Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.8 KB, 60 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm y tế là một trong các nội dung thuộc an sinh xã hội, đặc biệt có
ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Việt Nam đã thực hiện BHYT gần 20 năm
và đạt được thành tựu đáng kể. Thực hiện BHYT sẽ tạo mọi điều kiện để mọi
người dân được chăm sóc sức khỏe. Đây là quan điểm nhất quán của Nhà nước
ta hướng tới “thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn
dân” [1].
BHYT toàn dân là mục tiêu hướng tới của tất cả các quốc gia khi thực
hiện chính sách BHYT. Thực hiện được BHYT toàn dân tức là đưa công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân lên đỉnh cao hiệu quả. Trong một thời gian dài thực
hiện BHYT, đã đến lúc chúng ta phải xác định lộ trình cụ thể cho việc thực hiện
BHYT toàn dân. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII ngày 14
tháng 11 năm 2008 đã thông qua Luật BHYT số 25/2008/QH12.
Luật BHYT với một bước phát triển đặc biệt về quy định BHYT toàn dân
là quyền và nghĩa vụ công dân với hình thức tham gia bắt buộc và đưa ra lộ trình
thực hiện BHYT toàn dân cho từng nhóm đối tượng lấy. Để thực hiện lộ trình
này cần phải có những nghiên cứu và những giải pháp cụ thể. Đây là vấn đề thu
hút sự quan tâm của nhiều cơ quan ban ngành và thực sự có ý nghĩa cấp thiết
trong điều kiện hiện nay. Vì vậy “một số kiến nghị thực hiện BHYT toàn dân ở
Việt Nam theo luật BHYT năm 2008” là thực sự cần thiết. Với phạm vi yêu cầu từ
góc độ pháp luật bằng việc chú trọng tới tổ chức thực hiện, đề tài nghiên cứu
được thiết kế bao gồm 3 chương:
+ Chương 1: BHYT và thực hiện BHYT toàn dân
+ Chương 2: Thực trạng về BHYT toàn dân ở Việt Nam
+ Chương 3: Một số kiến nghị thực hiện lộ trình BHYT toàn dân ở Việt
Nam
Với nhận thức và kỹ năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, đề tài không
tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của
thầy cô và tất cả các bạn.
Đại học Luật Hà Nội


1
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
CHƯƠNG 1:
BẢO HIỂM Y TẾ VÀ THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm y tế
Trong đời sống xã hội,con người luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố
từ thiên nhiên, xã hội, kinh tế…Vì vậy, ngoài những tác động tích cực đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển thì sự tác động này cũng đem đến cho con người
những biến cố khôn lường như động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, chiến tranh,
dịch bệnh, tai nạn, mất việc làm,…Những rủi ro lớn nhất là con người với vấn
đề sức khỏe và sự tồn tại và phát triển. Một trong những biện pháp hiệu quả nhất
mà con người tìm ra để bảo vệ mình trước những rủi ro đó là thực hiện bảo
hiểm.
Bảo hiểm chính là việc con người bỏ ra một số tiền nhất định trong kết
quả lao động của mình trong một quỹ dự trữ để đề phòng, khắc phục các thiệt
hại xảy ra trong tương lai. Qua đó sẽ phần nào nhanh chóng khôi phục sức khoẻ,
đời sống, ổn định các hoạt động. Bên cạnh những loại hình bảo hiểm mang tính
thương mại thì bảo hiểm y tế là loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận được hình
thành và cũng có lịch sử hàng trăm năm. Từ cuối thế kỷ XIX, các hội tương tế
đã được thành lập, ban đầu mới chỉ thành lập trong từng phường hội, xóm làng
sau đó được lan rộng hơn, rồi tiến tới toàn xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội lần
đầu tiên được thành lập tại Đức, dưới thời thủ tướng Bismack (1850) và sau đó
hoàn thiện các chế độ như bảo hiểm y tế (1883), bảo hiểm tai nạn (1884), bảo
hiểm hưu trí (1889), bảo hiểm thất nghiệp (1927). Đến nay, cùng với bảo hiểm
xã hội, mô hình bảo hiểm y tế mang tính xã hội với mục đích bảo vệ sức khỏe
con người đã xuất hiện và phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới (khoảng
180 nước) từ châu Âu, châu Mỹ đến châu Phi và châu Á. Có thể nói rằng, bảo
hiểm y tế thể hiện bản chất nhân đạo, trình độ văn minh của nhân loại với mục
đích đảm bảo khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cho dân chúng, thực hiện công

bằng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Đại học Luật Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
Khái niệm về BHYT được trình bày trong cuốn "Từ điển Bách khoa Việt
Nam I xuất bản năm 1995"- Nhà xuất bản từ điển Bách khoa – trang 151:
"BHYT: loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp
của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và
chữa bệnh cho nhân dân". Cũng như hầu hết các quốc gia, Việt Nam thừa nhận
quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) với cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội và là loại
hình bảo hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho người tham gia khi
gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Từ những góc độ chuyên sâu, khái niệm BHYT cũng được tiếp cận với
những nét riêng biệt:
- Dưới góc độ kinh tế, BHYT được hiểu là sự hợp nhất tài chính của số
lượng lớn những người tham gia nhằm đối phó với một loại rủi ro là bệnh tật.
Nguồn tài chính do nhiều người đóng góp nên sẽ đảm bảo chi trả chi phí y tế
cho những người không may gặp rủi ro bởi nó tạo ra một quỹ thống nhất. Những
người tham gia bảo hiểm y tế sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh trong đó khám
chữa bệnh không chỉ bao gồm vấn đề kỹ thuật y tế mà còn cả bao gồm cả yếu tố
kinh tế liên quan đến chi phí khám chữa bệnh như chi phí cho nghiệp vụ chuyên
môn kỹ thuật của bác sỹ, chi phí cho trang thiết bị vật tư y tế phục vụ khám chữa
bệnh, chi phí thuốc men, dược liệu,…Quá trình thực hiện BHYT cũng chính là
quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung. Vì vậy, phải làm thế nào
để sử dụng có hiệu quả nguồn quỹ đóng góp của người tham gia BHYT nhưng
đồng thời phải nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
- Dưới góc độ xã hội, BHYT là một hình thức tương trợ cộng đồng nhằm
mục đích bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Các thành viên trong xã hội cùng nhau
đóng góp một phần thu nhập để tạo ra quỹ chung với mục đích chăm sóc y tế

cho chính mình và các thành viên khác không vì mục tiêu lợi nhuận. Người
tham gia BHYT khi ốm đau hay bệnh tật sẽ nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ của cả
cộng đồng do chi phí y tế của họ sẽ được quỹ chung chi trả toàn bộ hoặc phần
lớn.
Đại học Luật Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
Tính xã hội của BHYT cũng được thể hiện rõ trong việc không phân biệt
hay giới hạn đối tượng tham gia. Mọi thành viên trong xã hội không phân biệt
tuổi tác, giới tính, tôn giáo, trình độ, thu nhập,…đều có quyền tham gia BHYT.
Tính xã hội của BHYT còn thể hiện ở sự giúp đỡ của Nhà nước về chăm
sóc y tế. Nhà nước luôn dành một phần trong ngân sách của mình để hỗ trợ cho
các hoạt động y tế và trợ giúp cho những thành viên yếu thế trong xã hội được
tham gia BHYT. Nhà nước với tư cách là người quản lý xã hội, điều tiết kinh tế,
ổn định đời sống nhân dân thì việc hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động y tế sẽ góp
phần thực hiện vai trò trên. Dù ở chế độ chính trị và điều kiện kinh tế xã hội nào
nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi BHYT là chính sách xã hội lớn
mà ở đó Nhà nước giữ vai trò là người tổ chức, quản lý và bảo trợ.
- Dưới góc độ pháp lý, BHYT được coi là quyền quan trọng của mỗi cá
nhân trong xã hội trong việc bảo vệ sức khoẻ của bản thân và cả cộng đồng. Bởi
lẽ một trong những quyền thiêng liêng của con người được các tuyên ngôn nhân
quyền khẳng định và được pháp luật của các quốc gia thừa nhận đó là quyền
được chăm sóc y tế. Đa số các nước đều ghi nhận trong hiến pháp và cụ thể hoá
quyền này bằng việc xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống BHYT với mục
đích chăm sóc sức khoẻ cho toàn xã hội. Theo Điều 39 Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “ Nhà
nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ
của nhân dân,…thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện cho mọi người dân được
chăm sóc sức khoẻ”. Và Điều 61 Hiến pháp quy định: công dân có quyền được
hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ…”.

