SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO HỌC
SINH THÔNG QUA DẠY HỌC LỊCH SỬ BÀI 17: NƯỚC VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY 2/9/1945 ĐẾN
TRƯỚC NGÀY 19/12/1946"
1
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại…Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Trải qua quá trình thực tiễn cách mạng từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm
1930 cho đến nay, Đảng ta luôn quán triệt qua điểm lấy chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Thành công của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 là hết sức to lớn, kinh tế
đất nước ta vượt qua khủng hoảng, chính trị, xã hội ổn định, đời sống nhân dân được
nâng cao. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế hội nhập và xu thế toàn cầu hoá đã tác động
không nhỏ đến đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, trong đó trực tiếp và mạnh mẽ
nhất là thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất nước. Biểu hiện của những tác động
đó là: truyền thống văn hoá dân tộc bị mai mọt, văn hoá ứng xử của thanh niên ngày càng
sa sút, các tệ nạn xã hội tràn lan, lối sống buông thả, sống gấp, hưởng thụ ngày càng phổ
biến
Đứng trước thực trạng trên, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị khoá X đã ban hành chỉ thị
06 – CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và
giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu
rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên,
thanh niên, học sinh nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” ở các nhà trường ngoài tuyên truyền, giáo dục cho học sinh, còn có hình thức lồng
ghép vào các tiết dạy của giáo viên trong quá trình lên lớp. Trong đó môn Lịch sử với đặc
thù bộ môn rất thuận lợi cho việc lồng nghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
cho học sinh. Qua thực tiễn lồng nghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học
sinh trong các tiết dạy Lịch sử, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân, vì
2
vậy, tôi chọn đề tài “Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh thông qua
dạy học lịch sử Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến
trước ngày 19/12/1946 (SGK Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản) để làm sáng kiến kinh
nghiệm.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ MỘT SỐ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG
NĂM ĐẦU TIÊN SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (TỪ SAU NGÀY 2/9/1945
ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19/12/1946)
I.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân:
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: Mọi vấn đề của cuộc cách mạng là vấn đề chính
quyền, giành chính quyền đã khó nhưng giữ chính quyền càng khó hơn. Muốn giữ được
chính quyền phải làm cho chính quyền thực sự là của dân, do dân và vì dân. Vì vậy,
những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám, nhiệm vụ đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà là chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền.
Xây dựng nhà nước của dân: Theo Điều 1 Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Điều 32 – Hiếp pháp năm 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết…” thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
Xây dựng nhà nước do dân: theo Hồ Chí Minh đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu
ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước
hoạt động, nhà nước đó lại do dân phê bình, giúp đỡ. Người yêu cầu tất cả các cơ quan
nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”,
nghĩa là khi cơ quan đó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì
nhân dân sẽ bãi miễn nó.
Xây dựng nhà nước vì dân: Theo Hồ Chí Minh là nhà nước phục vụ nguyện vọng
và lợi ích của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi , thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm
chính. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi tổ quốc và
hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội,
xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó”. Người căn dặn: “Cán bộ là công bộc của
dân, việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh…”.
Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ , nghĩa là nhân dân làm chủ, Đảng ta là đảng
3
lãnh đạo, nghĩa là tất cả cán bộ từ trương ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất
kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Chỉ ít ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, với danh nghĩa của
một người đồng chí già, ngày 17-9-1945, Bác đã viết thư "để san sẻ ít nhiều kinh nghiệm
với các đồng chí tỉnh nhà”. Trong thư, Bác đề cập đến việc xây dựng mối quan hệ bền
chặt giữa Đảng với nhân dân; chăm lo rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bức thư có
đoạn: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân
nghĩa là để gánh vác chung cho dân chứ không phải đè đầu dân Việc gì lợi cho dân ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh ”
I.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng công dân:
Ngày 2/9/1945, trong Bản tuyên ngôn độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
“Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”. Quyền bình đẳng giữa các công dân được
thể hiện trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên (6/1/1946). Hồ Chí Minh nói: “Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc bầu cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, tất cả
công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử”.
Trong quyết nghị của cử tri ngoại thành Hà Nội yêu cầu Hồ Chí Minh không phải
ứng cử trong kỳ tuyển cử đầu tiên. Đứng trước thiện tình của đồng bào, Hồ Chí Minh đã
dùng những lời lẽ không chỉ khiêm nhường mà còn thể hiện quyền bình đẳng công dân
trước pháp luật: “Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng
quá yêu tôi Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nên không
thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không
thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa”.
