Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
PHẦN MỞ ĐẦU
I.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở khoa học
Nhà văn Macxim Gorki khẳng định: “ Văn học là nhân học”. Thật vậy, môn
Ngữ văn ở cấp THCS thuộc môn khoa học xã hội ,mục tiêu trọng tâm của môn ngữ
văn là giáo dục tư tưởng, tình cảm, lối sống, bồi dưỡng về tâm hồn, nhân cách cho học
sinh. Hơn nữa, môn Ngữ văn cịn giúp hình thành ở học sinh tình yêu thương gia đình,
cộng đồng, quê hương, đất nước. Do vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng ln được sự
quan tâm của ngành GD&ĐT cũng như của đội ngũ giáo viên tâm huyết với bộ mơn
này.
Một trong những mục tiêu của đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ
thông được nêu trong chỉ thị số 14/2001/CT- TTg ngày 11- 6- 2011 của Thủ tướng
chính phủ về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thực hiện nghị quyết số
40/2000/QH10 ngày 9- 12- 2000 của Quốc hội là: “ Đổi mới phương pháp dạy học,
phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh”. Đồng thời trong Chiến
lược phát triển của giáo dục 2001- 2010 của Đảng đặt vấn đề: “ Đổi mới và hiện đại
hóa phương pháp giáo dục , chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động thầy giảng, trò
ghi sang hướng dẫn người đọc chủ động tư duy trong quá trình tiếp thu tri thức; dạy
cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư
duy phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân: tăng cường tính
chủ động, tính tự chủ của học sinh”. Như thế, việc đổi mới phương pháp dạy học đã
và đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, trong đó có đổi mới phương
pháp dạy học bộ mơn Ngữ văn. Bởi vì khoa học về phương pháp dạy học văn là
những chỉ dẫn sư phạm có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả giáo dục thẩm
mĩ, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
1
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Từ trước đến nay, hệ thống các phương pháp dạy học môn Ngữ văn đã khá
phong phú, đa dạng song một trong những phương pháp dạy học căn bản vẫn là
phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại. Vì thể loại là một trong những phạm trù
cơ bản của văn học, liên quan mật thiết đến chủ thể sáng tác và quá trình sáng tạo tác
phẩm. Đồng thời, thể loại cịn là cơ sở tạo nên tính thống nhất, chỉnh thể của tác
phẩm, quy định cách tổ chức, liên kết các yếu tố nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm. Mặt khác, thể loại còn định hướng cho độc giả trong quá trình tiếp nhận tác
phẩm. Do đó, việc hiểu tri thức về thể loại văn học và vận dụng vào quá trình dạy học
Ngữ văn ở cấp học Trung học cơ sở là một yêu cầu rất quan trọng đối với giáo viên
giảng dạy môn Ngữ văn.
2. Cơ sở thực tiễn
Môn Ngữ văn trong nhà trường vừa mang tính chất nghệ thuật ngơn ngữ vừa
mang tính chất mơn học. Do vậy, dạy văn không chỉ nhằm gây rung động, cảm xúc,
rung động là con đường đảm bảo hiệu quả dạy văn nhưng rung động và cảm xúc thẩm
mỹ không phải là mục đích duy nhất của văn chương và dạy văn chương. Mục đích là
tạo được sự phát triển cân đối, tồn diện về tâm hồn trí tuệ, về thẩm mỹ và hiểu biết
để xây dựng nhân cách cho học sinh. Như Lê-nin đã từng nhận xét là nếu khơng tích
lũy những kiến thức của nhân loại thì người cộng sản chỉ là những anh nói khốc. Ngữ
văn như một mơn học phải vũ trang, nhất thiết phải vũ trang cho học sinh những kiến
thức cơ bản có hệ thống vững chắc được quy định trong chương trình.
Trong chương trình Ngữ văn hiện nay, thể loại là một trục chính để sắp xếp hệ
thống văn bản đưa vào chương trình và sách giáo khoa. Do đó, học sinh được học một
văn bản của thể loại này sẽ có kiến thức và kĩ năng tìm hiểu các văn bản khác cùng
một thể loại. Trong chương trình Ngữ văn cấp học Trung học cơ sở có rất nhiều văn
bản thuộc thể loại văn nghị luận. Tuy vậy, một số giáo viên chưa nắm chắc đặc trưng
thể loại, từ đó chưa có phương pháp dạy các văn bản này một cách phù hợp, hiệu quả,
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
2
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
dẫn đến việc học sinh không hứng thú học thể loại văn nghị luận, ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng dạy và học môn Ngữ văn.
Với nhận thức trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài “ Phương pháp dạy học văn
bản nghị luận ở trường Trung học cơ sở theo đặc trưng thể loại”, tơi hi vọng sẽ đóng
góp một phần nhỏ vào việc hồn thiện lí luận dạy học mơn Ngữ văn trong nhà trường
THCS, đặc biệt là dạy các văn bản nghị luận.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu đề tài “Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường Trung
học cơ sở theo đặc trưng thể loại” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học thể
loại văn nghị luận nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học nói chung.
III.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Tìm hiểu những vấn đề lí luận về thể loại văn nghị luận
2. Tìm hiểu thực trạng của việc dạy học văn nghị luận ở trường Trung học cơ sở
3. Đề xuất những định hướng, phương pháp dạy học văn bản nghị luận theo đặc
trưng thể loại.
IV.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Dạy học văn bản nghị luận ở trường Trung học cơ sở
theo đặc trưng thể loại.