Nhìn từ các góc độ như trên, ta có thể thấy BHYT có những đặc điểm sau:
Một là, BHYT có phạm vi đối tượng rất rộng, bao gồm toàn thể thành
viên trong xã hội không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị kinh tế-xã hội, tuổi
tác, tình trạng sức khoẻ…Bởi lẽ, rủi ro về sức khoẻ có thể xảy đến với tất cả mọi
người ở mọi lứa tuổi, giới tính, ở mọi điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sống,
tại bất kỳ thời điểm nào. Chăm sóc sức khỏe là nhu cầu tất yếu của mỗi con
người. Mặt khác, BHYT được coi là quyền quan trọng của con người nên tất cả
mọi người, ai cũng có quyền tham gia BHYT. Tùy từng điều kiện kinh tế xã hội
Đại học Luật Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
cụ thể mà pháp luật mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về đối tượng
tham gia và hình thức tham gia. Đặc trưng về phạm vi đối tượng là điểm cơ bản
phân biệt BHYT với các chế độ khác trong hệ thống an sinh xã hội. Có thể thấy,
trong chế độ BHXH, trợ giúp xã hội hay ưu đãi xã hội thì phạm vi đối tượng
được giới hạn bởi những tiêu chí, điều kiện nhất định. Đối tượng của BHXH là
người lao động và thành viên gia đình của họ (trong một số trường hợp) khi gặp
biến cố rủi ro làm giảm thu nhập; còn trợ giúp xã hội có đối tượng bảo vệ là toàn
bộ các thành viên trong xã hội khi lâm vào tình trạng thực sự khó khăn túng
quẫn cần có sự giúp đỡ về vật chất mới có thể vượt qua; ưu đãi xã hội thì có đối
tượng bảo vệ là những người có công trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc. Như vậy, BHYT có mạng lưới bao trùm mọi đối tượng trong xã hội mà
không một chế độ nào trong hệ thống an sinh xã hội rộng bằng.
Hai là, đối tượng bảo vệ của BHYT là sức khoẻ của con người khi bị ốm
đau, bệnh tật…Đặt trong mục tiêu chung của an sinh xã hội là hướng tới sự bảo
vệ toàn diện đối với mọi thành viên trong xã hội, BHYT thực hiện mục đích bảo
vệ sức khoẻ cho mọi người dân. Người tham gia BHYT đóng góp bằng tiền mặt
nhưng khi ốm đau, bệnh tật sẽ được BHYT đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh,
bao gồm các dịch vụ y tế như chẩn đoán, chữa trị bệnh tật, thuốc men và chăm
sóc tại bệnh viện. Chi phí cho dịch vụ khám chữa bệnh sẽ do cơ quan BHYT

đảm bảo và người bệnh không phải chi trả hoặc chi trả một phần với tỷ lệ thấp.
Nếu với người lao động, BHXH giải quyết được vấn đề bù đắp hay thay
thế thu nhập thông qua khoản trợ cấp (bằng tiền) cụ thể khi họ gặp biến cố, rủi
ro như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, tuổi già, mất việc làm thì
BHYT đảm nhận trách nhiệm khám chữa bệnh cho họ. Quyền lợi của người
hưởng BHYT không phải là khoản trợ cấp bằng tiền với các mức cụ thể như
trong BHXH, trợ giúp xã hội hay ưu đãi xã hội mà là các dịch vụ y tế phụ thuộc
vào từng loại bệnh tật.
Ba là, BHYT là chi phí ngắn hạn, không xác định trước, không phụ thuộc
vào thời gian đóng mà phụ thuộc vào mức độ bệnh tật và phụ thuộc vào nhiều
khả năng cung ứng dịch vụ y tế của cơ sở khám chữa bệnh. Về nguyên tắc,
người tham gia BHYT sẽ đóng một mức phí được xác định trước nhưng nếu họ
Đại học Luật Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
bị đau ốm hay bệnh tật sẽ được khám chữa bệnh cho đến khi khoẻ mạnh trở lại.
Sự đa dạng về các loại bệnh tật, nhu cầu cụ thể của mỗi bệnh nhân và khả năng
cung cấp dịch vụ y tế của cơ sở y tế (trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ chuyên
môn, trang thiết bị y tế, thuốc men…) chính là nguyên nhân làm cho các chi phí
y tế rất khó xác định trước cho người tham gia BHYT. Phụ thuộc vào các điều
kiện kinh tế xã hội của mình mà các nước giới hạn và phạm vi thanh toán của
BHYT. Ở các nước phát triển thường quy định hưởng chế độ chi phí y tế 100%
và phạm vi đáp ứng nhu cầu cao, kể cả các yêu cầu về thẩm mỹ, dị tật bẩm sinh,
các bệnh xã hội,… Ở các quốc gia có điều kiện kinh tế kém phát triển hơn hoặc
trong thời kỳ đầu triển khai thực hiện BHYT thường quy định có thêm sự hỗ trợ
của người bệnh với tỷ lệ nhỏ và giới hạn nhiều hơn về phạm vi dân cư.
Bốn là, quan hệ BHYT là mối quan hệ diễn ra giữa ba bên gồm bên thực
hiện BHYT, bên tham gia BHYT và cơ sở khám chữa bệnh. Trong đó cơ quan
BHXH là chủ thể thực hiện BHYT cho người tham gia. Người tham gia BHYT
vừa có nghĩa vụ đóng phí BHYT, vừa là đối tượng trực tiếp thụ hưởng các dịch

vụ khám chữa bệnh khi sự kiện BHYT xảy ra theo quy định của pháp luật. Cơ
sở khám chữa bệnh là tổ chức thực hiện khám chữa bệnh và cung cấp các dịch
vụ y tế cho người bệnh BHYT. Khi người tham gia BHYT sử dụng các dịch vụ
khám chữa bệnh, họ sẽ đến các cơ sở y tế và các chi phí liên quan sẽ được cơ
quan thực hiện BHYT chi trả toàn bộ hoặc một phần theo quy định. Như vậy,
quan hệ BHYT vừa là loại hình dịch vụ bảo hiểm, vừa là loại hình dịch vụ y tế.
Hệ thống thực hiện BHYT ở các nước được tổ chức theo các mô hình khác
nhau về điều kiện kinh tế xã hội, chế độ chính sách,…Tuy nhiên, dù tổ chức
thực hiện với hình thức nào đi nữa cũng không thể phủ nhận được mối quan hệ
ba bên của BHYT với vai trò quan trọng của cơ sở khám chữa bệnh.
1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm y tế
BHYT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đời
sống của con người. Vai trò của BHYT thể hiện ở những điểm sau:
Một là, BHYT thực hiện chính sách an sinh, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả và công bằng xã hội chăm sóc sức khoẻ.
Đại học Luật Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
BHYT có vai trò nhất định cho phục vụ chăm sóc sức khỏe của người
dân. Với những đặc thù của mình, BHYT đã bảo đảm cho mọi người, nhất là
những đối tượng “yếu thế” trong xã hội, ai cũng được tiếp cận các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ cơ bản, có chất lượng tốt; bảo vệ nhân dân khỏi gánh nặng quá sức
về tài chính do chi phí của các dịch vụ y tế mà họ cần sử dụng gây nên. Khi
tham gia BHYT, những người có điều kiện kinh tế khó khăn, hay họ mắc bệnh
hiểm nghèo thì họ sẽ được BHYT gánh bớt khó khăn về chi phí khám chữa
bệnh. Đồng thời, BHYT cũng đảm bảo cho những người bệnh có cùng nhu cầu
được tiếp cận như nhau đến các dịch vụ y tế hiện có; người bệnh có nhu cầu
nhiều hơn được chăm sóc nhiều hơn. Trong cuộc sống, con người có điều kiện
chăm sóc sức khỏe cho chính mình và người thân của mình. Có thể nói khi có
BHYT thì mỗi con người có điều kiện chăm sóc sức khỏe trung bình trong xã