I.3. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về chính sách đoàn kết dân tộc và trọng dụng
nhân tài.
Sau thắng lợi cách mạng tháng Tám, từ Tân Trào về Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã họp với Uỷ ban dân tộc giải phóng, Người đề nghị thi hành chính sách đoàn kết dân
tộc, thành lập chính phủ thống nhất, bao gồm đại biểu các đảng phái yêu nước và những
nhân sĩ không đảng phải. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận 70 ghế cho người của
Việt Nam Quốc dân đảng vào Quốc hội khóa I không thông qua bầu cử là một “sách lược
mềm dẻo”, cũng như người mời nhiều nhân sĩ, quan lại chế độ cũ tham gia chính phủ
như: Vua Bảo Đại, Lê Hữu Từ, Hồ Ngọc Cẩn là biểu hiện rõ rệt của tinh thần đại đoàn
kết dân tộc.
Năm 1946, khi từ Pháp trở về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi và đưa về nước
những trí thức lớn của đất nước như Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước,… Sau đó, với tư
cách là Chủ tịch nước, Người đã ra chỉ thị cho các địa phương phải tìm người hiền tài ra
4
gánh vác công việc cho nước, cho dân. Chúng ta có thể cảm nhận được chính sách “chiêu
hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” của Hồ Chí Minh qua “Thông lệnh tìm người tài” nêu
rõ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong 20 triệu đồng
bào chắc không thiếu người tài đức. Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có
người tài đức, có thể làm việc ích nước, lợi dân thì phải báo cáo ngay cho chính phủ
biết”. Những tên tuổi trí thức nho học và tây học đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chinh
phục như Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Giám,
Lương Định Của, Phạm Huy Thông, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Hoàng Xuân Sính,
… đều đã trở nên những người con kiên trung cho Tổ quốc, thành vốn cán bộ quý cho
Đảng, cho Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
I.4. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà
bọn thực dân dùng để cai trị nước ta, hơn 90% đồng bào chúng ta mù chữ, nhưng chỉ cần
3 tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần Quốc ngữ, “một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”. Vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống lại nạn mù chữ”.
Trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở toàn
Đảng, toàn dân: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
cần thiết". Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh
không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích
cho Tổ quốc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9 năm 1945, Người
viết : "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các cháu".
I.5. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về tình thương yêu con người:
Với cương vị là người đứng đầu Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói “Giặc đói, giặc dốt là bạn đồng hành với giặc ngoại xâm”. Theo Người: ''Nước
nhà đã giành được độc lập tự do mà dân vẫn còn đói nghèo cực khổ thì độc lập tự do
không có ích gì''. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Người nói:
“Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất… lúc chúng ta
nâng bát cơm mà ăn nghĩ đến người đói khổ chúng ta không thể động lòng. Vậy tôi đề
nghị đồng bào cả nước mở một cuộc lạc quyên…”. Hồ Chí Minh đã gương mẫu thực hiện
“Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó mỗi bữa một bơ để cứu
dân nghèo”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và noi gương người, ở khắp các địa
phương trên cả nước, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân
hưởng ứng lời phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng tâm”, “hũ gạo cứu đói” Trên
5
tinh thần “tình làng nghĩa xóm”, hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương
thực cứu đói thu được khá nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân
dân.
I.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối ngoại giao hoà bình, giữ vững độc lập dân
tộc.