2. Phạm vi nghiên cứu: Các văn bản nghị luận trong chương trình sách giáo khoa
Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở
V.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
2. Phương pháp phân tích- tổng hợp
3. Phương pháp khảo sát thống kê
4. Phương pháp thực nghiệm
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
3
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Viện sĩ Serbrina cho rằng: “ Tất cả cái rắc rối và phức tạp của việc dạy văn
trong nhà trường bắt nguồn từ chính đặc trưng của mơn Văn”. Từ trước đến nay, khi
nói đến lĩnh vực văn học nghệ thuật người ta thường nghĩ đến những sáng tác bằng
tưởng tượng, hư cấu của tác giả dân gian hoặc các nhà thơ, nhà văn với những thể loại
quen thuộc như: truyện, kịch, thơ mà ít người nghĩ tới văn nghị luận. Nếu qua các văn
bản thơ, truyện, kịch kích thích được trí tưởng tượng, những quan sát tinh tế, những
cảm nhận đa chiều về đời sống tâm hồn con người thì văn nghị luận lại giúp con
người phát triển tư duy lo-gic, khả năng lập luận chặt chẽ, diễn đạt vấn đề một cách
mạch lạc mang tính thuyết phục về một vấn đề nào đó trong nghệ thuật và trong đời
sống thường nhật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên- NXB Giáo dục 2009) cho rằng: “ Thể văn nghị luận viết về những vấn
đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học,
văn hóa…” mục đích của thể văn này là “ bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá
tức thời một tư tưởng quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một
tầng lớp, một giai cấp nhất định”. Có thể khẳng định, đặc trưng cơ bản của văn nghị
luận là “ tính chất luận thuyết”, văn nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người
đọc, người nghe bằng lập luận, dẫn chững và lí lẽ. Ví dụ như: Chiếu dời đơ ( Lí Cơng
Uẩn), Hịch tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn), Bình ngơ đại cáo ( Nguyễn Trãi), Tun ngơn
độc lập ( Chủ tịch Hồ Chí Minh)…
Đồng thời, sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 2 đã đưa ra khái niệm văn nghị luận:
“ Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư
tưởng, quan điểm nào đó”. Thật vậy, người đọc có thể phân biệt rõ nét văn nghị luận
với văn miêu tả (văn hư cấu tưởng tượng của người viết) qua ví dụ sau đây:
Nguyễn Thị Hịa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
4
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Ví dụ 1: “ Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; Nhà Chu đến vua
Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà
tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đơ ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính
kế mn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện
thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh,
Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương
Chu, cứ đóng n đơ thành nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận
ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, mn vật khơng được thích nghi. Trẫm rất đau xót về
việc đó, khơng thể khơng dời đổi” ( Trích Chiếu dời đơ- Ngữ văn 8- Tập hai)
Có thể khẳng định, đây là một đoạn văn nghị luận đặc sắc. Trong đoạn văn, Lí
Cơng Uẩn tập trung nêu lên quan điểm của mình về việc dời đơ- một vấn đề hệ trọng
lớn lao, có ảnh hưởng đến vận mệnh của một quốc gia, một dân tộc. Để thuyết phục
mọi người đồng tình theo quan điểm ấy, Lí Công Uẩn đã nêu tiền đề của việc dời đô
bằng cách đưa dẫn chứng về những lần dời đô của các triều đại Trung Hoa. Kết quả
của những lần dời đơ đó là “ vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Tiếp đó, tác giả
đã củng cố tiền đề bằng cách đưa ra những dẫn chứng về việc không dời đô của hai
nhà Đinh, Lê : “khiến cho triều đại không được lâu bền , số vận ngắn ngủi, trăm họ
phải hao tốn, mn vật khơng được thích nghi”. Những lí lẽ ấy đã tác động mạnh mẽ
đến đến lí trí của người nghe, bên cạnh đó nhà vua cịn bộc lộ tình cảm chân thành của
mình “ Trẫm rất đau xót về việc đó, khơng thể khơng dời đổi”. Vì thế, cả lí và tình, ai
cũng hiểu được rằng dời đơ là một việc làm cần thiết.
Ví dụ 2: “ Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Trịn trĩnh phúc hậu như lịng
đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt
lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước
biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người chài lưới trên mn thuở biển Đơng. Vài chiếc
Nguyễn Thị Hịa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
5
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất nén bạc. Một con hải
âu bay ngang là là nhịp cánh…” ( Cô Tô- Ngữ văn 6 -Tập 2)
Trên đây là đoạn văn dùng hư cấu, tưởng tượng để miểu tả lại khung cảnh buổi
sáng trên đảo Cô Tô. Bức tranh thiên nhiên ấy được khắc họa bằng những hình ảnh so
sánh với trí tưởng tượng phong phú, sinh động. Tất cả đều là những hình ảnh chân
thực, tiêu biểu cho vẻ đẹp thiên nhiên trên biển vào lúc bình minh kết hợp với tài quan
sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân về thiên nhiên Cơ Tơ đã giúp
người đọc hình dung cảnh biển Cơ Tơ đẹp rực rỡ, tráng lệ.
Qua hai ví dụ trên cho thấy, văn nghị luận là sản phẩm của văn học nghệ thuật
và cũng có những đặc trưng riêng của nó. Chính vì vậy, việc dạy học văn nghị luận
theo đặc trưng thể loại là một yêu cầu thiết yếu, là một trong những phương pháp tích
cực góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN Ở
TRƯỜNG THCS
Hiện nay, văn bản nghị luận được tuyển chọn trong chương trình Ngữ văn
THCS rất phong phú về đề tài, đa dạng về thể loại. Có những tác phẩm bàn về các vấn
đề hết sức gần gũi trong đời sống hàng ngày như: Bàn luận về phép học ( Nguyễn
Thiếp), Đi bộ ngao du ( Ru-xô), Bàn về đọc sách ( Chu Quang Tiềm), Chuẩn bị hành
trang vào thế kỉ mới ( Vũ Khoan)….Có những tác phẩm phản ánh nhận thức thẩm mĩ
của dân tộc và nhân loại, phản ánh về văn chương nghệ thuật bằng những bài nghị
luận văn học tài hoa, uyên bác như: Tiếng nói văn nghệ ( Nguyễn Đình Thi), Ý nghĩa
văn chương ( Hồi Thanh). Lại có những tác phẩm nói về những vấn đề lớn lao của
dân tộc, của thời đại như những tác phẩm phản ánh khát vọng của dân tộc về việc xây
dựng một quốc gia hùng cường, độc lập: Chiếu dời đơ( Lí Cơng Uẩn), phản ánh tinh
thần ý chí của cha ông trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước như:
Hịch tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn), Bình ngơ đại cáo ( Nguyễn Trãi). Sự phong phú về
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
6
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
đề tài, đa dạng về thể loại đã cho thấy sự chuyển biến nhận thức về vai trị vị trí của
văn chương nghị luận trong đời sống con người. Nói cách khác, văn chương nói chung
và văn nghị luận nói riêng đã cung cấp những kĩ năng nhất định, bồi đắp toàn diện về
tâm hồn trí tuệ, thẩn mĩ và những hiểu biết để xây dựng nhân cách cho học sinh.
Tuy nhiên thực tế dạy học văn bản nghị luận ở trường THCS hiện nay cho thấy:
khơng ít giáo viên tiến hành giảng dạy một cách khơ khan, cứng nhắc, chưa có hiệu
quả. Thậm chí, có những giáo viên chỉ chú ý đến khai thác nội dung mà chưa chú ý
đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật, dạy văn nghị luận chưa đúng với đặc trưng của
thể loại. Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm
mĩ…cho học sinh. Bên cạnh đó, đa số học sinh chưa hứng thú đối với những giờ học
văn bản nghị luận. Nhiều em cho rằng việc học văn bản nghị luận vừa khó hiểu, vừa
khơ khan, trừu tượng nên chưa tự giác soạn bài, chưa tự giác tìm hiểu bài. Đặc biệt
với học sinh khối 6 và khối 7 các em đang quen cảm thụ các tác phẩm mang tính hư
cấu tưởng tượng như truyện dân gian, truyện ngắn. Hơn nữa, tư duy lập luận của học
sinh còn non yếu, chưa thật logic nên cảm thấy ngại học các văn bản nghị luận.
Thiết nghĩ, những hạn chế trên do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Nguyên nhân thứ nhất là do một số giáo viên cịn có những quan điểm phiến
diện về văn học trong nhà trường, chưa thấy hết được vị trí, vai trị của văn nghị luận
trong chương trình cho nên quá trình đầu tư để thiết kế giáo án còn hạn chế. Mặt khác
một số giáo viên còn chưa thực sự nắm vững đặc trưng thể loại nghị luận nên chưa
xác định được phương pháp dạy học, ngại đổi mới phương pháp dạy học…Những
nguyên nhân này trực tiếp tác động đến việc khó hiểu bài của học sinh, từ đó dẫn đến
biểu hiện chán học các văn bản nghị luận.