hội bất kể là họ giàu nghèo hay ở bất kỳ vị trí nào. BHYT cùng với sự phát triển
của con người cũng sẽ được điều chỉnh phù hợp.
Từ khi ra đời, BHYT huy động và sử dụng nhiều nguồn lực để chia sẻ rủi
ro; góp phần đắc lực giảm tỷ lệ mắc bệnh tật và tử vong; nâng cao sức khoẻ,
tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi và góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Hai là, BHYT có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và thúc
đẩy tiến bộ xã hội.
Ngoài tính xã hội của mình BHYT còn thể hiện tính kinh tế của mình.
BHYT góp phần quan trọng trong việc phát trển kinh tế, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Một xã hội dù phát triển đến đâu thì cũng chỉ được coi là một xã hội tiến bộ khi
có mạng lưới y tế tốt và mọi người dân khoẻ mạnh. Sức khoẻ là tài sản quý nhất
của mỗi người. Khi bị ốm đau hay mắc bệnh, con người không chỉ bị suy giảm
sức khoẻ, giảm khả năng lao động mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của họ và
những người thân. Tham gia BHYT, người lao động và thành viên gia đình họ,
ai cũng được chăm sóc sức khoẻ, giảm ốm đau, khỏi bệnh tật. Khi có BHYT,
người tham gia được chăm sóc sức khỏe. Với thể chất và tinh thần khoẻ mạnh,
người lao động mới có thể đạt được kết quả cao nhất trong công việc, năng suất
lao động tăng, thu lợi về cho bản thân, gia đình, cho tổ chức và cho cả nền kinh
Đại học Luật Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
tế quốc dân. Mặt khác, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, nhờ có
BHYT mà nhà nước giảm tải được gánh nặng đối với sự nghiệp chăm sóc sức
khoẻ toàn dân, ngân sách quốc gia được tập trung hơn cho phát triển kinh tế.
Ngoài ra, với tư cách là một quỹ tiền tệ, quỹ BHYT được pháp luật nhiều nước
(trong đó có Việt Nam) cho phép sử dụng nguồn tài chính nhàn rỗi để đầu tư
sinh lời, tăng thêm nguồn thu của quỹ, từ đó quay lại phục vụ cho các hoạt động
của BHYT. Qua quá trình tồn tại và phát triển, BHYT ngày càng có nhiều đóng
góp quan trọng vào sự ổn định và tiến bộ xã hội.

Ba là, BHYT mang tính nhân văn, xã hội sâu sắc.
Rủi ro về sức khoẻ thường đến bất ngờ và không loại trừ ai. Đối với đa số
các thành viên trong xã hội, chi phí y tế thực sự là một gánh nặng mà nhiều khi
họ không thể trả nổi. Vì vậy đã có không ít các trường hợp do hoàn cảnh kinh tế
mà phải “sống chung với bệnh tật” trong khi y học hoàn toàn có khả năng chữa
trị được. BHYT ra đời không nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận và xuất
phát từ nhu cầu khách quan của cuộc sống con người. Nhờ tham gia BHYT,
người nghèo không phải đơn phương chống đỡ với những khó khăn gây ra bởi
rủi ro sức khoẻ. Bởi lẽ, khi đó họ nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ của cả cộng
đồng - của người có thu nhập cao đối với người có thu nhập thấp, của người
không ốm hoặc chưa ốm với người đang ốm, của người bệnh nhẹ với người
bệnh nặng. Như vậy, khi tham gia BHYT, mọi người thể hiện trách nhiệm của
mình trước hết là đối với bản thân, sau đó là trách nhiệm với xã hội. BHYT đã
góp phần phát huy tinh thần đoàn kết, “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá
rách” giữa các thành viên trong xã hội. Đó là những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa.
Ngoài ý nghĩa trên, BHYT còn góp phần trong việc điều tiết thu nhập của
các tầng lớp dân cư trong xã hội, là một trong những nguồn cung cấp tài chính
ổn định cho các cơ sở y tế.
1.2. BHYT toàn dân và kinh nghiệm ở một số quốc gia
1.2.1. Quan điểm về BHYT toàn dân
Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận với thuật ngữ BHYT toàn dân. Từ
nguyên tắc cơ bản của BHYT cho thấy BHYT toàn dân là một nguyên tắc quan
Đại học Luật Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
trọng của BHYT. Theo từ điển tiếng việt thì từ “toàn” có nghĩa là tất cả. Vậy
“toàn dân” có nghĩa là tất cả người dân, mọi người dân.Theo đó, BHYT toàn
dân là mọi người dân đều được quyền tham gia và được bảo vệ bởi hệ thống
BHYT. Từ góc độ mục tiêu, mục đích tổ chức thực hiện của BHYT cho thấy

BHYT toàn dân chính là mục tiêu hướng tới của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Về cơ bản, BHYT toàn dân được hiểu là toàn bộ mọi người dân của một
quốc gia đều được tham gia vào hệ thống BHYT của quốc gia đó.
Toàn bộ mọi người dân của một quốc gia có thể hiểu bao gồm cả công
dân nước sở tại và thậm trí cả người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ quốc gia đó
đều được tham gia vào hệ thống BHYT. Nói cách khác mọi thành viên trong xã
hội đều được tham gia BHYT mà không có sự phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã
hội, thành phần xã hội, tôn giáo…Hệ thống BHYT toàn dân do Nhà nước đứng
ra tổ chức thực hiện và được đảm bảo bằng hệ thống pháp luật. Mọi người lao
động có việc làm, có thu nhập đều có nghĩa vụ đóng góp tài chính vào hệ thống
BHYT. Những thành viên khác trong xã hội cũng được tham gia BHYT tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng nhóm đối tượng mà nhận được
sự hỗ trợ nhất định khi tham gia vào hệ thống BHYT này.
Theo quan điểm của một số nước từ việc quy định các đối tượng tham gia
có thể thấy, BHYT toàn dân mà các nước hướng tới chính là việc độ bao phủ
BHYT tới mọi tầng lớp nhân dân. Điển hình như một số nước: Đức, Mỹ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan…Ở Hàn Quốc, tháng 12 năm 1963 Luật
BHYT có hiệu lực và bắt đầu thực thi tại Hàn Quốc. Đến tháng 12 năm 1976
Luật BHYT đã được sửa đổi gần như hoàn toàn. Sau khi Luật BHYT được sửa
đổi và áp dụng năm 1976, đối tượng tham gia BHYT được mở rộng nhanh
chóng. Nếu như năm 1977 chỉ triển khai đến các công ty, hãng lớn có từ 500
công nhân trở lên, đến năm 1988 đã mở rộng đến các công ty nhỏ và bước đầu
thí điểm đến những người lao động tự do, sau đó Hàn Quốc không ngừng mở
rộng thêm các đồi tượng. Đến năm 1989 Hàn Quốc đã đạt độ bao phủ toàn dân
với gần 100% người Hàn Quốc có BHYT [15,19]. Ở Thái Lan,Từ năm 1975 đến
năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện BHYT cho nhóm người nghèo và
nhóm người bị thiệt thòi. Đến năm 1981, Chính phủ triển khai chương trình cấp
Đại học Luật Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D

thẻ cho người có thu nhập thấp (LIC) đến những người có thu nhập hàng tháng
dưới 1.000 baht/tháng. Năm 1983, chương trình LIC mở rộng đến những người
già trên 60 tuổi. Vào năm 1993, LIC được mở rộng đến trẻ em dưới 12 tuổi và
các lãnh đạo tôn giáo [15]. Với việc ngày càng mở rộng đối tượng đến tháng 4
năm 2002 Thái Lan đã thực hiện thành công BHYT toàn dân. Như vậy, ta có thể
thấy BHYT toàn dân là việc tham gia rộng rãi của mọi đối tượng trong xã hội
hay chính là 100% người dân có BHYT.
Theo quan điểm của chúng ta, BHYT toàn dân là việc các đối tượng quy
định trong Luật BHYT đều tham gia BHYT. Đối tượng tham gia BHYT ngày
càng được mở rộng sau 3 lần thay đổi Nghị định, đặc biệt là các đối tượng:
người nghèo; người có công với cách mạng; cán bộ xã phường thị trấn; đại biểu
hội đồng nhân dân; thân nhân của sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và của
sỹ quan Công an nhân dân; cựu chiến binh thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ;
người cao tuổi từ 85 tuổi trở lên; người lao động thuộc các doanh nghiệp ngoài
nhà nước không phân biệt số lượng lao động đều tham gia BHYT bắt buộc.
Qua 3 lần thay đổi Nghị định, đặc biệt là từ khi triển khai thực hiện Nghị
định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, đối tượng và phạm vi
bao phủ BHYT tăng nhanh. BHYT tự nguyện được mở rộng đến các đối tượng:
nông dân, hội viên các hội đoàn thể quần chúng (phụ nữ, thanh niên, cựu chiến
binh..), người ăn theo. Từ khi Luật BHYT năm 2008 ra đời đã mở rộng các đối
tượng tham gia lên 25 đối tượng bao trùm hầu hết các tầng lớp nhân dân. Như
vậy, cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam coi BHYT toàn dân chính là
việc tham gia của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội bằng cách quy định ngày
càng mở rộng đối tượng tham gia. Trong quá trình thực hiện BHYT toàn dân các
nước cũng có quan niệm và mục tiêu khác nhau do điều kiện kinh tế xã hội ở
mỗi nước là khác nhau. Mặc dù ở các quốc gia khác nhau có quan niệm cũng
như mục tiêu khác nhau về BHYT toàn dân song nhìn chung tiêu chí xác định
BHYT toàn dân bao gồm:
Thứ nhất, độ bao phủ của hệ thống BHYT đối với cộng đồng dân chúng
phải đạt 100%. Điều đó có nghĩa là mọi người dân đều được tham gia BHYT.