Sau khi giành độc lập, nhân dân ta chỉ có mong muốn hoà bình để xây dựng non
sông đất nước. Đêm 22 rạng 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh úp trụ sở UBND
Nam Bộ chính thức xâm lược nước ta lần thứ hai. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Ngày 31/5/1946, trước khi sang
Pháp để đàm phán với Chính phủ Pháp tại Hội nghị Phôngtennơbôlô, Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi thư cho đồng bào Nam bộ nêu rõ “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Đối với quân Trung Hoa dân Quốc vào nước ta với dã tâm “Diệt cộng, cầm Hồ”,
chúng đã sử dụng bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách phá hoại ta. Để nhân nhượng quân
Trung Hoa Dân quốc ta đã nhường cho chúng 70 ghế trong quốc hội, 4 ghế bộ trưởng,
cung cấp lương thực, thực phẩm
Đầu năm 1946, Hiệp ước Hoa –Pháp ký kết buộc nhân dân ta phải lựa chọn một
trong hai con đường: Hoặc là đánh Pháp, hoặc là hoà hoãn với Pháp. Ta chọn giải pháp
hoà hoãn với Pháp, chiều ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Pháp Hiệp
định sơ bộ và sau đó là Bản tạm ước 14/9/1946. Để đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân
quốc ra khỏi miền Bắc, tranh thủ thời gian hoà bình củng cố lực lượng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời kêu gọi các nước Anh, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên
Xô, trong đó nêu rõ thiện chí hoà bình và ý chí quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Hồ Chí Minh cũng gửi thư cho chính phủ, Quốc
hội, Thủ tướng Pháp tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh đổ máu, song mọi cố gắng của Hồ
Chí Minh đều vô hiệu. Trong cuốn hồi ký “Chuyện một nền hoà bình bị bỏ lỡ” ông
Xanhtơni viết “Quả thật đáng tiếc nước Pháp đã không đánh giá đúng tầm cỡ ông Hồ Chí
Minh, không hiểu nổi vai trò của ông và sức mạnh mà ông có trong tay”. Nhà sử học Xô
viết Côbơléc viết” “Hồ Chí Minh nhà yêu nước vĩ đại Việt Nam đã chân thành dơ bàn tay
hữu nghị cho Đờgôn nhưng Đờgôn đã không nắm lấy bàn tay ấy”.
II/ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO DẠY HỌC
BÀI 17: NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ TỪ SAU NGÀY 2/9/1945 ĐẾN
TRƯỚC NGÀY 19/12/1946 (SGK LỊCH SỬ LỚP 12 – BAN CƠ BẢN)
1. Nguyên tắc vận dụng:
6
1.1 Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, khách quan: Yêu cầu giáo viên trong quá trình
vận dụng phải khoa học, khách quan giáo viên không tô vẽ, thêm bớt, hoặc hiện đại hóa
kiến thức. Bởi vì những tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh không phải là những lý luận
cao siêu, khó hiểu mà nó xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, từ những bình dị đời thường,
với ngôn ngữ bình dân, giản dị dễ hiểu. Qua đó hình thành trong học sinh biểu tượng về
một vị chủ tịch nước gần gũi với dân, sẵn sàng chia sẻ với mọi tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là nhân dân lao động.
1.2 Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: Đó là những lý luận
của Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền cách
mạng của dân, do dân và vì dân với thực tiễn cuộc đấu tranh của dân tộc nhằm mục tiêu
giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cũng như khát vọng độc lập của dân
tộc. Để hình thành trong học sinh con đường đi lên xây dựng CNXH ở nước ta là phù hợp
quy luật khách quan của lịch sử và phù hợp với đặc điểm của dân tộc.
1.3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tích cực, tính độc lập sáng
tạo của học sinh và vai trò chủ đạo của giáo viên trong quá trình dạy học. Giáo viên có
thể chỉ cung cấp một đoạn tư liệu nhất định, sau đó sử dụng hệ thống các câu hỏi gợi mở
để giúp học sinh tư duy, rút ra kết luận. Tránh việc giáo viên áp đặt hoàn toàn dễ gây
nhàm chán trong học sinh.
1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức: Đây là nguyên tắc quan trọng khi vận dụng tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh phải chú ý đến đặc điểm lứa tuổi, khả năng thẩm thấu lý
luận của từng đối tượng. Vì vậy yêu cầu giáo viên phải lựa chọn những tư liệu phù hợp
để học sinh tiếp nhận dễ dàng, tránh nặng về lý luận nhàm chán, không tạo được biểu
tượng nhân vật.
2. Phương pháp và một số nội dung vận dụng trong bài học.
2.1. Kết hợp khai thác các đơn vị kiến thức trong bài dạy với sử dụng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh làm tư liệu minh chứng.
Ví dụ 1: Giáo viên khai thác sự kiện ngày 6/1/1946: Bầu cử Quốc hội đầu tiện
Sử dụng tư liệu mục (I.1): Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của
dân, do dân và vì dân để minh chứng.
- Yêu cầu đạt được:
+ Học sinh nhận thức được đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc nhân dân ta
được thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Học sinh thấy được thắng lợi của Tổng
tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã đập tan âm mưu chia rẽ, lật đổ
và xâm lược của bọn đế quốc, tay sai. Góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam
7
DCCH trên trường quốc tế, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ của mỗi người
dân. Biểu lộ sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc. Tạo cơ
sở pháp lý vững chắc của một nhà nước cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đối nội và đối
ngoại trong tình hình mới đầy chông gai thử thách.