Nguyên nhân thứ hai là do khoảng cách ngày càng rộng giữa văn hóa ngồi xã
hội với một số văn bản nghị luận cổ được học trong nhà trường, giữa nội dung giảng
dạy và tâm lí học sinh. Xã hội càng biến động và biến đổi càng làm lộ ra khoảng cách
đó.
Nguyễn Thị Hịa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
7
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Nguyên nhân thứ ba là do học sinh đang quen được rèn luyện về kĩ năng quan
sát, tưởng tượng nên gặp khó khăn hơn khi học văn nghị luận. Vì văn nghị luận có địi
hỏi cao hơn về khả năng lập luận, tính khoa học và tính logic. Nếu học sinh khơng
được sự hướng dẫn tận tình, đúng phương pháp của giáo viên thì sự tiếp nhận kiến
thức của các em sẽ rất hạn chế.
Nguyên nhân thứ tư là do tình trạng học sinh chưa chăm học nên không đọc kĩ
văn bản nghị luận. Một số học sinh còn soạn bài một cách qua loa, chưa đọc văn bản
mà đã soạn bài. Một bộ phận khơng nhỏ có tư tưởng coi mơn văn không quan trọng
bằng các môn học tự nhiên.
Nguyên nhân thứ năm là một số học sinh có điều kiện hồn cảnh khó khăn,
chưa có đủ đồ dung học tập, thiếu tài liệu tham khảo, thiếu thời gian học tập nên các
em chưa có hứng thú thực sự trong học tập nói chung và văn nghị luận nói riêng.
Vậy làm thế nào để việc dạy học các văn bản nghị luận trong trường THCS có
hiệu quả?. Đây là một vấn đề đang được nhiều giáo viên quan tâm và cũng là vấn đề
được tôi nghiên cứu trong đề tài “Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường
THCS theo đặc trưng thể loại”.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
8
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN Ở
TRƯỜNG THCS THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
3.1.Đặc điểm của văn bản nghị luận
Văn nghị luận là văn bản được tạo ra từ phương thức lập luận, phản ánh những
đặc điểm về mục đích và cách thức biểu đạt nghị luận, xuất hiện ở bài nói hay bài viết.
Văn nghị luận vốn là sản phẩm của tư duy logic, vẻ đẹp của mối áng văn nghị luận
khơng chỉ thể hiện ở hình thức lập luận phong phú, lí lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết
phục mà còn thể hiện thái độ của tác giả trước vấn đề nghị luận. Do vậy, người giáo
viên cần lưu ý một số điểm sau khi dạy văn bản nghị luận:
3.1.1. Nắm được đặc trưng thể loại của văn nghị luận:
Văn nghị luận nêu lên ý kiến, thể hiện quan điểm, thái độ của người viết trước
một vấn đề của cuộc sống, thuyết phục người đọc, người nghe bằng hệ thống lí lẽ và
cách lập luận chặt chẽ hùng hồn.
Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay lựa chọn các tác phẩm theo thể
loại. Do đó, các văn bản nghị luận cũng được trình bày theo trục thể loại này :
Lớp
6
Văn bản
Tác giả
Lòng yêu nước
I. Êrenbua
Tinh thần yêu nước của nhân dân ta
Hồ Chí Minh
Sự giàu đẹp của Tiếng Việt
Đặng Thai Mai
Đức tính giản dị của Bác Hồ
Phạm Văn Đồng
Ý nghĩa văn chương
Hồi Thanh
Chiếu dời đơ
Lí Cơng Uẩn
Hịch tướng sĩ
Trần Quốc Tuấn
Nước Đại Việt ta( trích Bình Ngô đại cáo)
Nguyễn Trãi
Bàn luận về phép học
Nguyễn Thiếp
Thuế máu( trích Bản án chế độ thực dân Pháp)
Nguyễn Ái Quốc
Đi bộ ngao du ( tích Ê-min hay Về giáo dục)
Ru-xơ
Bàn về đọc sách
Chu Quang Tiềm
Tiếng nói của văn nghệ
Nguyễn Đình Thi
Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Vũ Khoan
Chó Sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La H. Lit-ten
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
9
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Phông-ten
9
Việc nắm được đặc trưng của thể loại nghị luận là điều cần thiết để từ đó hình
thành, thiết kế xây dựng các phương pháp dạy học đạt hiệu quả, phù hợp với đặc trưng
thể loại.
3.1.2.Xác định hệ thống luận điểm của văn bản nghị luận
Luận điểm là quan điểm tư tưởng của tác giả được nêu trong văn bản. Luận
điểm là điểm tựa lớn nhất của một văn bản nghị luận. Nó thường được thể hiện dưới
hình thức tiêu đề bài văn hoặc những câu văn có tính chất khẳng định hay phủ định.
Thông thường trong một văn bản nghị luận, luận điểm là một hệ thống bao gồm luận
điểm chính và luận điểm phụ. Luận điểm chính là luận điểm tổng qt bao trùm tồn
bài, mang tầm vóc tư tưởng (chủ đề). Luận điểm chính được triển khai bằng các luận
điểm phụ. Luận điểm chính được dùng làm kết luận của bài, là cái đích của bài viết.
Luận điểm phụ là luận điểm bộ phận của luận điểm chính . Luận điểm phụ được dùng
làm luận điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng. Các luận điểm trong một bài văn vừa
cần liên kết chặt chẽ vừa cần có sự phân biệt với nhau, các luận điểm phải được sắp
xếp theo một trình tự hợp lí. Ngồi ra, luận cứ cũng là một yếu tố không thể thiếu
trong văn nghị luận. Luận cứ là những lí lẽ, dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm.
Ví dụ văn bản Hịch tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn): Đặt trong hoàn cảnh ra đời, có
thể thấy luận điểm chính là “ nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng”- quyết chiến
quyết thắng kẻ thù trong ta, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Để nêu bật luận
điểm chính, Trần Quốc Tuấn đã đưa ra các luận điểm phụ như : Mở đầu tác giả nêu
những gương trong sử sách để khích lệ ý chí lập cơng danh, hi sinh vì nước của các
tướng sĩ. Sau đó tác giả lột tả tội ác và sự ngang ngược của giặc, đồng thời nêu mối
quan hệ ân tình giữa chủ và tướng. Mục đích là khơi gợi lịng căm thù giặc, khích lệ
tinh thần u nước bất khuất, khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
10
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Tiếp đến người viết phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ và chỉ ra cho
họ những thái độ, hành động đúng nên làm theo, cần làm theo. Cuối cùng để giành thế
áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, phần kết bài hịch một lần nữa Trần
Quốc Tuấn vạch rõ giữa hai con đường chính- tà, cũng có nghĩa là hai con đường
sống- chết để thuyết phục tướng sĩ.