Đây được coi là yêu cầu quan trọng nhất của BHYT toàn dân.
Đại học Luật Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
Thứ hai, hệ thống BHYT toàn dân là hệ thống thống nhất, bình đẳng cho
mọi thành viên tham gia. Mỗi quốc gia chỉ có một BHYT duy nhất và được tập
trung thống nhất quản lý bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó mọi
người dân đều có quyền tham gia vào hệ thống BHYT mà không phân biệt tuổi
tác, giới tính, thành phần xã hội, mức thu nhập hay bất kỳ tiêu chí nào…khi
tham gia BHYT, mọi người dân đều nhận được bảo vệ của hệ thống BHYT.
1.2.2. Kinh nghiệm về thực hiện BHYT toàn dân ở một số quốc gia
Trên thế giới, BHYT toàn dân luôn là mục tiêu chung mà mọi quốc gia đều
hướng tới khi thực hiện chính sách BHYT. Hiện nay, các nước trên thế giới
đang tích cực chuẩn bị cho việc thực hiện BHYT toàn dân. Tuy nhiên, do điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý của mỗi nước khác nhau cho nên việc xác
định lộ trình, thời gian và phương thức thực hiện là khác nhau. Bởi lẽ, việc thực
hiện mục tiêu BHYT toàn dân hoàn toàn dựa trên cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội,
pháp lý riêng của từng quốc gia. Thực tiễn, đã có quốc gia thực hiện thành công
mục tiêu BHYT toàn dân theo lộ trình đã định nhưng cũng có một số nước còn
gặp nhiều vấn đề trở ngại mà không thể thực hiện theo kế hoạch đã vạch ra, hoặc
một số nước thực hiện thành công và chỉ duy trì được trong một khoảng thời
gian ngắn. Trong quá trình thực hiện các quốc gia gặp nhiều thách thức phải
từng bước khắc phục, thay đổi chính sách cho phù hợp. Hướng tới BHYT toàn
dân các quốc gia phải từng bước thực hiện, vạch ra kế hoạch chi tiết, cụ thể và
phải xác định một lộ trình thích hợp, nếu vội vã sẽ không thể tránh khỏi sự thất
bại. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm ở một số quốc gia tiêu biểu để có
cái nhìn rõ hơn về thực hiện BHYT toàn dân:
- Cộng hòa liên bang Đức:
Cộng hòa liên bang Đức là quốc gia có hơn 80 triệu dân với mức thu nhập
bình quân (GDP) theo đầu người là 34.400USD năm 2007. Cộng hòa liên bang

Đức là nước đầu tiên ban hành đạo Luật BHYT vào năm 1883. Theo đó, hệ
thống BHYT ra đời với sự tham gia bắt buộc của người làm công ăn lương và
giới chủ, nhằm bảo vệ người lao động, đồng thời giảm thiểu chi phí bồi thường
của giới chủ. Nhà nước giữ vai trò quản lý, giám sát, định hướng hoạt động
BHYT theo luật định.
Đại học Luật Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
Do có hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, BHYT ở Đức phát triển nhanh
chóng. Nếu như những năm đầu tiên nhà nước ban hành Luật BHYT mới chỉ có
5% dân số tham gia BHYT, thì đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX đã có 90% dân số
tham gia BHYT. Theo quy định của pháp luật, hai loại hình BHYT công và
BHYT tư nhân đang tồn tại và phát triển.
Với hai hệ thống BHYT công và BHYT tư nhân thì BHYT Đức đã bao trọn
được hầu hết dân số tham gia. Những đối tượng có thu nhập thấp và thân nhân
gia đình họ, một số đối tượng yếu thế,…được đảm bảo tham gia vào hệ thống
BHYT công. BHYT tư nhân hay chính là BHYT tự nguyện tồn tại song song với
BHYT công và nhắm đến những đối tượng không tham gia BHYT công đặc biệt
là những đối tượng có thu nhập cao, vượt qua ngưỡng nhất định [8].
Nhìn chung BHYT Đức có bề dày kinh nghiệm (đã thực hiện BHYT trên
120 năm) nhưng mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân vẫn được xác định là một
quá trình lâu dài với hai hình thức tham gia là bắt buộc và tự nguyện. Thực tế
cho thấy BHYT bắt buộc hay còn gọi là BHYT công ở Đức đã bao quát được
gần hết dân số (đối tượng chủ yếu của BHYT công là người làm công ăn lương
và thân nhân của họ; người về hưu cũng là đối tượng thực hiện BHYT công theo
luật định), chỉ một số ít tham gia BHYT tư nhân (đối tượng tham gia là tất cả
những đối tượng khác không tham gia vào BHYT công thì tham gia BHYT tự
nguyện). Đức là một quốc gia tiêu biểu trong việc xây dựng hệ thống an sinh
theo trường phái xã hội, chú trọng đến yếu tố bao quát dân chúng do vậy BHYT
ở Đức cũng được đánh giá là một trong các quốc gia có độ bao quát dân chúng

tốt, ổn định và chắc chắn.
- Mỹ:
Mỹ có hơn 300 triệu dân với mức thu nhập theo đầu người đạt 46.000 USD
năm 2007, 47.000USD năm 2009. Công tác chăm sóc sức khỏe ở Mỹ được đánh
giá là có chất lượng cao nhưng người ta phê bình Mỹ thiếu chế độ BHYT thống
nhất, chi phí cho BHYT quá cao và không bao quát được hết mọi người dân.
Theo nghiên cứu của đại học Maine chỉ ra rằng chi phí y tế ở Mỹ đắt đỏ nhất thế
giới (chi phí y tế trên đầu người ở Mỹ là 4178 USD, trong khi đó ở Thụy Sỹ là
2794 USD vào năm 1998). Phòng thống kê trung tâm các dịch vụ Medicare và
Đại học Luật Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
Medicaid công bố số liệu về chi phí y tế của Mỹ năm 2007 là 7439 USD/người
và ngân sách chi phí y tế năm 2007 lên tới 2,26 nghìn tỷ (khoảng 15%GDP)
trong khi đó Canada chỉ khoảng 10% GDP và bình quân chi phí y tế là 3678
USD/ người mà chất lượng dịch vụ y tế ở Mỹ chỉ ngang với Canada. Trong vòng
9 năm, phí đóng BHYT ở Mỹ tăng vọt và tăng nhanh hơn mức lương 4 lần khiến
cho ngày càng nhiều người Mỹ không đủ khả năng trả tiền BHYT. Năm 2008,
chi phí y tế bình quân đầu người trên 7000USD/năm và 46,3 triệu (khoảng 16%
dân số) người dân ở Mỹ, trong đó có khoảng 31 triệu công dân Mỹ không có bảo
hiểm y tế [11]. Hệ thống BHYT ở Mỹ có một đặc điểm là cùng tồn tại song song
BHYT Nhà nước và BHYT tư nhân. Công ty BHYT tư nhân lớn nhất của Mỹ là
ETNA, cứ 6 người dân thì có 1 người tham gia quỹ BHYT này. Trong đó BHYT
tư nhân giữ vai trò chủ đạo, BHYT Nhà nước chỉ giữ vai trò bổ sung. Với hệ
thống chính là Medicare cho người già trên 65 tuổi, quỹ Medicaid cho người
hưởng trợ cấp xã hội, người mù, người tàn tật, phụ nữ có thu nhập thấp và trẻ
em.
Cũng chính vì kết cấu của BHYT Mỹ như vậy nên cũng có những người
không tham gia bất kỳ một chế độ BHYT nào. Đây là những người có thu nhập
thấp và cũng không đủ điều kiện hưởng BHYT Nhà nước. Hiện nay, ở Mỹ đang