+ Đồng thời thấy được bản chất của các cuộc bầu cử ở nước ta là theo lối phổ thông
đầu phiếu, mọi công dân bình đẳng có quyền ứng cử và bầu cử.
Ví dụ 2: Giáo viên khai thác sự kiện ký kết Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946.
Sử dụng tư liệu mục (I.6): Tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối ngoại giao
hoà bình, giữ vững độc lập dân tộc để minh chứng.
- Yêu cầu đạt được:
+ Học sinh hiểu được việc Hồ Chí Minh chủ động ký với Pháp bản Hiệp định Sơ bộ
6/3/1946, không phải là hành động đầu hàng mà chính là sự vận dụng sắc bén chủ nghĩa
Mác – Lênin về sách lược “Hòa để tiến” trong cách mạng.
+ Ý nghĩa của việc kí kết Hiệp định Sơ bộ, ta đã đập tan âm mưu của Pháp trong việc câu
kết với Trung Hoa dân quốc để chống lại cách mạng nước ta. Không còn lý do ở lại 20
vạn quân Tưởng phải rút về nước, bọn tay sai mất chỗ dựa cũng phải chạy theo quân
Trung Hoa dân quốc, ta đã tránh được một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Đồng thời,
góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên trường quốc tế, tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và thế giới đối với Việt Nam, thể hiện thiện
chí hoà bình của nhân dân ta. Thể hiện sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng suốt của Đảng
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa cứng rắn về nguyên tắc vừa mềm dẻo về sách
lược, đã trèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vợt qua cơn hiểm nghèo.
+ Bồi dưỡng học sinh niềm tin đối với lãnh tụ và niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
2.2. Sử dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để khai thác các kênh hình trong SGK.
Ví dụ 1: Khai thác kênh hình 44. Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên tại Nhà hát Lớn Hà
Nội (2/3/1946)
Giáo viên khai thác tư liệu Mục I.3. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về chính sách
đoàn kết dân tộc và trọng dụng nhân tài
- Yêu cầu đạt được:
+ Học sinh hiểu được Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có sự tham gia của
các giai cấp, tầng lớp và nhân sĩ yêu nước, thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc. Tạo nên
8
sức mạnh to lớn, đập tan mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Đồng thời thấy được chính sách
trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Bồi dưỡng tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, cảnh giác với các thủ đoạn
thù địch của kẻ thù.
Ví dụ 2: Khai thác kênh hình 45: Nhân dân Nam Bộ quyên góp gạo cứu đồng bào bị đói
ở Bắc Bộ.
Giáo viên khai thác tư liệu Mục I.5. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về tình thương
yêu con người:
- Yêu cầu đạt được:
+ Học sinh thấy được chính sách bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã dẫn đến
nạn đói nghiêm trọng cuối năm 1944 đầu 1945 làm hơn 2 triệu đồng bào bị chết đói. Sau
khi tuyên bố độc lập thì nạn đói mới đang de dọa nghiêm trọng do hạn hán, lũ lụt
+ Nhờ các biện pháp sáng suốt của chủ tịch Hồ Chí Minh đã dấy lên phong trào đồng
cam cộng khổ, chia sẻ khó khăn của toàn dân tộc. Vì vậy chỉ trong thời gian ngắn nạn đói
cơ bản bị đẩy lùi.
+ Bồi dưỡng học sinh truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, sẵn sàng giúp đỡ mọi
người.
2.3. Khai thác bản thân một đoạn tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh để làm nổi bật sự
kiện lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy sự kiện “giải quyết nạn dốt”, nhân dịp khai giảng năm học đầu tiên dưới
chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các em học sinh.
- Bước 1: Giáo viên đọc một đoạn thư, hoặc chiếu kết hợp đọc đoạn thư trên màn hình
"Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các cháu".
- Bước 2: + Hỏi học sinh, qua đoạn thư trên thể hiện tầm nhìn xa của chủ tịch Hồ Chí
Minh như thế nào?