Bên cạnh đó, lập luận trong văn nghị luận còn sử dụng nhiều thủ pháp nghệ
thuật phong phú thể hiện cảm hứng của chủ thể sáng tạo và tạo nên sắc thái thẩm mĩ
cho tác phẩm. Từ đó thấy được giá trị nội dung và sức hấp dẫn riêng của từng tác
phẩm. Lập luận là cách nêu luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận điểm
được nổi bật và có sức thuyết phục. Lập luận bao gồm các cách suy lí, quy nạp, diễn
dịch, so sánh, phân tích, tổng hợp sao cho luận điểm đưa ra là hợp lí, khơng thể bác
bỏ. Lập luận có ở xuyên suốt trong bài văn nghị luận.
Ví dụ: Trong văn bản Nước Đại Việt ta ( trích Bình Ngơ đại cáo) của Nguyễn
Trãi, tác giả kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Để tuyên ngôn về độc lập chủ quyền của
dân tộc Đại Việt, tác giả viết theo hướng diễn dịch- quy nạp: Khẳng định nền độc lập
của “ nước Đại Việt ta” trên cơ sở các yếu tố văn hiến, phong tục tập quán, cương vực
lãnh thổ, lịch sử, chủ quyền, cuối cùng khái quát bằng một nhận định: “ Việc xưa xem
xét- Chứng cứ còn ghi”.
Trong văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã ví lịng
u nước của nhân dân như “các thứ của quý” “ có khi được trưng bày trong tủ kính,
trong bình pha lê, có khi được cất dấu kín đáo trong rương trong hịm”. Người cịn ví
sức mạnh của lịng u nước như những làn sóng mãnh liệt “ nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”. Chứng tỏ sự so sánh giàu hình ảnh như trên đã làm cho cách
diễn đạt trở nên sinh động, gợi cảm, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc, người
nghe.
Hơn nữa, khi dạy văn bản nghị luận cần chú ý đến ngôn ngữ. Văn nghị luận chủ
yếu là văn lí lẽ nên lời văn phải chính xác, trong sáng, giàu thơng tin. Văn nghị luận
Nguyễn Thị Hịa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
11
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
có đan xen yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm. Ngôn từ trong văn nghị luận được sử dụng
sao cho nội dung khái niệm hiện lên trên bề mặt. Ví dụ: “ Văn học là nhân học”, “ Nhà
văn là kĩ sư tâm hồn”
3.2.Các phương pháp dạy học văn bản nghị luận
Ngoài việc tuân thủ các phương pháp dạy học nói chung, giáo viên cần biết linh
hoạt sử dụng các phương pháp dạy học riêng phù hợp với đặc trưng thể loại.
3.2.1. Phương pháp đọc diễn cảm
Việc xác định đặc trưng thể loại và kiểu văn bản gắn liền với việc xác định
giọng đọc, gắn liền với những định hướng có tính quy ước của nguyên tắc khi khai
thác giá trị văn bản. Hiệu quả của việc đọc văn bản không chỉ nhằm tới mục đích cảm
thụ, hiểu tác phẩm nghệ thuật nói chung mà cịn góp phần định hình kiến thức cơ sở
cho các phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn và phát triển các kĩ năng khác của hoạt
động học tập. Như vậy phương pháp đọc diến cảm chỉ phát huy tác dụng khi nó phù
hợp với đặc trưng của thể loại. Muốn học sinh hiểu đúng tác phẩm thì phải đọc đúng
giọng điệu của từng văn bản.
Đọc văn nghị luận trung đại sẽ khác với đọc văn nghị luận hiện đại. Văn nghị
luận trung đại triển khai luận điểm theo kết cấu riêng của thể tài. Văn nghị luận trung
đại thường là những áng văn kiện bất hủ, vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học,
triết học sâu sắc, đề cập tới những vấn đề quan trọng của quốc gia, dân tộc. Cách lập
luận, lí lẽ chắc chắn hùng hồn, chứng cớ xác thực, viện dẫn lịch sử đan xen lời văn
biểu cảm thống thiết, câu văn biền ngẫu. Mục đích bài văn nhằm truyền bá tư tưởng,
bộc lộ thái độ rõ ràng của tác giả, gắn với hoàn cảnh lịch sử và tác giả ( tác giả hầu hết
là người văn võ song toàn), các yếu tố quyết định sự ra đời của bài văn, đằng sau
những câu chữ là tấm lòng yêu nước sâu nặng, là trái tim giàu nhiệt huyết với vận
mệnh của đất nước. Cần gắn với các tri thức đã học về văn nghị luận trong phân môn
Tập làm văn, đồng thời phải gắn với các tri thức về thể văn nghị luận trong văn học
trung đại. Khi đọc diễn cảm văn học trung đại cần chú ý tính chất cân xứng, nhịp
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
12
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
nhàng của câu văn biền ngẫu. Văn nghị luận trung đại thường được sử dụng trong
những không gian trang trọng nên giọng điệu cần thể hiện rõ ràng, mạch lạc, trang
trọng. Bên cạnh đó, mỗi thể tài lại lại có những quy định riêng nên trong q trình đọc
cần có sự thay đổi giọng điệu phù hợp với từng thể văn.
Ví dụ như: Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, được đón nhận
bằng nghi lễ trang trọng nên cần đọc với giọng điệu chung là trang trọng nhưng cũng
có những câu cần nhấn mạnh sắc thái tình cảm tha thiết hoặc chân tình. Hịch là thể
văn thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động,
thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài nên cần đọc với giọng
rõ ràng, mạch lạc, đặc biệt giọng điệu phải thể hiện được thái độ của người viết có khi
nghiêm khắc có khi lại chân thành, tình cảm. Cáo là thể văn thường được vua chúa
hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để
mọi người cùng biết nên có giọng hùng hồn, trang trọng. Tấu là một loại văn thư của
bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến đề nghị nên cần đọc với
giọng điệu chân tình, tự tin có chút khiêm nhường của tác giả.
Việc đọc văn nghị luận trung đại đúng với giọng điệu của từng thể văn nói trên
khơng phải là điều đơn giản, dễ làm. Nó phụ thuộc vào năng khiếu, chất giọng của
người đọc. Tùy từng văn bản, từng điều kiện mà giáo viên có thể tổ chức đọc theo các
hình thức như giáo viên đọc, học sinh đọc, cho học sinh nghe nghệ sĩ đọc qua các
phương tiện kĩ thuật như đài hoặc phần trình chiếu có chèn âm thanh do giáo viên
chuẩn bị.
Mặc dù cũng mang những nét đặc trưng chung của thể văn nghị luận song văn
bản nghị luận hiện đại có những điểm khác biệt hẳn so với văn bản nghị luận trung
đại. Do đó, cách đọc văn bản nghị luận hiện đại cũng sẽ khác cách đọc văn bản nghị
luận trung đại.
