Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.8 KB, 45 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết đề tài khóa luận
Lãi suất bắt đầu xuất hiện từ khi quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa bắt đầu hình
thành. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh
tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí, vì trực tiếp ảnh
hướng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Lãi suất là một công cụ kinh
tế cực kỳ quan trọng và nhạy cảm đối với mọi nền kinh tế, nó đóng vai trò quan trọng
đặc biệt khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đó là vai trò ổn định và góp phần hoàn
thiện chính sách tiền tệ tạo ra sự kích thích cần thiết để phát triển nền kinh tế mỗi quốc
gia và toàn thế giới.
Lãi suất trong những năm qua có nhiều biến động phức tạp, những biến động của
lãi suất đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và cũng phần nào ảnh hưởng đến hoạt
động, lợi ích của các doanh nghiệp nói riêng. Lãi suất là một trong những phạm trù
trung tâm của nền kinh tế tác động đến chi phí sản xuất, quyết định tổng mức đầu tư và
tổng cầu tiền tệ. Từ việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản của lãi suất, thấy rõ tầm
quan trọng của lãi suất, từ đó vận dụng thực tiễn vào Việt Nam nhận thấy lãi suất được
điều chỉnh dưới các chính sách lãi suất. Tùy vào từng thời điểm nhất định
thì lãi suất cần phải được điều chỉnh một cách linh hoạt để đảm bảo có thể kích thích
tăng trưởng kinh tế.
Hiện Việt Nam vẫn đang áp dụng cơ chế khống chế lãi suất, Nhà nước không ấn
định các mức lãi suất, mà quy định các mức lãi suất trần, lãi suất sàn tạo khung giới
hạn để từ đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh, điểm
qua diễn biến phải kể đến thời điểm 11/6/2008, lãi suất cơ bản đồng Việt Nam được
tăng từ 12%/năm lên 14%/năm. Trong đó, ngày 19/5/2008, Ngân hàng Nhà nước đã
tăng mạnh lãi suất cơ bản từ 8,75%/năm lên 12%/năm. Ngay sau khi nâng mức lãi suất
cơ bản, các Ngân hàng Thương mại và quốc doanh đồng loạt nâng lãi suất cho vay và
lãi suất huy động. Cả lãi suất cho vay và lãi suất huy động đều liên tiếp lập ‘’đỉnh’’.
Với mức lãi suất này, cùng với tác động khủng hoảng kinh tế đã tác động mạnh mẽ
đến nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, mối quan tâm lớn nhất của
doanh nghiệp và người dân là việc điều chỉnh chính sách lãi suất kịp thời, linh hoạt và
đặc biệt tránh đưa ra một cách đột ngột,làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh


doanh và đầu tư.
Vậy biến động của lãi suất có những tác động như thế nào, tác động đến những
phương diện nào của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cụ thể ở đây là
công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn? Doanh nghiệp cần những giải pháp nào nhằm
hạn chế và đối phó với những biến động không ngừng của lãi suất nhằm đảm bảo hoạt
1
động kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định trong tương lai? Nhận thấy tầm quan
trọng của biến động lãi suất, em xin đi sâu nghiên cứu đề tài “ Ảnh hưởng của biến
động lãi suất đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn’’
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Sự ảnh hưởng của lãi suất đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn là
một vấn đề cấp thiết được quan tâm. Trong những năm qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này nhằm đưa ra biện pháp khắc phục những ảnh hưởng đó.
Trong đó có:
1.”Chính sách lãi suất ảnh hưởng thế nào đến việc sử dụng vốn và huy động vốn
trong nước’’ của Thạc sỹ Đỗ Quang Trị.
Nghiên cứu đề cập đến tác động của lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay đến việc
huy động vốn, sử dụng vốn hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế đang thiếu vốn. Tác
giả cho rằng, việc xác định một mức lãi suất huy động cao hơn chỉ số lạm phát để có
mức lãi suất thực dương bằng chỉ số lạm phát là mức lãi suất hấp dẫn, vừa đủ để huy
động nguồn vốn trong nước vừa phải để hình thành lãi suất cho vay thấp. Trong đề tài
của mình, em chỉ nghiên cứu tác động của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh
của trường hợp cụ thể là công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn, không nghiên cứu
toàn bộ với nền kinh tế.
2. Tham luận của ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam:“ Vai trò chính sách tiền tệ tại Việt Nam và một số khuyến nghị chính
sách sau suy giảm kinh tế”.
Bài viết chỉ ra vai trò chính sách tiền tệ trong chống suy thoái kinh tế ở các nước,
bài học đối với việc áp dụng chính sách tiền tệ chống suy giảm kinh tế ở Việt Nam.
Trong bài viết có phần phân tích về chính sách lãi suất đến hoạt động huy động vốn,

khả năng thanh khoản, hoạt động cho vay, sinh lợi của một số Ngân hàng thương mại,
trong phần đề xuất, tác giả đưa ra nhận định chung rằng chính sách tiền tệ cần linh
hoạt và kết hợp với chính sách tài khóa. Nghiên cứu của tác giả phản ánh tác động của
chính sách lãi suất đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, còn trong
nghiên cứu của mình, phân tích tác động của biến động lãi suất đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, đó là công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn.
3. Nghiên cứu của TS. Nguyễn Ngọc Bảo – Vụ trưởng cụ chính sách tiền tệ, ngân
hàng Nhà nước Việt Nam: “ Một số vấn đề về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với ổn định thị trường tiền tệ”.
Bài viết chỉ ra mối quan hệ giữa lãi suất chủ đạo trên thị trường( lãi suất cơ bản,
lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở…). Việc áp dụng kịp thời cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất
2
khả năng thanh toán của Ngân hàng thương mại, tác dộng tích cực đối với hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường. Nghiên cứu của em sẽ
phản ánh cụ thể những tác động của lãi suất đến hoạt động của doanh nghiệp nói
chung, công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn nói riêng.
4. Luận văn “ Phân tích tác động chính sách lãi suất đến hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội” của sinh viên Đoàn Thị Hằng- lớp
K42F4- Đại học Thương mại.
Nội dung chính của luận văn này là phân tích, đánh giá tác động của chính sách
lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại, tác động của chính sách lãi suất đến hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội cũng như những ứng
phó của Ngân hàng Thương mại khi có sự thay đổi chính sách lãi suất. Trong nghiên
cứu của mình, em phân tích ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh
doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn và cũng đưa ra các giải pháp nhằm
hạn chế các tác động của lãi suất đến hoạt động của công ty.
5.Chuyên đề tốt nghiệp “ Phân tích tác động chính sách lãi suất đến hoạt động
đầu tư của công ty cổ phần tư vấn đô thị Việt Nam- VINACITY” của sinh viên Trần
Đại Nghĩa- lớp K43F3- Đại học Thương mại

