức này để dự báo được lượng cầu cần dự báo định mức tiêu dùng và
số lượng đối tượng tiêu dùng trong tương lai. Số lượng đối tượng tiêu dùng cần
dự báo là số lượng phươngtiện giao thông có sử dụng xăng làm nhiên liệu gồm
hai loại chủ yếu là xe máy và ô tô. Đối tượng này có thể dự báo bằng phương

pháp ngoại suy xu thế, còn chỉ tiêu định mức tiêu dùng hiện nay chưa có số liệu
thống kê nên để sử dụng phương pháp này cần tiến hành điều tra định mức tiêu
thụ nhiên liệu của hai loại phương tiện trên. Do hạn chế về tài chính, nguồn nhân
lực và thời gian nên sử dụng phương pháp này là không thích hợp.
-Xây dựng mô hình đa nhân tố bằng phương pháp hồi quy: Phân tích hồi quy là
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa một biến phụ thuộc với một hay nhiều biến độc
lập. Cầu hàng hóa và dịch vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như :giá cả của hàng
hóa đó, thu nhập của người tiêu dùng, giá của hàng hóa liên quan, giá cả
16

×