có một cải cách như: đơn giản hóa các thủ tục, tăng tiêu chuẩn tài trợ của chủ
thuê mướn và chính quyền. Để khống chế và quản lý chi phí y tế, Mỹ áp dụng
phương thức chi trả theo nhóm chẩn đoán, mang lại hiệu quả cao.
Có thể thấy, mặc dù là một nước có nền kinh tế phát triển lớn mạnh vào
hàng đầu thế giới, người dân có thu nhập cao nhưng BHYT Mỹ vẫn không bao
quát hết toàn bộ dân chúng tham gia BHYT. Bởi lẽ, việc Mỹ lựa chọn và áp
dụng mô hình BHYT tư nhân là hoàn toàn không phù hợp để xây dựng BHYT
toàn dân.
- Hàn Quốc:
Hệ thống BHYT Hàn Quốc tương đối mới và trẻ trên thế giới. Quỹ BHYT
của Hàn Quốc ra đời năm 1963. Tuy nhiên, Hàn Quốc chỉ mất có 26 năm để
thực hiện được mục tiêu BHYT toàn dân. Vào năm 1977, Chính phủ Hàn Quốc
quyết định chuyển sang BHYT bắt buộc toàn dân theo Luật. Sau 13 năm thực
Đại học Luật Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
hiện BHYT tự nguyện không hiệu quả (số người tham gia thấp và không có khả
năng cân đối quỹ). Sau 12 năm, tức là 1989, thì đạt được độ bao phủ toàn dân
với gần 100% người Hàn Quốc có BHYT. Tại thời điểm bắt đầu triển khai
BHYT toàn dân, mức thu nhập bình quân đạt 1500USD/người/năm (năm 2007
là 24600USD/người/năm, dân số là 49 triệu người). Mặc dù thực hiện cơ chế
cùng chi trả nhưng quỹ BHYT Hàn Quốc vẫn lâm vào tình trạng bội chi trong
những năm giữa thập kỷ 90. Do vậy, năm 1997, Hàn Quốc buộc phải nghiên cứu
chuyển đổi phương thức thanh toán theo chi phí dịch vụ sang phương thức thanh
toán theo chẩn đoán [17,22].
Có thể nói, BHYT Hàn Quốc mặc dù ra đời khá muộn nhưng lại rất thành
công khi thực hiện BHYT toàn dân một cách nhanh chóng trong 26 năm. Thực
tế thực hiện BHYT toàn dân ở Hàn Quốc cho thấy, để đạt mục tiêu BHYT toàn
dân ngoài sự phát triển rất nhanh của nền kinh tế Hàn Quốc tạo điều kiện thuận
lợi cho hệ thống BHYT thì việc nhanh chóng chuyển đổi cơ chế từ thực hiện

BHYT tự nguyện sang thực hiện một hình thức duy nhất là BHYT bắt buộc đã
giúp cho BHYT Hàn Quốc nhanh chóng bao phủ được 100% dân số tham gia
BHYT. Đây chính là giải pháp đúng đắn của BHYT Hàn Quốc cho lộ trình thực
hiện BHYT toàn dân sau 13 năm không thành công với loại hình BHYT tự
nguyện.
- Thái Lan:
Thái Lan bắt đầu thực hiện BHYT vào đầu thập kỷ 80, theo cả hai hình
thức bắt buộc và tự nguyện với GDP theo đầu người vào thời điểm này là
khoảng 600USD. BHYT toàn dân được triển khai năm 1996 và đến năm 2001
chương trình BHYT toàn dân được thực hiện thành công. Hệ thống BHYT Thái
Lan là một trong những hệ thống BHYT phức tạp trong khu vực Đông Nam Á.
Để quản lý BHYT có sự tham gia của bốn Bộ: Bộ Tài chính, Bộ Lao động và
Phúc lợi xã hội, Bộ Y tế, Bộ Thương mại. Tuy vậy, chế độ BHYT ở Thái Lan
vẫn được quy định khá rõ ràng, cụ thể. Năm 1997, Thái Lan công bố chiến lược
BHYT toàn dân khi thu nhập bình quân đạt qua con số 2000USD/người/năm
(năm 2007 là 8000USD). Cũng tại thời điểm 1997, số lao động trong nông
nghiệp còn 50% chiếm trong tổng số 36,7 triệu người trong độ tuổi lao động.
Đại học Luật Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
Đối tượng là công chức nhà nước và nhân thân của họ thực chất vẫn hưởng chế
độ bao cấp khám chữa bệnh, được nhà nước thanh toán toàn bộ chi phí khám
chữa bệnh. Ở khu vực này người ta áp dụng phương thức thanh toán theo phí
dịch vụ. Đối tượng tham gia BHYT là người lao động làm công ăn lương trong
các doanh nghiệp từ 10 lao động trở lên ( khoảng 7 triệu người). Còn 40 triệu
dân hưởng chế độ BHYT toàn dân [8,17]. Theo chế độ này mỗi người được cấp
một thể BHYT và mỗi lần đi khám bệnh hoặc phải vào nằm viện đều phải nộp
30baht hay còn gọi là “chương trình 30 baht”. Với “chương trình 30 baht”, Thái
Lan mất 25 năm, sau khi các nhóm đối tượng thuộc phần dân số còn lại được
Chính phủ hỗ trợ tài chính để thực hiện BHYT. Mặc dù, Thái Lan là quốc gia

thực hiện BHYT nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á nhưng hệ thống BHYT
Thái Lan đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do chịu ảnh hưởng của
sự bất ổn về hệ thống chính trị cũng như trong công tác quản lý và thực hiện
BHYT như tình trạng lạm dụng BHYT, chi phí gia tăng, hệ thống quản lý bị
phân tán.
Qua việc tìm hiểu quá trình thực hiện BHYT toàn dân ở các quốc gia trên
chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, về chính sách pháp luật, hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho
mình một kế hoạch thực hiện BHYT toàn dân chi tiết cụ thể. Khi xác định lộ
trình, các nước chuẩn bị các điều kiện, cơ sở vật chất, cơ sở pháp lý tương ứng
đảm bảo cho việc thực hiện lộ trình BHYT toàn dân. Do các nước có điều kiện,
cơ sở kinh tế xã hội không giống nhau mà có thể xác định kế hoạch lộ trình
thực hiện là khác nhau. Lộ trình thực hiện có thể là trong thời gian ngắn hoặc
trong thời gian dài. Đức là nước đầu tiên ban hành Luật BHYT, hệ thống pháp
luật khá hoàn thiện nhưng mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân vẫn được xác
định là một quá trình lâu dài với hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Hàn Quốc
là nước mất có 26 năm để hoàn thành BHYT toàn dân do có điều kiện kinh tế
phát triển, nhanh chóng áp dụng BHYT bắt buộc. Thái Lan là nước thực hiện
thành công BHYT toàn dân trong khoảng thời gian ngắn (năm 1996 áp dụng
năm 2001hoàn thành). Tại thời điểm công bố thực hiện BHYT toàn dân thu
nhập bình quân đầu người của Thái Lan đạt trên 2000USD, chỉ còn 50% số lao
Đại học Luật Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
động nông nghiệp, phần lớn cán bộ công chức và thân nhân của họ được nhà
nước bao cấp KCB chỉ còn 40 triệu người dân hưởng BHYT toàn dân. Như vậy,
do có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà lộ trình thực hiện BHYT toàn dân ở
các nước là khác nhau.
Thứ hai, các nước thực hiện thành công BHYT toàn dân với việc áp dụng
hình thức BHYT bắt buộc là chủ đạo, còn nếu áp dụng BHYT tự nguyện thì