Nội dung chính của chuyên đề này phản ánh những biến động của lãi suất thị
trường Việt Nam những năm qua, tác động của chính sách lãi suất đến hoạt động đầu
tư của doanh nghiệp và các giải pháp nhằm hạn chế tác động của chính sách lãi suất
đến hoạt động đầu tư của công ty cổ phần tư vấn đô thị Việt Nam. Trong nghiên cứu
của mình, em nghiên cứu ảnh hưởng của biến động lãi suất đến mọi mặt hoạt động
kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn bao gồm những tác động đến
chi phí, doanh thu, lợi nhuân, khả năng cạnh tranh, chiến lược kinh doanh của công ty.
3. Xác lập và tuyên bố đề tài khóa luận
Thông qua những tham khảo từ sách báo, tạp chí, bài nghiên cứu, luận văn,
chuyên đề… Các lý luận về lãi suất, hoạt động kinh doanh và những tác động của
biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh.Em thấy các tác giả đi trước đã làm rõ
thực trạng biến động lãi suất thị trường Việt Nam hiện nay như thế nào, tác động của
các chính sách đó đến tình hình kinh tế nói chung và tình hình hoạt động kinh doanh
nói riêng. Ngoài ra, các tác giả cũng có đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế các
tác động của lãi suất đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp nói chung, tại công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn nói
riêng, việc quản lý các hoạt động kinh doanh trước sự biến đổi của lãi suất còn nhiều
bất cập cần giải quyết:
Trước hết, tại thị trường trong nước, nhu cầu sản phẩm máy điện tử luôn lớn,
3
đồng thời giá thành sản phẩm này cũng rất cao. Đa phần các sản phẩm này đều
phải nhập khẩu từ nước ngoài, do đó sự biến đổi của lãi suất ảnh hưởng rất lớn đến
việc cung cấp sản phẩm này. Tuy nhiên, khi đứng trước sự tác động của lãi suất, đa
phần các doanh nghiệp mới chỉ ứng phó tạm thời mà chưa đưa ra một giải pháp lâu
dài, dẫn đến hoạt động kinh doanh bị rơi vào thế bị động.
Thứ hai, đứng trước việc lãi suất thay đổi bất thường, người tiêu dùng có xu
hướng thắt chặt chi tiêu nhằm hạn chế rủi ro. Hoặc tâm lý người tiêu dùng Việt
thường thích đồ rẻ, nên có những người tiêu dùng thà rằng mua lại đồ cũ giá rẻ còn
hơn mua đồ mới giá cao. Nhu cầu về sản phẩm điện tử cũng theo đó mà giảm sút,
đứng trước tình hình đó, phía nhà nước và các doanh nghiệp phải có biện pháp để

làm yên lòng người tiêu dùng.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
● Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu lý thuyết:
Hệ thống lại các lý thuyết về lãi suất, hoạt động kinh doanh, lý thuyết về ảnh
hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu thực tiễn:
Khái quát về thực trạng lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua, cụ thể là từ năm
2010 đến nay. Qua đó đánh giá, phân tích những tác động của chính sách lãi suất đến
nền kinh tế nói chung và đến công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn nói riêng.
Qua việc phân tích các tác động của chính sách lãi suất có thể đưa ra một số kiến
nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tác động của chính sách lãi suất đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
● Phạm vi nghiên cứu:
Chủ đề nghiên cứu: ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh
của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn và những giải pháp nhằm hạn chế những
tác động đó
Đối tượng nghiên cứu: Mặt hàng điện tử
Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn Hà Nội
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trên thực tế, để đi sâu vào tìm hiểu một vấn đề cần nghiên cứu chúng ta có thể
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, sử dụng chúng tách biệt hoặc kết hợp với nhau
để đạt được mục tiêu phân tích của đề tài. Để đánh giá được một cách chính xác, rõ
ràng và hiệu quả tác động của lãi suất đến hoạt động kinh doanh của công ty, trong bài
khóa luận này có sử dụng phương pháp thu thập số liệu và xử lý số liệu để phân tích.
4
5.1. Phương pháp thu nhập dữ liệu
Số liệu thứ cấp là số liệu đã qua xử lý, được thu thập lại, thu thập gián tiếp qua
sách, báo, internet, các báo cáo tài chính, các ấn phẩm chuyên ngành…. Nếu như

phương pháp thu thập số liệu sơ cấp có ưu điểm lớn là thu thập được các ý kiến chủ
quan của các chuyên gia, thì phương pháp thu thập số liệu thứ cấp cho phép tác giả
tiếp cận một lượng lớn thông tin hữu ích, với thời gian và chi phí thấp.
Đối với phần kiến thức chung về kinh tế vĩ mô, phần lý thuyết của đề tài: Thu
thập thông qua sách chuyên ngành, số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước, Niêm
giám thống kê, các trang web chính phủ, báo, tạp chí kinh tế… Qua các website:
www.economy.com.vn; www.vnn.vn; www.tinthuongmai.vn; Các văn bản, thông tư,
nghị định của Ngân hàng Nhà nước.
Đối với phần dữ liệu về công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn: Thu thập thông
qua web của công ty, báo cáo tài chính những năm gần đây, các đặc san phát hành theo
tháng, theo quý của công ty…
5.2. Phương pháp xử lý số liệu:
Là phương pháp sử dụng, phân tích các số liệu sau khi đã thu thập được thông tin
số liệu cần thiết. Phương pháp này tập trung phân tích, xử lý các thông tin, dữ liệu thu
thập được từ dữ liệu thứ cấp và sơ cấp. Các phương pháp sử dụng bao gồm: phương
pháp phân tích, so sánh, đồ thị, biểu đồ, bảng biểu. Sử dụng bảng báo cáo
doanh thu,
chi phí lợi nhuận hàng năm của công ty để so sánh, phân tích sự biến động,
tăng, giảm
giá cả đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận trong các năm. Từ đó thấy được ảnh hưởng
của biến động lãi suất đến chi phí, doanh thu, lợi nhuận của công ty.
* Phương pháp biểu đồ, bảng biểu
Là phương pháp sử dụng các sơ đồ hình vẽ về cung cầu, các đồ thị về mối quan
hệ giữa lãi suất với chi phí, doanh thu, lợi nhuận. Về bảng biểu gồm có bảng kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và các biểu đồ thể hiện lãi suất qua các năm
(2010 – 2012). Thông qua các biểu đồ, bảng biểu sẽ giúp ta đánh giá mối tương quan
giữa các đại lượng tương quan giữa các đại lượng để có thể phân tích dựa trên nguồn
dữ liệu thu thập được.
* Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp xem xét các chỉ tiêu phân tích bằng cách