+ Học sinh trả lời:
- Bước 3: Giáo viên kết luận: thể hiện tầm nhìn vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai
trò của giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, khẳng định niềm tin tưởng và hy
vọng đối với thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc…
9
Giáo viên bồi dưỡng học sinh tinh thấy được ngày nay mỗi các em hạnh phúc
khi được học tập trong điều kiện hòa bình, điều kiện vật chất tương đối đầy đủ. Bởi vậy,
các em học sinh phải có trách nhiệm tu dưỡng đạo đức, chăm chỉ học hành để trở thành
những công dân tốt, sau này giúp ích cho đất nước và đưa đất nước ta theo kịp các nước
khác trên thế giới.
2.4. Sử dụng làm tư liệu đọc thêm khi học xong Bài 17: Đối với hệ thống các tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện ở trên, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt vào bài
giảng, hoặc làm tư liệu đọc thêm để khắc sâu hơn nhận thức của học sinh về những sự kiện
của lịch sử dân tộc trong năm đầu sau cách mạng tháng Tám, bồi dưỡng tình cảm đối với
lãnh tụ, nâng cao trách nhiệm của bản thân học sinh đối với công cuộc xây dựng đất nước
hiện nay. Hoặc giáo viên có thể sưu tầm để kể cho học sinh những mẫu chuyện về Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn này.
III. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kiến thức: Học sinh nhận thức được: nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách
mạng tháng Tám trong tình thế hết sức khó khăn vận mệnh dân tộc “như ngàn cân treo
sợi tóc”. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
bước giải quyết khó khăn để vững vàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.
2. Tinh thần và thái độ học tập: Học sinh tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức, không
nhàm chán, gò bó, phần lớn các em hứng thú trong học tập. Sau khi học xong các em đều
có những bài học kinh nghiệm quan trọng cho bản thân. Đồng thời nâng cao nhận thức,
hành động trong ứng xử cuộc sống. Các em đều thể hiện sự tôn kính đối với lãnh tụ Hồ
Chí Minh.
3. Kĩ năng vận dụng:
- Học sinh đều có thể vận dụng kiến thức đã học để giải quyết tốt những câu hỏi mang
tính cơ bản. Thậm chí là những câu hỏi khó. Ví dụ một số câu hỏi liên qua đến kiến thức
của Bài 17:
Câu 1: Trình bày những khó khăn của Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau cách mạng
tháng Tám? Theo em khó khăn nào là to lớn nhất? Vì sao?
Câu 2: Tại sao nói sau cách mạng tháng Tám nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đứng
trước tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”?
Câu 3: Những đối sách của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thù trong
giặc ngoài trong giai đoạn trước và sau ngày 6/3/1946.
Câu 4: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền, giữ
vững độc lập dân tộc những năm đầu tiên sau cách mạng tháng Tám.
10
- Trong quá trình giảng dạy, tôi tiến hành thực nghiệm ở lớp 12A và lấy lớp 12G làm đối
chứng. Kết quả kiểm tra lớp 12A điểm số cao hơn so với lớp 12G. Cụ thể:
Lớp Sĩ số Điểm
0 - > 3.5 3.5- > 5 5- > 6.5 6.5 - > 8 8.0 ->10
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
12A 45 hs 0 0 0 0 10 22% 24 54
%
11 24
%
12G 45 hs 0 0 3 7% 13 28% 21 47
%
8 18
%
C/ KẾT LUẬN
1. Trước thực trạng xuống cấp về mặt tư tưởng đạo đức của xã hội hiện nay thì việc giáo
dục cho học sinh một bản lĩnh chính trị vững vàng, một nhân cách sống cao đẹp là một
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, không chỉ có nhà trường, gia đình, xã hội mà của cả
các cấp chính quyền, các nhà quản lý xã hội Trong đó việc giáo dục tư tưởng và học tập
và làm theo “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là nhiệm trọng tâm trong toàn Đảng, toàn
dân ta hiện nay.
2. Việc giáo dục phải mang tính khoa học, cụ thể, không hô hào khẩu hiệu mà bằng
những lời nói, cử chỉ, hành động nhỏ trong cuộc sống, giao tiếp, ứng xử
3. Tích hợp và lồng ghép thông qua dạy học Lịch sử để giáo dục cho học sinh, đặc biệt là
giáo dục về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một đặc thù và thế mạnh của bộ môn. Tuy
nhiên giáo viên phải biết lựa chọn những nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh phải
phù hợp với nội dung bài dạy để giáo dục, phù hợp với đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, điều
kiện cơ sở vật chất dạy học, đối tượng học sinh
4. Do những hạn chế về tài liệu, thời gian, cũng như năng lực cá nhân, đề tài khó tránh
khỏi thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc và đồng nghiệp.
11