BHYT toàn dân là khó thực hiện nếu có chỉ duy trì được trong một khoảng thời
gian nhất định. BHYT tự nguyện chỉ được coi như một bước đệm tiến tới thực
hiện một hình thức duy nhất là BHYT bắt buộc. Các quốc gia Hàn Quốc, Thái
Lan thực hiện được mục tiêu BHYT toàn dân trong khoảng thời gian ngắn như
vậy là do áp dụng hình thức BHYT bắt buộc. Sau 13 năm thực hiện BHYT tự
nguyện không có hiệu quả (số người tham gia ít, mất cân đối quỹ), Chính phủ
Hàn Quốc quyết định chuyển sang BHYT bắt buộc toàn dân và sau 12 năm đã
thực hiện được BHYT toàn dân. Mặt khác, Mỹ là nước có điều kiện kinh tế phát
triển hàng đầu thế giới áp dụng mô hình BHYT tư nhân nên hiện nay vẫn có số
lượng lớn người dân (16%) không có BHYT. Vậy muốn thực hiện thành công
BHYT toàn dân phải lấy BHYT bắt buộc làm chủ đạo.
Thứ ba, về kinh tế - xã hội, ta có thể thấy các nước Đức, Mỹ, Thái Lan,
Hàn Quốc khi bắt đầu tuyên bố triển khai BHYT toàn dân thì thu nhập bình
quân đầu người là từ 1500USD/người/năm.Với thu nhập ổn định tương đối thì
người dân có điều kiện tham gia BHYT một cách tự nguyện như một nhu cầu
cần thiết, Nhà nước sẽ không phải bỏ ra nhiều kinh phí để tài trợ cho BHYT vì
chính lúc thu nhập của người dân không đáp ứng đủ chi tiêu thì ngân sách nhà
nước cũng không dồi dào để tài trợ cho số lượng lớn người dân. Có thể nói ngân
sách nhà nước sẽ giàu lên khi thu nhập của người dân cao hơn. Hơn nữa, với
nguồn tài chính lớn mạnh thì việc đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ khám chữa
bệnh sẽ phát triển thông qua đó cái nhìn của người dân về BHYT ngày càng tích
cực. Từ đó, họ sẽ tham gia BHYT một cách chủ động. Vì vậy cần phải xác định
thời điểm hợp lý để tiến hành tổ chức toàn dân.
Thứ tư, về vấn đề nhận thức của người dân cũng là một yếu tố quan trọng
trong quá trình thực hiện BHYT toàn dân. Đối với một quốc gia mà ý thức của
Đại học Luật Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
người dân về BHYT là tích cực thì BHYT toàn dân sẽ dễ thực hiện. Bởi khi
người dân nhận thấy những điểm tích cực của BHYT thì họ sẽ dễ dàng chấp

nhận tham gia BHYT còn khi có cái nhìn tiêu cực thì họ sẽ khó chấp nhận tham
gia vào quan hệ BHYT. Như vậy, một quốc gia muốn thực hiện thành công
BHYT toàn dân thì sự ủng hộ của người dân là rất cần thiết. Vì vậy, việc tuyên
truyền vai trò, ý nghĩa của BHYT là bước cần thiết trong lộ trình thực hiện
BHYT toàn dân.
Như vậy, để thực hiện thành công BHYT toàn dân mỗi nước phải biết kết
hợp hài hòa các yếu tố cơ bản trên. Mỗi nước có điều kiện kinh tế xã hội khác
nhau nên tại thời điểm công bố thực hiện BHYT toàn dân thì các yếu tố trên
cũng khác nhau. Do vậy, trong quá trình thực hiện phải xác định lộ trình cụ thể,
lấy BHYT bắt buộc làm chủ đạo, song song với việc phát triển kinh tế và nâng
cao nhận thức của người dân.
Tóm lại, BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội, là loại hình bảo
hiểm do Nhà nước tổ chức nhăm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Nó có ý
nghĩa to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Vì vậy, BHYT toàn dân chính là mục tiêu hướng tới của tất cả các quốc gia. Và
trên thế giới đã có nhiều nước thực hiện thành công BHYT toàn dân như Đức,
Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản,… Sau thành công của một số quốc gia, Việt
Nam đã rút ra được kinh nghiệm cho mục tiêu tiến tới thực hiện BHYT toàn dân
của mình khi ban hành Luật BHYT và xây dựng lộ trình toàn dân vào năm 2014.
Đại học Luật Hà Nội
17
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ BHYT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM
2.1. Quy định về BHYT toàn dân ở Việt Nam
2.1.1. Định hướng BHYT toàn dân ở Việt Nam
Sự phát triển của BHYT gắn liền với những định hướng, quan điểm của
Đảng qua các Nghị quyết, Văn kiện quan trọng, mà khởi đầu là Đại hội VI năm
1986. Thực hiện chủ trương đổi mới trong lĩnh vực y tế, Nghị quyết Đại hội VI
đề ra phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đây là một chủ trương

mới, xóa bỏ bao cấp trong khám chữa bệnh, huy động nguồn lực trong cộng
đồng, cùng với Nhà nước chăm lo, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Thực hiện chủ
trương này, việc thu viện phí bắt đầu được thực hiện theo Quyết định 45/HĐBT
ngày 24/4/1989. Khi đó, liên Bộ Y tế - Tài chính ban hành Thông tư số 14 ngày
15/6/1989 hướng dẫn thực hiện bước đầu đặt vấn đề thử nghiệm triển khai một
cơ chế quản lý mới: “ở những nơi có điều kiện, có thể áp dụng thử chế độ bảo
hiểm sức khỏe”. Kết quả thực hiện thí điểm BHYT được nhân dân đồng tình ủng
hộ. Việc thí điểm BHYT đã tạo ra một tư duy mới trong quản lý y tế bằng biện
pháp kinh tế. Trước những vấn đề cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân thời kỳ đổi mới, xóa bỏ bao cấp, Ban Chấp hành
Trung ương (Khoá VII) ra Nghị quyết số 04/NQ-HNTW ngày 14/1/1993 nêu
nên một định hướng mới: “Tạo nguồn kinh phí để phát triển sự nghiệp y tế, thực
hiện thu một phần viện phí, phát triển BHYT”. Trên tinh thần đó, Nghị quyết số
37/CP ngày 20/6/1996 của Chính phủ về Định hướng Chiến lược công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 1996 - 2000 nêu quan điểm: "Tiếp
tục thực hiện tốt việc thu một phần viện phí và phát triển BHYT để tăng thêm
nguồn tài chính phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân...". Đến Đại hội VIII của
Đảng, chủ trương phát triển BHYT lần đầu tiên được đưa vào Nghị quyết với
định hướng: “Tăng đầu tư của Nhà nước, kết hợp với tạo thêm nguồn kinh phí
khác cho y tế như phát triển bảo hiểm”. Tuy nhiên, phải đến trước thềm Đại hội
IX, sau gần 10 năm tổ chức thực hiện, chính sách BHYT đã đạt được những kết
Đại học Luật Hà Nội
18
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
quả nhất định, quan điểm phát triển BHYT được hình thành rõ nét trong tư duy
của những nhà hoạch định chính sách. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII trình Đại hội IX đã đưa nội dung phát triển BHYT
toàn dân vào trong văn kiện. Dự thảo nêu rõ: “Thực hiện công bằng xã hội trong
chăm sóc sức khỏe; đổi mới cơ chế và chính sách viện phí; có chính sách trợ cấp
và BHYT cho người nghèo, từng bước tiến tới BHYT toàn dân”. Cụm từ “BHYT

toàn dân” chính thức được đề cập trong Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg ngày
19/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 - 2010. Chiến lược nêu rõ: “Mở rộng BHYT
tự nguyện, củng cố quỹ BHYT bắt buộc, tiến tới BHYT bắt buộc toàn dân”.
Đại hội IX của Đảng thành công tốt đẹp, định hướng, quan điểm phát
triển BHYT toàn dân được Nghị quyết Đại hội nâng lên một tầm cao mới:
“Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân”,
điểm mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của BHYT toàn dân.Trước những
vấn đề đặt ra trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
trong tình hình mới, ngày 23/2/2005, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương
khoá IX ra Nghị quyết số 46/NQ-TW với nhận định: “BHYT được hình thành và
bước đầu phát huy tác dụng”. Bộ Chính trị nêu rõ định hướng chỉ đạo: "Phát
triển BHYT toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức
khỏe, thực hiện chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người giầu với người
nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già". Thực hiện Nghị
quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị, ngày 05/10/2005, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 243/2005/QĐ-TTg kèm theo Chương trình hành động
thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình
hình mới. Mục tiêu của Chương trình hành động là cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải
pháp để thực hiện các nội dung của Nghị quyết số 46/NQ-TW, đưa Nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống, tạo bước chuyển biến rõ rệt trong công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống, chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính phủ chỉ rõ nhiệm vụ đổi mới cơ chế
chính sách y tế theo hướng: “Chuyển dần chi thường xuyên ngân sách Nhà nước
Đại học Luật Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
từ hình thức cấp cho các cơ sở khám chữa bệnh sang hỗ trợ trực tiếp cho người
sử dụng dịch vụ. Nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật BHYT. Xây dựng và triển