dựa trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu cơ sở (chỉ tiêu gốc). Tiêu chuẩn để so
sánh là doanh thu, lợi nhuận, chi phí của các năm trước so với năm sau. Trên cơ sở so
sánh để đưa ra kết luận những yếu tố nào tăng, giảm hay không đổi qua các năm. Sử
dụng phương pháp này để phân tích được sự biến động của lãi suất với hoạt động kinh
doanh qua các thời kỳ, qua từng giai đoạn. Và sử dụng phương pháp này sẽ so sánh,
5
đối chiếu và đánh giá sự tăng giảm, biến động của lãi suất qua các năm.
* Phương pháp phân tích cơ bản
Là sự kiểm định những yếu tố chủ chốt ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp dựa trên nguồn dữ liệu đã có và sử dụng kết quả của các phương pháp
khác.
* Phương pháp phân tích tổng hợp
Sau khi tiến hành thu thập số liệu, xử lý, phân tích dữ liệu ta phân tích tổng hợp.
Đưa ra được các kết luận ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh
của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn và từ đó biết được các nguyên nhân và các
biện pháp giải quyết nhằm hạn chế ảnh hưởng của lãi suất đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần tóm lược, mục lục, danh mục bảng biểu, sơ đồ hình vẽ, danh mục từ
viết tắt, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm có các phần sau:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về “Ảnh hưởng của biến động lãi suất đến
hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn”
Chương 2: Thực trạng về sự ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động
kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn.
Chương 3: Các đề xuất và kiến nghị nhằm hạn chế ảnh hưởng của biến động lãi
suất đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn
6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN
ĐỘNG LÃI SUẤT ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ BẮC SƠN

1.1 .Một số khái niệm cơ bản về lãi suất và hoạt động kinh doanh
1.1.1Khái niệm về lãi suất
Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một
phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so
với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền
ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian
của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng tiền cho người khác có nghĩa là
anh ta đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hi vọng có được
lượng tiền lớn hơn ngày mai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần
lớn lên thêm đó hoặc là nó không đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ. Có
nhiều cách định nghĩa về lãi suất:
Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Học viện Ngân hàng, Nxb Thống
kê, tr.63 cho rằng:“ lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời
gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn”.
John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh
mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh,
cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền.
Trái với Keynes, các nhà kinh tế học cổ điển trước đó đã coi lãi suất là một hiện
tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của năng suất - cầu về vốn cho mục đích đầu
tư - và tiết kiệm.
Từ những cơ sở trên cũng như trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, em sử dụng
định nghĩa :’’Lãi suất là tỷ số giữa lợi tức thu được( phải trả) so với vốn đầu tư( vốn
vay) trong một đơn vị thời gian, thường là 1 năm’’
Lãi suất =
1.1.2. Khái niệm về hoạt động kinh doanh:
Trong giáo trình “ Phân tích hoạt động kinh doanh” của GS.TS.NGUT Bùi
Xuân Phong xuất bản năm 2007 có đề cập đến khái niệm hoạt động kinh doanh như
sau: “ Hoạt động kinh tế là những hoạt động có ý thức nhằm tạo ra những dịch vụ
mang lại lợi ích kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh là hoạt động kinh tế khi việc
tổ chức thực hiện đó nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”

1.2 .Một số lý thuyết về ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh
doanh:
1.2.1. Một số lý thuyết về lãi suất
7
1.2.1.1. Phân loại lãi suất
● Căn cứ vào loại hình tín dụng, lãi suất được phân loại:
Lãi suất thương mại: Áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình thức
mua bán chịu hàng hóa.
Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người đi vay.
Lãi suất tiền vay: Là lãi suất người đi vay phải trả do việc sử dụng vốn vay của
ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hay các giấy tờ có giá trị chưa đến hạn thanh toán của khách
hàng, được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá trị và được khấu
trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi Ngân hàng Trung ương tái cấp vốn cho các
ngân hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hay các giấy tờ
có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các ngân hàng, được tính bằng tỷ lệ phần
trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng
Trung ương cấp vốn vay tiền cho Ngân hàng
Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng.
Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở ổn định mức
lãi suất kinh doanh của mình.
● Căn cứ theo giá trị thực của tiền lãi:
Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói
cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực: Là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm
phát. Nói cách khác, lãi suất thực là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ánh bằng phương

trình Fisher: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát
● Phân loại theo thời hạn tín dụng:
Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn.
Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn.
Lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn.
● Phân loại theo mức ổn định của lãi suất:
Lãi suất ổn định : là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay. Nó có ưu
điểm : Người gửi tiền và vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải trả .Bên cạnh
đó nó có nhược điểm bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một thời hạn nào
đó dù cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào .
8
Lãi suất thả nổi : Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc
không báo trước.Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả tiền đều tính
theo một lãi suất chung là lãi suất hiện tại.
1.2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
● Cung- cầu về tiền:
Công cụ để phân tích là đường cung và đường cầu về tiền.
Đường cung tiền là đường thẳng đứng (cung cố định) trên cơ sở cho rằng NHTƯ
sử dụng các công cụ của nó đã cung ứng cho thị trường một mức cung tiền theo dự
kiến. Đó là khối lượng tiền xác định cho mọi mức lãi suất i ( với giả định giá cả không
thay đổi nên lãi suất danh nghĩa i cũng chính là lãi suất thực tế của nó).
Đường cầu về tiền là đường dốc nghiêng đi xuống, biến thiên giảm theo lãi suất.
Tác động qua lại giữa cung tiền và cầu tiền xác định lãi suất cân bằng gọi là lãi
suất thị trường. Đó là giao điểm E.
i
Lãi suất MS
E
LP
0 M
Hình 1.1. Cân bằng của thị trường tiền tệ

Hình 1.1 cho biết:
E là điểm cân bằng của thị trường tiền tệ
Tại mức lãi suất cân bằng mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung tiền
Ở mức lãi suất thấp hơn sẽ có mức dư cung trái phiếu tương ứng làm cho giá trái
phiếu giảm xuống, lợi tức trái phiếu giảm xuống và đẩy lãi suất thị trường lên tới .
Sự dịch chuyển đường cung và đường cầu sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng của thị
trường tiền tệ. Khi NHTƯ tác động đến mức cung tiền, giả sử là bán trái phiếu hoặc
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến lượng cung tiền giảm, đường cung tiền dịch chuyển
từ sang và lãi suất cân bằng tăng từ lên .
i M M
9