Tác giả của những tác phẩm nghị luận hiện đại thường là những chính khách,
những người giữ trọng trách trong xã hội, nhà văn, nhà mĩ học. Nội dung của văn bản
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
13
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
nghị luận hiện đại đề cập đến nhiều vấn đề vừa mang tính thời sự vừa mang tính khoa
học lâu dài trong xã hội hiện đại. Dù bàn luận đến những vấn đề xã hội chính trị hay
mĩ học thì mục đích của các tác giả là hướng sự quan tâm của đông đảo người đọc đến
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thiết thực đối với đời sống cá nhân và cộng
đồng, từ đó có những nhận thức đúng đắn và hành động tích cực trong hoạt động thực
tiễn của mình. Vì vậy văn nghị luận hiện đại trở thành một trong những phương tiện
tuyên truyền, học tập, cổ vũ chính trị tích cực cho mọi người mang đậm dấu ấn của tác
giả. Lời văn trong văn bản nghị luận hiện đại có sự kết hợp giữa trình bày nhận thức
khách quan về đối tượng với bày tỏ nhiệt tình của tác giả, thậm chí đan xen đáng kể
lời miêu tả và tự sự. Ngôn từ trong các bài nghị luận hiện đại mang đậm tính chun
mơn, chun ngành nhưng khơng hồn xa lạ với bạn đọc. Tính thuyết phục không chỉ
ở sự sắc sảo của nhận định, quan điểm được trình bày mà cịn ở nhiệt tình của người
viết đối với vấn đề đặt ra với công chúng độc giả. Giọng điệu chung của nhiều bài
nghị luận hiện đại là sôi nổi, chân thành và tin tưởng. Cách đọc diễn cảm văn học nghị
luận hiện đại là đọc rõ ràng, mạch lạc, chất giọng khỏe. Song lưu ý khi đọc cần thể
hiện được tính “dân chủ” chứ khơng phải giọng sang sảng, trang nghiêm ở vị thế “bề
trên” như thời trung đại. Nhưng cũng khơng vì thế mà làm mất đi giọng điệu hùng
hồn. Ở mỗi văn bản lại cần lưu ý đến cách đọc từng luận điểm sao cho phù hợp.
Ví dụ: Khi đọc văn bản Tiếng nói văn nghệ của Nguyễn Đình Thi, giọng đọc
chung là rõ ràng, mạch lạc nhưng đối với những đoạn tác giả đưa dẫn chứng trong thơ,
văn thì lại cần đọc với giọng diễn cảm, nhẹ nhàng, chậm rãi. Văn bản Chuản bị hành
trang vào thế kỉ mới của Vũ Khoan là một văn bản có nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lời
lẽ dung dị mà thuyết phục thì lại cần một giọng đọc to, rõ ràng mạch lạc, tình cảm và
phấn chấn.
Tóm lại, đọc văn bản nghị luận diễn cảm đúng phương pháp sẽ phần nào thể
hiện được đặc trưng thể loại. Tuy nhiên nếu tách rời các phương pháp khác vẫn chưa
thể giúp học sinh nắm được tác phẩm một cách sâu sắc, toàn diện, khoa học. Ưu điểm
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
14
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
của phương pháp này là khả năng khêu gợi những rung cảm thẩm mĩ, phát huy được
trí tưởng tượng và năng lực tư duy của học sinh. Đồng thời cách đọc, ngữ điệu đọc sẽ
là một biểu hiện quan trọng của mức độ thâm nhập nắm bắt tác phẩm.
3.2.2. Phương pháp so sánh
So sánh là một trong những phương pháp quen thuộc, hữu hiệu trong phân tích
văn học được khẳng định và hồn thiện trong thực tiễn giảng dạy văn chương trong
nhà trường. Khi nhắc lại phương pháp nghiên cứu của Lênin, N.K.Krupxkaia có viết:
“ Lấy những tác phẩm của Mác có phân tích những tình huống tương tự, đem phân
tích tỉ mỉ những tình huống tương tự, so sánh với những yếu tố đã thử nghiệm, vạch ra
chỗ giống và khác nhau. Đó là phương pháp của Lênin”. Dĩ nhiên, giữa phân tích
khoa học, xã hội học và văn học có những chỗ khác biệt nhưng trong hoạt động nhận
thức phương pháp so sánh nếu được sử dụng một cách thích hợp với đối tượng phân
tích chắc chắn sẽ đưa đến những hiệu quả tốt đẹp. Có thể hệ thống hóa các nhóm liên
hệ so sánh để phân tích tác phẩm văn nghị luận như sau:
Nhóm 1:
- Tác phẩm gần gũi hoặc khác biệt.
- Cùng thời hoặc khác thời điểm sáng tác.
Nhóm 2:
Ngoài tác phẩm: Thời đại ( sự kiện thật), cuộc sống ( người thật), tác giả ( hoàn
cảnh sáng tác, cảm hứng sáng tác ).
Nhóm 3:
Trong tác phẩm: quan hệ từ, quan hệ câu, quan hệ hình tượng, quan hệ kết cấu,
quan hệ sự kiện chi tiết.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Nước Đại Việt ta ( trích Bình Ngơ đại cáo ) của Nguyễn
Trãi, nhằm giúp học sinh làm sáng tỏ chân lí vầ sự tồn tại độc lập, chủ quyền của dân
tộc Đại Việt. Vận dụng nhóm 1 để liên hệ so sánh, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi:
Bài thơ Sơng núi nước Nam ( Lí Thường Kiệt ?) được coi là bản tuyên ngôn độc lập
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
15
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
đầu tiên của nước ta để khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc. Hãy so sánh với Bài
thơ Sông núi nước Nam để thấy rõ Nước Đại Việt ta ( Nguyễn Trãi) có những điểm
mới nào? Sau khi đối chiếu so sánh học sinh nhận thấy được điểm khác biệt cơ bản là:
Ý thức về nền độc lập dân tộc ở bài thơ Sơng núi nước Nam ( Lí Thường Kiệt ?)
được xác định trên hai phương diện lãnh thổ ( sông núi nước Nam) và chủ quyền ( vua
Nam ở). Còn ở Nước Đại Việt ta- trích Bình Ngơ đại cáo ( Nguyễn Trãi), ý thức dân
tộc được phát triển cao hơn, sâu sắc và toàn diện hơn. Ngoài hai yếu tố lãnh thổ và
chủ quyền, ý thức độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung bằng 3 yếu tố mới đầy ý
nghĩa: Nước ta có nền văn hiến lâu đời, có phong tục tập quán riêng, có truyền thống
lịch sử oanh liệt bất cứ kẻ xâm lược nào vào nước ta đều bị sức mạnh nhân nghĩa của
chúng ta làm cho đại bại. Như vậy, ý thức dân tộc ở Nước Đại Việt ta- trích Bình Ngơ
đại cáo ( Nguyễn Trãi) là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc ở Sơng núi nước
Nam ( Lí Thường Kiệt ?), Nguyễn Trãi đã ý thức được đó là năm yếu tố cơ bản, hạt
nhân để xây dựng chủ quyền dân tộc (sau đó giáo viên phân biệt rõ chữ “đế” và chữ
“vương” để thấy được ý thức dân tộc và niềm tự hào dân tộc của tác giả).
Cũng có thể phân tích bằng cách so sánh với những tác phẩm cùng chủ đề, cùng
đề tài của các tác giả để làm nổi rõ sự chuyển biến hay phát triển trong quan niệm
sáng tác cũng như thế giới quan của tác giả thể hiện trong tác phẩm.