khai tốt lộ trình tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010”.
Ngày 18/4/2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về
đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao,
tiếp tục thể hiện nhất quán tư tưởng, quan điểm phát triển BHYT: “Đẩy nhanh
tiến độ phát triển BHYT, thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2010”. Đến Đại hội
X của Đảng (từ 18 - 25/4/2006), chủ trương phát triển BHYT toàn dân được
Nghị quyết tiếp tục chỉ rõ: "Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển
mạnh hệ thống BHXH, BHYT, tiến tới BHYT toàn dân". Điểm lại quá trình hình
thành chủ trương đường lối phát triển BHYT của Đảng và Chính phủ cho thấy,
đó là một quá trình vận động không ngừng, gắn liền sự thể nghiệm, đúc rút kinh
nghiệm thực tiễn, xây dựng cơ sở lý luận BHYT phù hợp với sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Như vậy có thể khẳng định “tiến tới BHYT toàn dân” vừa là mục tiêu,
vừa là biện pháp của việc chăm sóc sức khỏe toàn dân. Đạt được mục tiêu này
có nghĩa là mọi người dân sống trên đất nước Việt Nam không phân biệt nghề
nghiệp, tuổi tác, giới tính, giàu nghèo…đều được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
thông qua chế độ BHYT. Mọi người dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng
như nhau trong việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật. Đạt được mục tiêu
này cũng chính là đạt được mục tiêu công bằng, bình đẳng xã hội đối với mọi
người dân trong việc khám chữa bệnh.
Trong suốt thời gian qua và cả giai đoạn sắp tới những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về mục tiêu BHYT toàn dân là hoàn toàn nhất quán và liên
tục, nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả
và phát triển, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe với chất lượng ngày càng cao, phù hợp vơí sự phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước. Tiến tới BHYT toàn dân là bước đi đúng đắn và khoa
học của hệ thống BHYT của Việt Nam. Mặc dù, đã có định hướng về BHYT
toàn dân và đặt ra mục tiêu hoàn thành vào năm 2010 nhưng Việt Nam đã không
thực hiện được vì chúng ta chưa có đáp ứng được điều kiện về kinh tế xã hội và
Đại học Luật Hà Nội

20
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
cơ sở pháp lý vững chắc định hướng cho triển khai thực hiện. Sự ra đời Luật
BHYT năm 2008 đánh dấu bước phát triển, trong đó quy định lộ trình thực hiện
một cách cụ thể cho từng đối tượng nhằm mục tiêu BHYT toàn dân vào năm
2014.
2.1.2. BHYT toàn dân theo quy định hiện hành của Việt Nam
Trong gần 17 năm qua, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật về BHYT, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai chính
sách BHYT, góp phần tích cực tạo nguồn tài chính cho việc bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 4, vào ngày 14-11-2008,
Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật BHYT và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-7-
2009. Nội dung của Luật BHYT đã cơ bản khắc phục được những vướng mắc,
tồn tại trong việc thực hiện chính sách tài chính y tế để từng bước tiến tới mục
tiêu xây dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát
triển. Luật BHYT năm 2008 quy định thực hiện lộ trình BHYT toàn dân với
những nội dung cơ bản về xác định đối tượng, hình thức tham gia và thời điểm
cụ thể cho sự tham gia của từng nhóm đối tượng.
Thứ nhất, về phạm vi đối tượng
Nhằm bao quát toàn bộ dân chúng và phù hợp với tình hình cụ thể Luật
xác định 24 nhóm đối tượng quy định tại Điều 12. Một điểm mới đặc biệt trong
Luật BHYT là quy định về đối tượng tham gia BHYT. Điều 12 Luật BHYT đã
mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHYT bắt buộc lên 24 nhóm đối tượng.
Qua đó mở rộng phạm vi điều tiết của xã hội trong lĩnh vực sức khoẻ, tạo nên
sức mạnh tài chính cho cả cộng đồng chống lại rủi ro, bệnh tật, ốm đau. Căn cứ
vào nhu cầu và khả năng tham gia mà luật BHYT đã đưa ra các nhóm đối tượng
trên. Với mục tiêu hướng tới BHYT toàn dân, dựa vào nhu cầu và khả năng
tham gia của từng nhóm đối tượng Luật hướng tới lộ trình thực hiện mục tiêu
đó. Những đối tượng nào cần và có khả năng tham gia BHYT trước thì lộ trình
thực hiện sẽ sớm hơn những nhóm đối tượng chưa có nhu cầu và chưa có khả

năng tham gia. Nhóm đối tượng là những người có thu nhập tương đối ổn định
nghèo, người được ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ thì lộ trình thực hiện
sơm hơn những đối tượng có thu nhập thấp, không ổn định và không được nhà
Đại học Luật Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
nước hỗ trợ. Việc phân chia các nhóm đối tượng theo nhu cầu và khả năng tham
gia chính là để đưa ra lộ trình thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân.
Thứ hai, về hình thức tham gia
Với mục tiêu BHYT toàn dân, Luật BHYT hướng tới một hình thức duy
nhất là BHYT bắt buộc toàn dân. Sau một thời gian dài thực hiện song song hai
hình thức tham gia BHYT bắt buộc và tự nguyện, số đối tượng tham gia BHYT
ở Việt Nam đã tăng lên nhiều, chiếm tới hơn 50% dân số. Xem xét số liệu tham
gia BHYT bắt buộc từ năm 2003 nếu năm 2003 tổng cộng đối tượng tham gia bắ
buộc là 11.371.968 thì cho đến 6 tháng đầu năm 2007 con số đã lên đến
26.442.016 [16]. Đáng chú ý là đối tượng tham gia bắt buộc thuộc nhóm người
nghèo, người có công, đối tượng trợ giúp xã hội, hưu trí… lại chiếm tỷ lệ cao so
với nhóm đối tượng đang trong độ tuổi lao động, có thu nhập ổn định. chỉ riệng
đối tượng người nghèo chiếm gần 15 triệu người, người có công chiếm 1,4 triệu
người, hưu trí chiếm 2 triệu người. Đa phần đây là nhóm đối tượng có mức đóng
thấp, nguy cơ sử dụng dịch vụ cao do vậy nếu không có những thay đổi về cơ
cấu người tham gia bắt buộc theo hướng tăng cường sự đóng góp của các thành
viên có thu nhập ổn định, trong độ tuổi lao động thì khó có thể đảm bảo tính bền
vững của hệ thống của BHYT. Ở nhóm đối tượng tham gia tự nguyện trước đây,
việc không giới hạn phạm vi tham gia theo văn bản hướng dẫn Nghị định
63/2005/NĐ-CP khiến BHYT tự nguyện có khả năng bao quát đến mọi tầng lớp
dân cư và có ý nghĩa quan trọng trong lộ trình tiến tới thực hiện BHYT toàn dân.
Số lượng đối tượng tham gia BHYT tự nguyện tăng dần tương ứng với những
quy định mở rộng phạm vi đối tượng tham gia, nếu như năm 2002 chúng ta
có4.246 nghìn người tham gia thì cho đến năm 2005 đã tăng gấp đôi và năm