L

E
L
M
Hình 1.2. Lãi suất cân bằng
Hình 1.2 cho biết:
Giảm cung tiền từ đến dẫn đến lãi suất tăng lên để giảm mức dư cầu tiền do
mức cung tiền giảm đi.
Khi thu nhập thực tế (GNP) tăng lên, nhu cầu tiền cho giao dịch tăng lên. Với
mỗi mức lãi suất, lợi ích cận biên của việc gửi tiền tăng lên và làm tăng mức cầu tiền
thực tế, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển từ Lđến L. Với mức cung tiền , lãi suất cân
bằng sẽ chuyển từ đến , điểm cân bằng mới của thị trường tiền tệ sẽ là .
Việc kiểm soát tiền tệ trong thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô thật
không đơn giản. Có hai cách kiểm soát, hoặc là kiểm soát mức cung tiền thì lãi suất
của thị trường sẽ lên xuống bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát lãi suất( ổn định lãi
suất) thì buộc phải để thị trường quyết định mức cung tiền. Cả hai cách đều gặp những
khó khăn nhất định như khi kiểm soát lượng tiền cơ sở (H) thì vấp phải vấn đề hạn chế

tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng thương mại và các hoạt
động giao dịch, khi kiểm soát lãi suất lại gặp khó khăn trong việc nhận biết chính xác
đường cầu tiền và sự dịch chuyển của nó. Việc lựa chọn kiểm soát mức cung tiền hay
kiểm soát lãi suất tùy thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi nước.
● Lạm phát:
Như ta đã biết, lạm phát luôn luôn ảnh hưởng đến lãi suất. Do đó với một lãi suất
cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện việc vay tiền giảm xuống,
nhu cầu về vốn tăng lên. Mặt khác, khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của
các khoản tiền gửi giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển vốn vào thị
trường khác như bất động sản, vàng bạc hay dự trữ hàng hóa…Kết quả là lượng cung
về vốn giảm đối với bất kì lãi suất nào cho trước.Như vậy, một sự thay đổi về lạm phát
dự tính sẽ tác động đến cung cầu tư bản cho vay. Cụ thể là, lạm phát dự tính sẽ làm
tăng lãi suất do giảm lượng cung ứng và tăng cầu về tư bản.
● Bội chi ngân sách
10
Bội chi ngân sách Trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của quĩ cho
vay tăng, làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công
chúng và gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất. Trên một giác
độ khác, thông thường khi bội chi ngân sách tăng Chính phủ thường gia tăng việc phát
hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu
giảm, lãi suất thị trường vì lẽ đó mà tăng lên. Hơn nữa, tài sản của các ngân hàng
thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu Chính phủ, dự trữ vượt quá giảm, lãi
suất Ngân hàng cũng sẽ tăng.
● Thuế:
Theo Fisher thì: Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát dự tính
Nếu tính đến yếu tố thuế thu nhập thì khi đó:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Thuế thu nhập – Tỷ lệ lạm phát dự tính
Như vậy, khi mức thuế tăng sẽ làm giảm lãi suất thực, tức là thu nhập của người
cho vay sẽ bị giảm dẫn đến cung về tiền sẽ giảm, từ đó tác động ngược trở lại đến lãi
suất danh nghĩa.

● Rủi ro:
Rủi ro là nhân tố được tính vào lãi suất. Một doanh nghiệp không chỉ bị chi phối
bởi các nhân tố bên trong mà còn bị chi phối bởi các yếu tố của môi trường bên ngoài,
chúng không dễ dàng kiểm soát được. Rủi ro môi trường bên ngoài không thể bị loại
trừ và thường tác động khác nhau lên hoạt động của doanh nghiệp và trường hợp xấu
nhất có thể dẫn đến phá sản.
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, sự thay đổi tương quan giữa lãi suất tiền
gửi và lãi suất tiền vay được gọi là rủi ro lãi suất. Trường hợp kì hạn tiền gửi không
đổi, vốn huy động không đổi, nhưng cho vay thấp hơn trước hoặc trường hợp lãi suất
không đổi, vốn huy động không đổi nhưng tiền vay với thời hạn dài hơn trước đều dẫn
đến rủi ro vỡ nợ hoặc rủi ro thiếu vốn khả dụng cao. Do vậy rủi ro thị trường đều được
định giá trong cơ cấu lãi suất đưa ra.
Tóm lại, nhân tố thời gian, nhân tố rủi ro là hai nhân tố chủ yếu tác động đến
quyết định lãi suất của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay, ngân hàng chịu cả hai
thiệt thòi: thiệt thòi về mặt thời gian do nhường quyền sử dụng tiền trong thời gian
nhất định và thiệt thòi do chấp nhận rủi ro trong thời gian đó. Do đó, phần lãi suất phải
bao gồm giá trị thời gian và lệ phí rủi ro.
● Thị trường vốn quốc tế:
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân chuyển
trên phạm vi quốc tế. Vì vậy, lãi suất trên thị trường tiền tệ mỗi quốc gia cũng chịu tác
động của thị trường khu vực và thế giới. Trước hết thị trường vốn quốc tế quyết định
11
lãi suất thực quốc tế. Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất
thực tại các nước theo từng quy mô của nền kinh tế mở.
Dưới nền kinh tế nhỏ: Lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế giới
nếu muốn thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửi tiết kiệm trong nước đầu tư
vốn ra nước ngoài.
Dưới nền kinh tế hùng mạnh: Mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi suất
thực trong nước đôi khi không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi suất do
tiết kiệm và đầu tư nước đó biến động đến lãi suất thực của thế giới.