Ví dụ: Vận dụng nhóm 2 để so sánh, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi: Hãy nêu
lên những nét chung và nét riêng của tinh thần yêu nước được thể hiện trong các văn
bản Chiếu dời đơ ( Lí Cơng Uẩn), Hịch tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn) và Nước Đại Việt
ta- trích Bình Ngơ đại cáo ( Nguyễn Trãi) ? Ba văn bản trên đều được viết bởi những
nhân vật lịch sử, ra đời gắn liền với những sự kiện trọng đại trong lịch sử dựng nước
và giữ nước thấm đượm tinh thần yêu nước nồng nàn. Tinh thần yêu nước ấy trong
các văn bản vừa có nét giống nhau vừa có nét khác nhau, tức là vừa thống nhất vừa đa
dạng. Ba văn bản đều thể hiện nổi bật ý thức chủ quyền dân tộc, đều toát lên lời khẳng
định nền độc lập dân tộc, song ở mỗi văn bản nội dung yêu nước lại có một nét riêng.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
16
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Ở Chiếu dời đơ ( Lí Cơng Uẩn) nổi bật lên khát vọng xây dựng đất nước bền vững và
ý chí tự cường của dân tộc đang trên đà lớn mạnh. Còn nét nổi bật trong Hịch tướng sĩ
(Trần Quốc Tuấn) là long căm thù giặc sục sôi và tinh thần quyết chiến quyết thắng lũ
giặc xâm lược. Mặt khác nội dung chủ yếu của tinh thần yêu nước trong văn bản Nước
Đại Việt ta- trích Bình Ngơ đại cáo ( Nguyễn Trãi) là sự khẳng định mạnh mẽ nền độc
lập trên cơ sở ý thức dân tộc đặc biệt sâu sắc, đồng thời đó cịn là niềm tự hào cao độ
về sức mạnh chính nghĩa cùng truyền thống lịch sử văn hóa vẻ vang của dân tộc.
Như vậy so sánh trong thực tế nghiên cứu phê bình lí luận cũng như giảng dạy
văn học nói chung và văn nghị luận nói riêng đã trở thành một phương pháp có hiệu
lực thực sự, so sánh khơng phải là mục đích mà là phương tiện, là con đường đi vào
tác phẩm. Thế giới thẩm mĩ của học sinh không những được phát triển tự nhiên và
phong phú mà bản thân việc phân tích văn bản nghị luận cũng được thuận lợi hơn, sâu
sắc hơn.
3.2.3. Phương pháp đàm thoại gợi mở
Bằng con đường đàm thoại gợi mở, giáo viên tạo ra cho lớp học một khơng khí
tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình. Những tín hiệu phản
hồi được báo lại cho giáo viên kịp thời trong khi lên lớp. Giờ dạy văn, học văn có
được khơng khí tâm tình, trao đổi thân mật về những vấn đề cuộc sống. Mối liên hệ
giữa tác giả- giáo viên- học sinh được hình thành ngay trong lớp học, điều mà các giờ
dạy theo phương pháp diễn giải khó thực hiện được. Đây không phải là phương pháp
mới lạ, từ lâu nó đã được áp dụng trong giảng dạy. Phương pháp đàm thoại gợi mở
yêu cầu giáo viên phải xây dựng được một hệ thống câu hỏi gợi mở, trong đó kết quả
của câu hỏi này là điều kiện để giải quyết các câu hỏi tiếp theo. Mỗi câu hỏi là điểm
tựa có tính chất chi tiết và bộ phận hướng vào nội dung cơ bản của văn bản. Quá trình
học sinh giải quyết các câu hỏi là quá trình học sinh tự hình thành tri thức cho mình.
Bằng hệ thống các câu hỏi đàm thoại gợi mở, hoạt động giữa thầy và trò sẽ nhịp
nhàng hơn.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
17
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Đối với văn bản nghị luận, tính logic lập luận rất cao cho nên sử dụng phương
pháp đàm thoại gợi mở để học sinh tìm hiểu, phát hiện ra các luận điểm và trình tự lập
luận là rất phù hợp. Hệ thống câu hỏi được xây dựng tương ứng với ba hoạt động lớn:
Đọc –hiểu cấu trúc văn bản, đọc- hiểu nội dung văn bản và đọc- hiểu ý nghĩa văn bản
và cần đảm bảo các yêu cầu như: Học sinh phát hiện ra các luận điểm của văn bản,
khai thác chi tiết các giá trị của văn bản, tổng kết những giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của văn bản.
Ví dụ: Văn bản Bàn về phép học của Nguyễn Thiếp, giáo viên có thể yêu cầu
học sinh xác định bố cục của văn bản bằng câu hỏi: Hãy tìm luận đề của văn bản và
xác định hệ thống luận điểm? Cùng với sự chuẩn bị bài của mình và định hướng của
giáo viên, học sinh có thể phát hiện ra luận đề, luận điểm của văn bản như sau:
-Luận đề của văn bản: Bàn về phép học
- Luận điểm:
+ Mục đích chân chính của việc học.
+ Phê phán những lệch lạc, sai trái trong học tập
+ Khẳng định quan điểm, phương pháp đúng đắn trong học tập
+ Tác dụng của việc học chân chính
Để thấy được trình tự lập luận của văn bản này, giáo viên cần xây dựng một hệ
thống câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho hoạt động song phương giữa thầy và trò để
từng bước hiểu được tác phẩm. Các câu hỏi đàm thoại về một văn bản nghị luận được
phân loại theo những hình thức khác nhau. Tuy nhiên, cần đảm bảo được một số tiêu
chuẩn khoa học nhất định:
- Các câu hỏi đàm thoại, ngồi tính chất chính xác, rõ ràng phải có màu sắc văn
học, có khả năng khêu gợi tình cảm, xúc động thẩm mĩ cho học sinh.
- Câu hỏi phải vừa sức với học sinh, phải thích hợp với khn khổ một giờ học
trên lớp, vừa phải có khả năng “ gợi vấn đề” suy nghĩ, tìm tịi sáng tạo cho học sinh.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
18
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
- Câu hỏi không tùy tiện, phải được xây dựng thành một hệ thống logic, có tính
tốn, giúp học sinh bước đi sâu vào tác phẩm như một chính thể.
Cần có sự kết hợp cân đối giữa loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp gợi
vấn đề. Câu hỏi có khi theo lối diễn dịch, có khi theo lối quy nạp nhưng đều nhằm
cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững chắc.
Ví dụ: Ở luận điểm thứ nhất, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng và lí lẽ nào? ( Câu hỏi
gợi mở: Tác giả đã nêu kết quả, mục đích chân chính của việc học là gì ? Bằng cách
nào? )
Ở luận điểm thứ hai, tác giả đã phê phán những lối học lệch lạc nào? Tác hại
của lối học ấy? ( Câu hỏi gợi mở: Theo em, tam cương ngũ thường là gì? Thế nào là
lối học hình thức, cầu danh lợi?. Hãy liên hệ trong thực tế hiện nay?)