2006 số đối tượng tăng đột biến sau khi Điều lệ BHYT ban hành kèm theo nghị
định 63/2005/NĐ-CP có hiệu lực. Theo báo cáo tổng kết 6 tháng đầu năm 2007
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, số đối tượng tham gia là 10.448 nghìn người
trong đó học sinh, sinh viên chiếm tới 8.096 nghìn người, nhân dân chiếm 2.352
nghìn người.
Với những con số tham gia BHYT bắt buộc và tự nguyện như trên cho
thấy cơ sở quy định BHYT toàn dân đã đến thời điểm chín muồi, Luật BHYT đã
Đại học Luật Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
hoàn thiện một bước về đối tượng tham gia bằng việc xác định một hình thức
tham gia BHYT duy nhất là bắt buộc.
Thứ ba, về lộ trình cụ thể cho từng nhóm đối tượng
Khi xây dựng Luật BHYT có nhiều quan điểm khác nhau về lộ trình thực
hiện BHYT toàn dân. Có quan điểm cho rằng nên quy định bắt buộc toàn dân
ngay, có quan điểm cho rằng nên thực hiện theo lộ trình tư 3-5 năm đảm bảo bao
phủ toàn dân. Luật BHYT đã lựa chọn thực hiện lộ trình theo quan điểm thứ hai
vì các lí do sau:
Một là, theo các công ước của ILO mà WHO thì BHYT được thực hiện
theo 3 nguyên tắc cơ bản: tham gia trên cơ sở bắt buộc, đóng góp theo thu nhập,
quyền lợi hưởng theo bệnh tật, ba nguyên tắc này được coi là kim chỉ nam cho
các nước hoạch định chính sách về BHYT.
Hai là, thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy không một nước nào thực
hiện thành công BHYT toàn dân nếu dựa trên sự tham gia tự nguyện. Theo tổng
kết của WHO trong số hơn 60 nước thực hiện cơ chế tài chính qua BHYT mới
chỉ có 27 nước thực hiện BHYT toàn dân đạt mục tiêu. Như Canada, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Thái lan và các nước Tây Âu… và các nước này đều theo hình thức
BHYT bắt buộc còn BHYT tự nguyện chỉ là hình thức trong thời kì quá độ hoặc
hình thức BHYT bổ sung để hưởng các quyền lợi cao hơn.
Ba là, chỉ có BHYT bắt buộc toàn dân mới đảm bảo được sự điều tiết,

chia sẻ rủi ro bệnh tật theo cả chiều ngang (thời điểm) và chiều dọc (thời kỳ)-
người tham gia BHYT sẽ phải đóng góp ngay từ khi còn trẻ khỏe để bản thân họ
nhận được những khoản chi phí rất cao khi ốm đau lúc tuổi già. Đồng thời ngăn
cản hiện tượng lựa chọn ngược trong BHYT. Từ đó, đảm bảo cho sự tồn tại của
quỹ BHYT.
Bốn là, điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay chưa thể thực hiện
ngay BHYT bắt buộc toàn dân. Theo kinh nghiệm của một số quốc gia để thực
hiện BHYT toàn dân một cách thực sự thì GDP bình quân đầu người thường
phải đạt từ 1500 USD/người/năm; trong khi GDP bình quân đầu người của Việt
Nam năm 2008 là 1000USD/người/năm, năm 2009 khoảng 1100USD. Quốc hội
khoá XII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Nghị quyết về các chỉ tiêu kinh tế năm
Đại học Luật Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
2010 trong đó thu nhập bình quân đầu người là 1200USD/người/năm. Như vậy
về mặt tài chính, chỉ số GDP như hiện nay thì sự đóng góp từ thu nhập của
người dân cùng với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cũng chưa đủ để thực hiện
BHYT toàn dân ở Việt Nam. Mặt khác, khả năng tổ chức thực hiện của Nhà
nước và khám chữa bệnh của hệ thống y tế chưa thể đáp ứng ngay được khối
lượng tăng đột biến nếu toàn dân tham gia BHYT, bởi vì, cơ sở hạ tầng cũng
như đội ngũ cán bộ của ta còn nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên
cạnh đó, nhận thức về BHYT của người dân chưa đầy đủ, ý thức tuân thủ pháp
luật chưa cao. Thực trạng kinh tế xã hội nêu trên, không dễ giải quyết một sớm
một chiều mà cần có thời gian và kinh phí. Nếu quy định ngay việc tham gia
BHYT bắt buộc toàn dân thì sẽ không đảm bảo được tính khả thi của Luật.
Năm là, các nhóm đối tượng có đặc thù riêng nên tham gia BHYT của
mỗi nhóm là không giống nhau. Vì vậy, không thể bổ sung cùng một lúc tất cả
các nhóm đối tượng còn thiếu mà phải có lộ trình. Căn cứ vào tình hình kinh tế
xã hội, nhóm đối tượng nào có khả năng tham gia BHYT trước thì áp dụng lộ
trình sớm hơn. Có như vậy, mục tiêu BHYT toàn dân mới nhanh chóng đạt

được.
Từ những luận cứ lý luận và thực tiễn đó, việc thực hiện BHYT toàn dân
đã được thể chế trong Luật BHYT bằng lộ trình với từng nhóm đối tượng. Theo
quy định tại Điều 12 Luật BHYT hiện hành phạm vi đối tượng tham gia bao
gồm 24 nhóm đối tượng nhằm bao trọn toàn bộ dân chúng. Bên cạnh những đối
tượng có tính “truyền thống” (những đối tượng thuộc diện tham gia bắt buộc
như người lao động theo hợp đồng, công chức viên chức nhà nước, lực lượng vũ
trang, đối tượng chính sách...) Luật bổ sung các nhóm đối tượng với lộ trình bắt
buộc vào các thời điểm khác nhau:
- Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kĩ thuật
đang công tác trong lực lượng công an nhân dân; người đang hưởng trợ cấp thất
nghiệp; người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống
tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; thân nhân của
người có công với cách mạng; trẻ em dưới 6 tuổi; người đã hiến bộ phận cơ thể
người theo quy định của pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người
Đại học Luật Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Bích - KT31D
và hiến, lấy xác. Những nhóm đối tượng trên sẽ thực hiện bảo hiểm y tế bắt
buộc từ ngày luật bảo hiểm y tế có hiệu lực thi hành là ngày 01/07/2009.
- Học sinh, sinh viên. Đây là đối tượng “tiềm năng” thực hiện bảo hiểm y
tế bắt buộc cho đối tượng này đã giúp cho khoảng 1/3 dân số có bảo hiểm y tế.
Lộ trình thực hiện của đối tượng này là thời điểm 01/01/2010 .
- Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
diêm nghiệp. Hiện nay nông dân chiếm khoảng 56% dân số cả nước, trong đó có
khoảng gần 60% đã được nhà nước mua BHYT dưới nhiều hình thức như: người
nghèo, người có công, đối tượng trợ giúp xã hội…Thực tiễn nhiều năm thực
hiện BHYT cho thấy khó khăn nhất vẫn là BHYT cho nông dân. Theo Luật
BHYT nông dân sẽ là đối tượng bắt buộc từ ngày 01/01/2012.
- Thân nhân của người lao động quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật

BHYT mà người lao động có trách nhiệm nuôi dưỡng và sống trong cùng hộ gia
đình; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể. Những đối tượng này sẽ thực
hiện BHYT bắt buộc từ ngày 01/01/2014 .
Đảm bảo tính khả thi cho việc thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân và quyền
lợi của đối tượng tham gia, khoản 3 điều 50 luật BHYT những đối tượng nêu
trên khi chưa thực hiện BHYT bắt buộc theo lộ trình thì có quyền tự nguyện
tham gia theo quy định của Chính phủ. Còn những đối tượng mà trước đây quy
định áp dụng bắt buộc thì nay vẫn tiếp tục thực hiện. Ngoài ra, theo khoản 3
Điều 50 của Luật, đối tượng tham gia BHYT còn bao gồm “các đối tượng khác
theo quy định của Chính phủ”. Đây là một quy định mở sẽ kịp thời bổ sung đối
tượng tham gia BHYT trong trường hợp Luật BHYT chưa quy định đầy đủ lộ
trình thực hiện BHYT của những đối tượng này sẽ do Chính phủ quy định.
Nhưng chậm nhất là ngày 01/01/2014 theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 51
Luật BHYT.
Cùng với việc xác định lộ trình, Luật BHYT cũng đảm bảo tính khả thi
bằng việc xác định sự an toàn tài chính, đảm bảo cân đối thu chi, nâng cao chất
lượng KCB. Vì vậy cũng quy định mức đóng góp của người dân với giới hạn tối
đa là 6% tiền lương, tiền công tháng, tiền lương hưu, trợ cấp BHXH hoặc mức
lương tối thiểu chung. Trong điều kiện cụ thể xác định mức đóng sao cho phù
Đại học Luật Hà Nội
25

×