1.2.1.3. Vai trò của lãi suất
● Lãi suất với quá trình huy động vốn:
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời
gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và
quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con
đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc
biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có
vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các
tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài
nước là quan trọng trong chiến lược CNH- HĐH nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải
bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi
vay. Cụ thể:
Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình
quân.
Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay)
● Lãi suất với quá trình đầu tư:
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà
họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho
các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có
điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn
chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị
ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp
có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá tồn đọng và xuống
giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ
bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ
tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
12
● Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm:

Thu
nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng
và tiết kiệm. Tỷ l


phân
chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn
đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất
có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc
tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Khi lãi suất cao đem lại thu nhập
từ khoản tiều để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
● Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu:
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự
thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi
suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá
giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không
đổi) thì tỷ giá tăng. khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá
giảm) và ngược lại.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: Khi lãi suất thực tế
tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá hối đoái cao hơn làm hàng hóa của
nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hóa nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên
rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng:
Khi lãi suất tiền gửi bằng
ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải
làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác.
● Lãi suất với lạm phát:
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm
phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi suất được

sử dụng để điều chỉnh lạm phát cụ thể tăng lãi
suấ
t, thu hẹp được lượng tiền trong
lưu thông, lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì nó sẽ làm
giảm đầu tư, tổng cầu, sản lượng. Do vậy phải kết hợp nó với các công cụ khác.
● Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực:
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ và
sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường
cho thấy giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực
giữa các ngành kinh tế. Như ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất
có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu
tư vào một ngành kinh tế một
dự

án
hay một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan
13
tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được
vớ
i chi phí ban đầu. Điều
này có nghĩa là phải xem việc đầu tư này có mang lại lợi nhuận hay không và có
đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban
đầu hay không. Khi quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một
tài sản ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại và số tiền vay phải
trả. Khi chênh lệch này là dương, thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó và là sự phân
bổ hiệu quả.
● Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân hàng Thương mại:
NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình là huy
động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các NHTM. Với

phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong các
doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu
dùng
khác
của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác định lãi suất
tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp
thì không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào, dẫn đến NHTM
không đủ vốn cho vay để đáp ứng yêu cầu khách hàng.
Lãi suất Ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh
doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc
đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy lãi suất Ngân hàng
vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước vừa là công cụ điều hành vi mô của
các NHTM.
Do vậy, khi huy động tiền gửi mà với lãi suất thấp thì không khuyến khích
doanh nghiệp và dân cư gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, sẽ dẫn đến hậu quả là
NHTM không đủ vốn để cho vay đáp ứng yêu cầu vay vốn của khách hàng.
Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có
lãi hoặc lãi quá thấp sẽ thu hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động để gửi vốn vào ngân
hàng.
1.2.1.4. Các công cụ điều tiết lãi suất của Chính phủ
● Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán giấy tờ có giá giữa Ngân hàng
Trung ương và các tổ chức tín dụng. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá,
Ngân hàng Trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín
dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị
trường.
● Chính sách tái chiết khấu:
14
Đây là hoạt động mà Ngân hàng Trung ương thực hiện cho vay ngắn hạn đối với
các Ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi

suất tái chiết khấu đối với thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác và hạn mức cho
vay tái chiết khấu. Khi Ngân hàng Trung ương tăng( giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ
hạn chế( khuyến khích) việc các Ngân hàng thương mại vay tiền tại Ngân hàng Trung
ương làm cho khả năng vay của các Ngân hàng thương mại giảm( tăng), từ đó làm cho
mức cung tiền trong nền kinh tế giảm( tăng) và cuối cùng ảnh hưởng đến lãi suất thị
trường.
● Quy định mức dự trữ bắt buộc:
Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các Ngân hàng phải giữ lại do Ngân hàng
Trung ương qui định, gửi tại Ngân hàng Trung ương, không hưởng lãi, không được
dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống
ngân hàng. Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ
trong cơ chế tạo tiền của các Ngân hàng thương mại. Mặt khác khi tăng (giảm) tỷ lệ dự
trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại giảm( tăng), làm cho
lãi xuất cho vay tăng( giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm ( tăng), ảnh
hưởng đến lãi suất thị trường.
1.2.2.Lý thuyết về hoạt động kinh doanh
1.2.2.1. Đặc điểm của ngành hàng điện tử
● Về sản xuất và phân phối:
Cùng với sự phát triển công nghệ và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của
công người được nâng cao như ngày nay, có thể nói các sản phẩm về điện tử luôn dành
được sự quan tâm, đặc biệt là các sản phẩm mới. Các sản phẩm ngành hàng điện tử
được sản xuất mang tính toàn cầu, thị trường tiêu thụ cũng mang tính chất toàn cầu.
Trong đó, các công ty đa quốc gia chi phối các mạng sản xuất và tiêu thụ trên toàn thế
giới. Thị trường tiêu thụ giữa các tập đoàn, các hãng điện tử lớn có sự cạnh tranh gay
gắt trong việc phân chia, chiếm lĩnh thị trường, đồng thời lại phải liên kết, hợp tác với
nhau để lập lên mạng sản xuất kinh doanh toàn cầu. Dịch chuyển công nghệ thấp sang
các nước chậm phát triển có nhân công rẻ hơn để tập trung phát triển công nghệ cao ở
chính hãng. Hàng điện tử yêu cầu hàm lượng chất xám cao, cơ cấu sản phẩm luôn thay
đổi, trong đó dịch vụ và công nghệ phần mềm chiếm tỷ trọng cao. Vòng đời của các

sản phẩm điện tử rất ngắn, các sản phẩm nhanh chóng được thay đổi, hoàn thiện bằng
các sản phẩm mới. Công nghiệp điện tử là động lực thúc đẩy và là cơ sở để thúc đẩy
và phát triển nhiều lĩnh vực công nghệ khác dẫn đến các thay đổi mang tính dây
15
chuyền. Đây được coi là cơ sở của thời kỳ hậu công nghiệp , chuyển sang kinh tế tri
thức.
● Về công nghệ:
Ngành hàng điện tử có tốc độ thay đổi công nghệ rất nhanh, chu kỳ sống của sản
phẩm ngắn. Công tác nghiên cứu và triển khai (R&D) là một trong những yếu tố quyết
định sự thành bại của các hãng lớn, ở đây khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Công nghệ thông tin và máy tính ngày càng tác động lớn đến sản xuất-kinh
doanh, cách làm việc và lối sống xã hội. Công nghệ phát triển theo hướng tích hợp cao
về linh kiện và thiết bị.Điện tử -Tin học-Viễn thông-Tự động hoá ngày càng gắn kết
với nhau trong một sản phẩm hoặc hệ thống thiết bị.
Ngành công nghiệp điện tử cần lượng vốn đầu tư lớn để đầu tư cho sản xuất, thiết
kế sản phẩm, nghiên cứu – triển khai, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao. Đồng thời do đặc tính kế thừa và tính bảo mật cao trong sản xuất và
nghiên cứu nên việc chuyển giao công nghệ rất hạn chế. Do đó hầu hết các sản phẩm
điện tử nổi tiếng đều tập hợp vào một số công ty, tập đoàn có tiềm lực mạnh về vốn và
công nghệ như các nước Mỹ, Nhật Bản, EU và Hàn quốc.
● Phân loại hàng điện tử:
Theo các chuyên gia Việt nam, hàng điện tử có thể chia thành 7 nhóm sản phẩm
chính sau:
Sản phẩm thiết bị điện tử dân dụng.
Sản phẩm thiết bị tin học.
Sản phẩm thiết bị thông tin liên lạc.
Sản phẩm thiết bị điện tử công nghiệp và chuyên dụng.
Sản phẩm phần mềm và dịch vụ tin học.
Dịch vụ điện tử công nghiệp và chuyên dụng.
Vật liệu, linh kiện, phụ kiện điện tử tin học.