Khi vận dụng phương pháp đàm thoại gợi mở, học sinh sẽ được rèn một số
những kĩ năng như: kĩ năng phân tích một vấn đề, kĩ năng phát hiện những dấu hiệu
nghệ thuật trong một văn bản nghị luận, học tập được cách lập luận của tác giả và viết
bài văn nghị luận.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống câu hỏi, để phát huy tính chủ động sáng tạo
của học sinh trong q trình lĩnh hội kiến thức không phải lúc nào giáo viên cũng chủ
động hỏi, học sinh trả lời. Giáo viên cần tạo cho học sinh có cơ hội được hỏi lại các
vấn đề mà mình cịn chưa hiểu hoặc thể hiện điều mình tâm đắc nhất bằng các câu hỏi
để các bạn cùng tranh luận, tìm hiểu. Từ đó vừa phát huy được năng lực cảm thụ của
học sinh, vừa phát huy được tính chủ động sáng tạo trong hoạt động lĩnh hội kiến
thức. Vấn đề quan trọng là khi sử dụng phương pháp này trong giờ dạy văn, người
giáo viên phải tính tốn kĩ lưỡng, bảo đảm cho giờ dạy văn không bị biến chất, nhằm
làm sao cho học sinh được phát triển cân đối cả về trí tuệ lẫn tâm hồn.
3.2.4. Phương pháp giảng bình
Có thể nói giảng bình là phương pháp có tính đặc thù của cảm thụ và truyền thụ
văn thơ. Lời bình văn ( nói hay viết) đều có đặc trưng chung là mang màu sắc cảm xúc
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
19
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
và tính chủ quan của đánh giá thẩm mĩ. Người giáo viên thông qua sự hiểu biết và
rung cảm về văn bản có nhiệm vụ làm sao cho học sinh cũng rung cảm và hiểu biết về
văn bản một cách đúng đắn, sâu sắc. Song điều quan trọng nhất là phải tạo dần dần
từng bước cho học sinh một ấn tượng, một nhận thức hoàn chỉnh về tác phẩm. Nếu sa
vào những chi tiết, những điểm vụn vặt thì người giáo viên sẽ làm cho giá trị của bài
văn bị giảm sút cùng với phá vỡ chỉnh thể của nó. Độ sâu của lời bình chính là ở chỗ
nêu ra được vấn đề có ý nghĩa khái quát về tư tưởng nghệ thuật hay khơng. Muốn có
một lời bình sâu gọn, người giáo viên nhất định phải ngẫm nghĩ nhiều. Chính những
lời bình sâu gọn sẽ làm cho giờ giảng dạy văn trên lớp tiết kiệm thời gian và lắng
đọng, khêu gợi sức suy tưởng của học sinh, lượng thông tin trong giờ giảng được nâng
lên rõ rệt.
Như đã khẳng định, văn nghị luận được làm nên bởi sức mạnh chủ yếu là lí trí
của người viết với mục đích là tác động vào lí trí của người cần được thuyết phục.
Thực tế cho thấy, những bài văn nghị luận hay luôn luôn là những bài văn được viết ra
không chỉ bằng sự sáng suốt mạch lạc, chặt chẽ của trí tuệ mà cịn bằng tất cả nhiệt
tình, sự tha thiết của tâm hồn. Nhiều bài văn nghị luận có những đoạn văn rất tinh tế,
tài hoa. Vì vậy, để thấy được cái hay, cái đẹp của những áng văn nghị luận ấy, phương
pháp giảng bình được vận dụng là cần thiết.
Sự kết hợp giữa phân tích các luận điểm và mạch lập luận với giảng bình sẽ
khơi gợi tình cảm tích cực, kích thích óc tưởng tượng, bồi dưỡng cho học sinh những
rung cảm thẩm mĩ, rèn kĩ năng trình bày một vấn đề nghị luận. Từ đó học sinh sẽ thấy
được sức thuyết phục của văn bản, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Có khi lời bình
được tiến hành bằng một lời tâm sự, một câu chuyện tưởng là chủ quan nhưng chúng
lại có tác dụng khêu gợi rất sâu xa. Cũng có khi lời bình là một lời khen trực tiếp
nhưng có ý nghĩa khái quát về giá trị áng văn nghị luận, có khi là lời khen chê về quan
điểm, thái độ của người sáng tác. Có khi bình theo con đường so sánh đối chiếu.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
20
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Người giáo viên càng có nhiều vốn kiến thức, vốn ngơn từ càng có thể tạo cho lời bình
của mình một sức nặng lớn hơn.
3.2.5. Phương pháp tái tạo, tái hiện
Tái tạo, tái hiện là dựng lại nội dung thông tin mà tác giả thể hiện trong văn bản
nghệ thuật. Nói cách khác là tái hiện tri thức đã có trong văn bản. Đặc điểm của
phương pháp này thể hiện ở tính chủ động, thuyết phục bằng ngơn ngữ diễn đạt, ở tính
mẫu mực trong minh họa và trích dẫn tư liệu. Phương pháp này không làm thay đổi
nội dung kiến thức mà thúc đẩy quá trình tiếp thu và vận dụng kiến thức của học sinh.
Trong văn bản nghị luận, phương pháp này chính là việc giáo viên hướng dẫn
học sinh dựng lại hệ thống luận điểm của văn bản. Nó có thể được thực hiện bằng
cách lập dàn ý hoặc sơ đồ hóa, mơ hình hóa hệ thống luận điểm, vẽ sơ đồ tư duy về
bài học. Khi học sinh được trực tiếp làm việc, tái hiện lại được hệ thống luận điểm của
bài học thì khơng những học sinh sẽ nhớ lâu, nhớ đúng kiến thức hơn mà còn rèn
luyện kĩ năng phân tích, tổng hợp, kĩ năng lập dàn ý cho bài văn nghị luận. Phương
pháp này đặc biệt có tác dụng đối với các văn bản nghị luận dài, có cấu trúc phức tạp,
địi hỏi sự tư duy, tưởng tượng cao của học sinh.
Ví dụ: Văn bản Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng là một văn
bản có trình tự lập luận chặt chẽ, logic. Tuy nhiên để xác định hệ thống luận điểm cho
văn bản đối với học sinh lớp 7 là một việc làm không phải đơn giản. Cho nên qua
phần hướng dẫn tìm hiểu văn bản cùng với sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, giáo
viên hướng cho học sinh xây dựng hệ thống luận điểm thông qua sơ đồ như sau:
Đức tính giản dị của Bác Hồ
Giản dị trong lối sống
Giản dị trong lời nói, bài viết
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
21
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Trong sinh
hoạt
Bữa
ăn
Trong lối sống
Nhà
ở
Cách
làm việc
Dùng từ của quần
chúng nhân dân
Mọi người hiểu và
nhớ được
Mối quan hệ với
mọi người
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần đầu của tác phẩm Bình Ngơ đại cáo của
Nguyễn Trãi, nêu lên luận đề chính nghĩa với hai nội dung chính: nguyên lí nhân
nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt. Từ đó để
khẳng định sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc. Sau khi đọc, tìm
hiểu văn bản, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh khái quát trình tự lập luận của văn
bản bằng sơ đồ thay cho phần tổng kết. Có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm
để vẽ sơ đồ hoặc có thể giao bài tập về nhà yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy, yêu cầu
đại diện nhóm hoặc cá nhân trình bày về nội dung sơ đồ tư duy về bài học. Trên cơ sở
đó giáo viên sẽ đưa ra nhận xét, củng cố về hệ thống luận điểm của văn bản:
Nguyên lí nhân nghĩa
Yên dân
(Bảo vệ đất nước để yên dân)
Trừ bạo
( Đánh đuổi giặc Minh xâm lược)
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
22
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của
dân tộc Đại Việt
Văn
hiến
lâu
đời
Lãnh
thổ
riêng
Phong
tục tập
quán
riêng
Lịch sử
riêng
Chế độ
chủ
quyền
riêng
Sức mạnh của nhân nghĩa
Sức mạnh của độc lập dân tộc
Biện pháp lập dàn ý, sơ đồ tư duy, mơ hình hóa cịn có tác dụng khi giáo viên
cho học sinh phân tích một luận điểm lớn nào đó để tìm ra sự đặc sắc trong nghệ thuật
lập luận. Sử dụng kết hợp phương pháp tái tạo, tái hiện với phương pháp đọc diễn cảm
sẽ giúp cho học sinh có cái nhìn chung nhất về đoạn văn, văn bản. Từ đó tạo đà thuận
lợi cho việc đi sâu phân tích, tìm hiểu văn bản nghị luận.