16
Ở Việt nam, do nền công nghiệp điện tử thông tin mới phát triển trong những
năm gần đây nên chủ yếu phát triển lĩnh vực lắp ráp và đã bắt đầu sản xuất một số linh
kiện hàng điện tử, máy tính phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nhưng số
lượng và quy mô còn hạn chế, hầu như chỉ tập trung ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Còn lại, các sản phẩm thiết bị thông tin liên lạc và điện tử công nghiệp và
chuyên dụng thì còn phụ thuộc vào nhập khẩu.
1.2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mặt hàng điện tử
● Nhân tố môi trường bên trong doanh nghiệp
* Giá bán sản phẩm:
Giá là yếu tố người tiêu dùng rất coi trọng khi ra quyết định mua sản phẩm.
Khách hàng không chỉ quan tâm đến tính năng, chất lượng của sản phẩm mà còn tính
đến hiệu quả kinh tế khi mua các sản phẩm tiêu dùng, đặc biệt là các mặt hàng về điện
tử vì các sản phẩm về điện tử thường có giá cao. Mặt khác, giá còn là một trong nhưng
yếu tố then chốt trong cạnh tranh với các đối thủ của công ty. Vì vậy việc định giá sản
phẩm điện tử cần phải hợp lý.
* Chất lượng hàng hoá:
Chất lượng là yếu tố quan trong giúp thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động tiêu thụ
sản phẩm. Là vũ khí kinh doanh cũng như tạo chữ tín với khách hàng. Với các mặt
hàng điện tử, chất lượng sản phẩm có yếu tố quyết định với việc cạnh tranh với các đối
thủ do công nghệ ngày càng phát triển, chất lượng sản phẩm ngày càng đòi hỏi phải
được cải tiến mẫu mã nhằm thu hút được khách hàng.
* Mặt hàng và chính sách mặt hàng kinh doanh:
Mặt hàng và chính sách mặt hàng có tác động trực tiếp đến hoạt động tiêu thụ sản
phẩm, doanh nghiệp cần xác định rõ sẽ kinh doanh mặt hàng nào, sản phẩm được nhập
từ nguồn nào sẽ có lợi cho doanh nghiệp mình để từ đó có những chính sách mặt hàng
kinh doanh phù hợp với khách hàng mục tiêu cũng như mang lại lợi nhuận tốt nhất cho
doanh nghiệp.
* Dịch vụ trong và sau bán:
17

Mặt hàng điện tử, điện lạnh là những mặt hàng có công nghệ cao, tương đối khó
sử dụng, đòi hỏi phải có dịch vụ trong và sau bán chu đáo góp phần giúp khách hàng
lựa chọn sản phẩm phù hợp, biết cách sử dụng sản phẩm, giải đáp thắc mắc để khách
hàng yên tâm sử dụng sản phẩm cũng như được hưởng những ưu đãi từ những dịch vụ
sau bán như bảo trì, sửa chữa… qua đó đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và thu hút được sự
quan tâm của khách hàng.
* Mạng lưới phân phối và vị trí điểm bán:
Mạng lưới phân phối sản phẩm rộng lớn, vị trí điểm bán lý tưởng là yếu tố quan
trọng trong việc tiếp cận nhiều hơn với các đối tượng khách hàng, thuận tiện trong việc
giới thiệu sản phẩm đến tay người tiêu dùng, qua đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm
hơn. Do đó, lựa chọn vị trí bán hàng và mở rộng thị trường là việc cần thiết.
* Xúc tiến thương mại:
Bao gồm các hình thức quảng cáo và khuyến mại nhằm thu hút thêm khách
hàng, thu hút sự chú ý, lôi kéo sự quan tâm của khách hàng, tạo ra những mong muốn
sở hữu sản phẩm hay dịch vụ, và sau đó là kích thích khách hàng bỏ ra chi phí để sở
hữu sản phẩm.Có rất nhiều hình thức để thực hiện quảng cáo phục vụ cho các hoạt
động thương mại của doanh nghiệp, và những phương pháp mới đang ngày càng được
phát triển mạnh mẽ. Những mẫu quảng cáo có thể thực hiện trên các tạp chí, nhật báo,
và ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên internet. Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể
thiết kế và thực hiện những hoạt động quảng cáo trên radio, tivi, cinema, quảng cáo
ngoài trời, phương tiện giao thông công cộng…
* Nhân viên bán hàng:
Là những người trực tiếp làm ra doanh thu, truyền tải hình ảnh và bộ mặt doanh
nghiệp.Nhân viên bán hàng là chiếc cầu nối giữa khách hàng và doanh nghiệp. Người
nhân viên bán hàng vừa phải chăm sóc quyền lợi của công ty mình: bán được sản
phẩm với đúng giá mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mình, vừa phải chăm sóc
quyền lợi của khách hàng: mua được sản phẩm ở mức giá phải chăng, giúp họ sử dụng
sản phẩm của mình một cách hiệu quả nhất, mang lại lợi ích cao nhất cho khách hàng.
● Nhân tố bên ngoài:
* Khách hàng:

18
Khách hàng là toàn bộ những đối tượng có liên quan trực tiếp đến đòi hỏi về chất
lượng sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp phải đáp ứng của họ. Mặt khác, việc xác
định khách hàng và nhu cầu của họ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi doanh
nghiệp, khách hàng là điều kiện tiên quyết để mỗi doanh nghiệp có thể tồn tại và phát
triển.
* Nhà cung cấp:
Nhà cung cấp cũng là một yếu tố khá quan trọng. Trong quá trình hoạt động kinh
doanh, doanh nghiệp cần phải tìm được nhà cung cấp các yếu tố đầu vào ổn định và
đảm bảo chất lượng.
* Đối thủ cạnh tranh:
Thị trường mặt hàng điện tử luôn có nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt và bị chia
nhỏ. Do đó, việc nghiên cứu kỹ đối thủ cạnh tranh và đưa ra chính sách hợp lý nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là việc cấp thiết.
* Chính sách điều tiết của Nhà nước:
Nhà nước thường xuyên có những chính sách kích cầu hợp lý để hỗ trợ doanh
nghiệp và người tiêu dùng . Doanh nghiệp có thể tận dụng các cơ hội này để phát triển
kinh doanh.
* Các nhân tố kinh tế:
Các nhân tố về mặt kinh tế có vai trò quan trọng đến hoạt động tiêu thụ hàng hóa
của doanh nghiệp. Các nhân tố về mặt kinh tế bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi
suất cho vay của Ngân hàng, lạm phát… đều ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp.
1.3. Nội dung ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh:
1.3.1. Sự biến động lãi suất tác động đến chi phí, doanh thu, lợi nhuân:
Vốn là một nhân tố cần thiết trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng như
bất kỳ một nhân tố nào khác, để sử dụng vốn doanh nghiệp cần phải bổ ra một chi phí
nhất định. Đối với một doanh nghiệp, nguồn vốn bao gồm các khoản vốn vay và vốn
chủ sở hữu:
Chi phí vốn = chi phí của vốn vay + chi phí của vốn chủ sở hữu