Nói tóm lại, để giờ dạy học văn bản nghị luận có hiệu quả, giáo viên cần nắm
được mục đích, đặc trưng của từng văn bản, linh hoạt vận dụng các thao tác và
phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Thành cơng của giờ dạy cịn phụ thuộc vào
khả năng, sự linh hoạt sang tạo và lịng nhiệt tình của mỗi giáo viên khi giảng dạy
trên lớp.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Sau khi kết thúc một giờ dạy, mỗi người giáo viên đều có những suy ngẫm, trăn
trở về những thành cơng và tồn tại mà mình đã thực hiện được hay chưa thực hiện
được trong quá trình tổ chức hướng dẫn học sinh học tập, lĩnh hội tri thức. Mục tiêu
giờ học đã đạt được một cách hoàn thiện chưa? Sau giờ học, học sinh đã tiếp thu được
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
23
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
những tri thức nào? Bài học đã gieo vào tâm hồn học trò những kĩ năng sống, những
vẻ đẹp nào để phát triển thẩm mĩ và nhân cách sống?...Những suy nghĩ đó chính là
động lực để mỗi người giáo viên không ngừng đổi mới về phương pháp tổ chức hoạt
động dạy và học, cần phải trau dồi và cố gắng nhiều hơn để mỗi giờ dạy học văn trở
nên nhẹ nhàng, hấp dẫn đối với người học. Cũng với tinh thần ấy, tôi đã lựa chọn
nghiên cứu và ứng dụng đề tài “Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường
trung học cơ sở theo đặc trưng thể loại” mong muốn góp “một hạt cát nhỏ” cùng đồng
nghiệp xây dựng “con đường” dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kho tàng tri thức nhân loại
mênh mơng, vơ tận.
Trong q trình nghiên cứu và vận dụng đề tài “Phương pháp dạy học văn bản
nghị luận ở trường trung học cơ sở theo đặc trưng thể loại” tôi đã cùng đồng nghiệp
trong tổ chuyên môn trao đổi thơng qua hình thức chun đề, thao giảng, hội giảng để
đóng góp ý kiến nhằm giảng dạy tốt hơn các văn bản nghị luận trong chương trình
trung học cơ sở. Kết quả cho thấy như sau:
Về phía giáo viên, đã có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vai trị, vị trí của các
văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học sơ sở. Từ đó, nhiệt tình đầu
tư thiết kế giáo án, tham khảo tài liệu để có được giờ giảng dạy các văn bản nghị luận
một cách thành công, hiệu quả nhất. Giáo viên đã chú trọng đến việc nắm vững đặc
trưng thể loại của các văn bản nói chung và của văn bản nghị luận nói riêng để vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy văn truyền thống và phương pháp mới theo đúng
đặc trưng thể loại của văn bản. Mỗi giờ giảng dạy văn bản nghị luận giáo viên khơng
cịn cảm thấy khơ khan, q khó nữa. Ngược lại, họ tìm thấy ở văn bản nghị luận sức
hấp dẫn đặc biệt bởi tư duy lo gic, tính trí tuệ và tính thuyết phục rất lớn. Hơn nữa,
điều quan trọng là giáo viên đã giúp học sinh từng bước trở nên yêu thích văn bản
nghị luận, gắn kết chặt chẽ mối quan hệ giữa tác giả- giáo viên với học sinh.
Đối với học sinh, các em cảm thấy hứng thú khi học các văn bản nghị luận.
Biểu hiện cụ thể là học sinh đã tự giác soạn bài, học bài ở nhà trước khi đến lớp.
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
24
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2012- 2013
Trong lớp tập trung chú ý nghe giảng, thực hiện các hoạt động dạy học do giáo viên tổ
chức. Các câu hỏi trong phần Đọc- hiểu văn bản được học sinh chủ động tìm hiểu.
Bên cạnh đó vẫn có những câu hỏi học sinh chưa trả lời đúng song các em đã chủ
động tham khảo ý kiến của bạn bè, thầy cô giáo để tìm ra đáp án đúng nhất. Do đó,
các em đã dần dần hình thành nên phương pháp tìm hiểu các văn bản nghị luận, hình
thành kĩ năng cảm thụ, kĩ năng xây dựng hệ thống luận điểm, lập luận chặt chẽ, thuyết
phục, vận dụng văn nghị luận vào việc sáng tác báo tường, tập san hoặc phát biểu ý
kiến trình bày quan điểm trước lớp, trước đơng người. Đặc biệt học sinh thuộc được
nhiều câu văn tiêu biểu, đoạn trích hay trong các tác phẩm nghị luận đặc sắc như
Chiếu dời đơ (Lí Cơng Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Nước Đại Việt ta
(Nguyễn Trãi) ...Không chỉ dừng lại ở đó, học sinh cịn có nhu cầu mở rộng hiểu biết
về các điển tích điển cố trong văn học, tích hợp văn học sử để cảm thụ sâu sắc cái hay
cái đẹp của những áng văn nghị luận được học trong chương trình ngữ văn trung học
cơ sở.
Tóm lại, những thành công bước đầu ấy giống như những cơn gió thổi bùng
thêm ngọn lửa say mê tìm tịi và sáng tạo trong mỗi người làm nghề “trồng người”
như chúng tôi. Đồng thời cũng là cảm hứng để người giáo viên dạy mơn Ngữ văn tìm
ra những phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng thể loại giúp học sinh học tập
hiệu quả nhất môn học này.
KẾT LUẬN
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói rằng văn học nghệ thuật là một “vũ
khí vơ song”. Đồng thời trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng ta đã nói đến vai trị
cực kì quan trọng của văn học nghệ thuật trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, với khả năng riêng của những áng văn bản nghị luận được các tác giả sáng
Nguyễn Thị Hòa -Trường THCS Tuyết Nghĩa- Quốc Oai- Hà Nội
25