19
Vốn vay bao gồm vốn vay ngắn hạn và vốn vay dài hạn
Vốn của chủ sở hữu bao gồm vốn huy động từ các loại cổ phiếu thường, cổ phiếu
ưu đãi, lợi nhuận không chia.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình. Em tập trung vào nghiên
cứu chí phí của vốn vay:
Chí phí của vốn vay = ( 1 – T ) (1)
Trong đó, là lãi suất, T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Từ công thức (1) có thể thấy, với mức T không đổi thì những thay đổi về lãi suất
đều ảnh hưởng đến chi phí vốn vay của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến chi phí
vốn của doanh nghiệp.
Nhà nước sử dụng các công cụ lãi suất, tăng hoặc giảm lãi suất phù hợp sự phát
triển kinh tế của đất nước đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, chi phí, doanh thu
và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhà nước sử dụng chính sách tăng lãi suất, khi đó
doanh nghiệp phải mất thêm một khoản chi phí cho việc đầu tư hoạt động kinh doanh,
do đó làm giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, Nhà nước sử
dụng chính sách giảm lãi suất sẽ làm chi phí đầu tư của doanh nghiệp giảm đi một
phần, do đó làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3.2. Sự biến động lãi suất tác động đến giá thành sản phẩm:
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải dự kiến giá thành sản phẩm và đề ra các
biện pháp để thực hiện dự kiến đó, tức là đặt ra kế hoạch xây dựng giá thành. Trong
công tác quản lý, giá thành sản phẩm giữ vai trò quan trọng và được tính theo công
thức:
Giá thành sản phẩm = giá thành sản xuất + chi phí quản lý doanh nghiệp + chi
phí bán hàng.
Giá thành sản xuất ( còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả
những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi
phân xưởng sản xuất.
Giá thành sản phẩm( còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ
chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

Có thể nói giá thành sản phẩm chính là sự biểu hiện bằng tiền của tất cả những
chi phí của doanh nghiệp về sử dụng máy móc thiết bị, tiền lương và phụ cấp tiền
lương, về quản lý phân xưởng và quản lý doanh nghiệp, về chi phí tiêu thụ sản
phẩm…Tất cả những chi phí đó đều chịu ảnh hưởng của biến động lãi suất. Khi lãi
suất tăng, doanh nghiệp thương mại sẽ phải nhập về nguồn hàng với giá mua cao hơn,
và phải chịu thua lỗ về chi phí quản lý doanh nghiệp cũng như chi phí bán hàng, doanh
20
nghiệp cũng phải tăng giá thành sản phẩm nếu muốn duy trì lợi nhuận, điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến nhu cầu người tiêu dùng đến các sản phẩm họ muốn mua.
1.3.3. Sự biến động lãi suất tác động đến khả năng cạnh tranh và chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp:
Lãi suất là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó vừa tạo ra các cơ hội phát triển cho doanh nghiệp, đồng thời vừa có
thể là nhân tố đầu tiên chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp nếu định hướng và hoạt
động của doanh nghiệp không tuân theo quy luật phát triển của nó. Khi lãi suất tăng
lên làm cho doanh nghiệp có xu hướng tăng giá bán sản phẩm, điều này làm cho sức
cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp giảm xuống, thị phần kinh doanh trên thị
trường của doanh nghiệp qua đó cũng bị giảm xuống. Ngược lại, khi lãi suất giảm,
doanh nghiệp có cơ hội giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Việc hạ giá thành sản
phẩm có ý nghĩa to lớn, là một trong những nhân tố tạo điều kiện tốt cho việc tiêu thụ
sản phẩm, trực tiếp tăng lợi của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở
rộng sản xuất…được xem là một động lực để doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh,
tăng sản lượng tiêu thụ trên thị trường.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG LÃI
SUẤT ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ
QUỐC TẾ BẮC SƠN
2.1 .Tổng quan tình hình lãi suất và hoạt động kinh doanh mặt hàng điện tử:
2.1.1 .Tổng quan chính sách lãi suất của Việt Nam hiện nay
21
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương của

các nước trên thế giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền Quốc gia
thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ điều
hành chính sách tiền tệ của NHTƯ để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó. Để đối phó với
những biến động không ngừng của nền kinh tế trong thời gian qua, NHNN Việt Nam
đã có những sự điều chỉnh lãi suất thông qua bảng thống kê sau:
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như
trên thế giới,một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn
phục hồi những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008-2009. Trước tình hình
đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành
chính sách tiền tệ- tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và
kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN
đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng
đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép
của lạm phát.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về
các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số
03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho
phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy
nhiên, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính
sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì
vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi
suất của NHNN.
Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu( từ 7% năm 2010 lên 13%), 4
lần tăng lãi suất tái cấp vốn( từ 9% lên 15%). Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9%
kể từ năm 2010. Lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy
động VND lên đến 20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5-
20%/năm, cho vay phí sản xuất từ 25-28%/năm. Quy định trần lãi suất 14%/ năm
khiến các NHNN gặp khó về thanh khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng

với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 30-40%/ năm kỳ hạn
1 tháng.
Năm 2012 là một năm rất khó khăn của nền kinh tế Việt Nam với nhiều cung bậc
khác nhau. Tuy nhiên Chính phủ và NHNN đã có những chính sách, quyết định kịp
22
thời và quyết liệt nhằm ổn định kinh tế, giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp và giải
cứu nợ xấu ở các ngân hàng. Những dấu hiệu căng thẳng thanh khoản trên hệ thống
ngân hàng trong những tháng cuối năm 2011 tiếp tục kéo dài sang năm 2012 khiến
NHNN duy trì áp dụng biện pháp hành chính là áp trần lãi suất huy động. Trong quý I,
trước xu hướng giảm tốc của chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát kì vọng, NHNN đã bắt
đầu kéo giảm đồng loạt các lãi suất chính sách và trần lãi suất huy động. Tính từ đầu
năm đến 24/12/2012, lãi suất tái cấp vỗn đã giảm từ 14% xuống 9%, lãi suất tái chiết
khấu đã giảm từ 12% xuống còn 7%, lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên ở mức 9%. Song
song với động thái kéo giảm trần lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên( duy trì ở
mức 13%/năm): Phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, thực hiện phương án, dự án
sản xuất- kinh doanh hàng xuất khẩu, Phục vụ sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp
vừa và nhỏ, Phát triển công nghiệp hỗ trợ hay kêu gọi đưa lãi suất cho vay cũ về mức
15%/năm…
2.1.2. Tổng quan tình hình kinh doanh mặt hàng điện tử:
● Khối lượng xuất nhập khẩu
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng
điện tử luôn đạt giá trị lớn, ta có thể thấy qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Tình hình xuất nhập khẩu các mặt hàng điện tử qua các năm
2010- 2012
Mặt hàng 2010 2011 2012
Giá trị
nhập
khẩu( tỷ
USD)
Giá trị

xuất
khẩu( tỷ
USD)
Giá trị
nhập
khẩu( tỷ
USD)
Giá trị
xuất
khẩu( tỷ
USD)
Giá trị
nhập
khẩu( tỷ
USD)
Giá trị
xuất
khẩu( tỷ
USD)
Điện thoại các loại
và linh kiện
1.4 1.9 2.42 5.68 4.48 11.34
Máy vi tính, sản
phẩm điện tử và
linh kiện
4.98 2.065 6.93 4.13 11.9 6.98
( Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Theo bảng số liệu trên ta có thể thấy giá trị xuất nhập khẩu các mặt hàng điện tử
năm sau luôn cao hơn năm trước. Điện thoại và linh kiện hướng nhiều đến xuất khẩu,
nếu như giá trị xuất khẩu mặt hàng này năm 2010 là 1.9 tỷ USD thì giá trị xuất khẩu

mặt hàng này năm 2011, 2012 đạt 5.68 tỷ USD; 11.34 tỷ USD tương đương tăng
198% ; 497% so với năm 2010. Máy vi tính, sản phẩm điện tử lại có xu hướng nhập
khẩu nhiều hơn, nếu như giá trị nhập khẩu năm 2010 là 4.98 tỷ USD thì năm 2011;
23
2012 giá trị nhập khẩu mặt hàng này đạt 6.93 tỷ USD; 11.9 tỷ USD tương ứng mức
tăng 39%; 138% so với năm 2010.
● Cơ cấu mặt hàng
Kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng điện tử của nước ta luôn đạt giá trị cao,
tuy nhiên, cơ cấu mặt hàng điện tử lại có sự mất cân đối, sản phẩm điện tử dân dụng
chiếm trên 80%, sản phẩm điện tử chuyên dụng và công nghệ thông tin chỉ chiếm chưa
tới 20% ,ta có thể thấy qua biểu đồ sau:
( Nguồn: Bộ Công thương)
● Số lượng doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng điện tử
Theo nguồn số liệu của Bộ Công thương, toàn ngành điện tử hiện có 176 doanh
nghiệp với tổng số vốn 996 triệu USD, thu hút 19.000 lao động. Các doanh nghiệp
trong nước chiếm hơn 2/3 tổng số doanh nghiệp và hơn 60% tổng số lao động nhưng
số vốn đầu tư chỉ chiếm gần 6% :
Bảng 2.4. Số lượng doanh nghiệp và vốn đầu tư năm 2012
Doanh nghiệp Vốn đầu tư Lao động
Số lượng Tỷ trọng
(%)
Giá trị
( triệu
USD)
Tỷ trọng
(%)
Lao
động
( người)
Tỷ

trọng
(%)
Doanh nghiệp
Nhà nước
74 42.1 38 3.8 10.138 53.6
Doanh nghiệp
ngoài QD
52 29.5 18.5 1.9 1.907 10.1
Công ty liên
doanh
29 16.5 491.8 49.4 3.713 19.6
Công ty 100%
vốn nước ngoài
21 11.9 448.2 44.9 3.615 16.7
Tổng 176 100 996.5 100 18.923 100
( Nguồn: Bộ Công thương)
● Nguồn hàng
Thị trường nhập khẩu hàng điện tử của Việt Nam chỉ tập chung ở một số ít nước
thuộc khu vực Châu Á. Riêng 5 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc,
Hồng Kông chiếm đến 95% tổng số mặt hàng điện tử nhập khẩu vào Việt Nam. Ngoài
2 nguồn cung cấp chính từ doanh nghiệp trong nước và nhập khẩu chính ngạch, còn
một số lượng không nhỏ các sản phẩm điện tử dân dụng, đặc biệt là các sản phẩm đã
qua sử dụng của nước ngoài vào Việt Nam qua con đường nhập lậu, phi mậu dịch…
24
Đây là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của các
doanh nghiệp trong nước và tình hình nhập khẩu qua con đường chính ngạch.
(Nguồn: Bộ Công thương)
2.2. Ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ
phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn
2.2.1. Thực trạng hoạt động của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn

Sự biến động của nền kinh tế thế giới cũng như kinh tế Việt Nam có ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn, được thể
hiện qua biểu đồ sau:
● Kết quả kinh doanh
Biểu đồ 2.6. Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, lợi nhuận
(Đơn vị: triệu đồng)
Nguồn: Phòng kế toán công ty cổ phần đầu tư quốc tế Bắc Sơn)
Nhìn vào bảng so sánh doanh thu, tổng chi phí, lợi nhuận của công ty qua 4 năm
vừa rồi, ta có thể thấy rõ được sự phát triển trong của công ty:
Năm 2009, công ty đã có những bước phát triển mạnh mẽ trên mọi phương diện.
Sau khi được đầu tư các trang thiết bị để sản xuất, công ty đã bước đầu có được nguồn
hàng để cung cấp cho thị trường khá ổn định. Mạng lưới kinh doanh của công ty cũng
hoạt động khá hiệu quả. Cụ thể, doanh thu bán hàng đạt
14.826 triệu đồng
, tổng chi
phí là
9.403 triệu đồng
qua đó xác định được lợi nhuận công ty đạt được trước thuế
5.423 triệu đồng.
25

×