Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Chủ thể của luật quốc tế - những vấn đề lí luận chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.4 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh quan hệ phát
sinh giữa các quốc gia ở những cấp độ và khuôn khổ hợp tác khác nhau. Khác với các chủ
thể thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia, các chủ thể của luật quốc tế không
xuất hiện tại cùng một thời điểm với nhau. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế,
do tính chất quyền năng chủ thể khác nhau nên vai trò của các chủ thể luật quốc tế cũng
khác nhau. Theo lý thuyết thì những chủ thể của luật quốc tế là quốc gia, tổ chức liên chính
phủ, dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết và một số chủ thể đặc biệt như Tòa thánh
Vantican, Hong Kong, Đài Loan. Tuy nhiên trong thực tiễn đời sống quốc tế cá nhân cũng
có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật nhất định, do vậy mới xuất hiện những quan
điểm mới về chủ thể của luật quốc tế bao gồm cả cá nhân. Các quan điểm hiện nay vẫn còn
gây nhiều tranh cãi song vẫn có quan điểm chiếm được đa số sự đồng tình. Bài viết dưới
đây sẽ tìm hiểu rõ hơn và chứng minh cho những quan điểm đó.
NỘI DUNG
1. Chủ thể của luật quốc tế - những vấn đề lí luận chung.
Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật của riêng mình, còn quan hệ của cộng đồng
các quốc gia lại được điều chỉnh bởi hệ thống luật chung là luật quốc tế. Quá trình hình
thành và phát triển của luật quốc tế gắn liền với sự phát triển chung của nhà nước và pháp
luật nhưng xét về thời điểm lịch sử thì luật quốc tế hình thành muộn hơn so với luật quốc
gia. Hệ thống quốc tế được tạo bởi nhiều yếu tố như các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên
quốc gia, các thực thể quốc tế khác (và các thiết chế quốc tế của những tổ chức này), luật
quốc tế và các quy phạm khác của hệ thống quốc tế. Về định nghĩa về chủ thể của Luật
Quốc tế thì không có văn bản nào chứng minh nhưng để có quan niệm đúng đắn về các
loại chủ thể của Luật Quốc tế thì cần phải phân tích dưới góc độ lý luận các dấu hiệu cơ
bản của chủ thể Luật Quốc tế như sau:
- Có sự tham gia một cách độc lập vào các quan hệ do Luật Quốc tế điều chỉnh không
phụ thuộc vào ý chí của chủ thể khác.
- Có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác.
1
- Có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi
của mình gây ra.


1
Như vậy, chủ thể của Luật Quốc tế có những đặc điểm sau: năng lực pháp luật,
năng lực hành vi pháp luật và năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực pháp luật là khả năng
của chủ thể luật quốc tế có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Năng lực hành vi
pháp luật thể hiện qua sự thực hiện có ý thức các quyền và nghĩa vụ của chủ thể luật quốc
tế. Chủ thể của luật quốc tế có năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp
luật quốc tế của mình. Từ những đặc điểm trên có thể khái quát định nghĩa chủ thể Luật
Quốc tế là thực thể đang tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy
đủ quyền, nghĩa vụ quốc tế và có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do
chính hành vi của chủ thể gây ra. Và dựa vào các dấu hiệu trên có thể xác định chủ thể của
Luật Quốc tế bao gồm: Quốc gia, dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết, tổ chức
quốc tế liên chính phủ và một số chủ thể đặc biệt khác như Tòa thánh Vantican, vùng
lãnh thổ.
2
2. Phân tích một số quan điểm khác nhau về chủ thể của Luật Quốc tế.
L.Oppenhame từ năm 1947 đã để ý rằng: “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc
tế là quốc gia nhưng nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ sở hữu các quyền và nghĩa
vụ quốc tế và trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế ”.
3
Ông đã làm rõ ý kiến của mình bằng ví dụ: Những cá nhân làm nghề cướp biển trước hết
chịu trách nhiệm pháp lý theo những quy tắc của luật quốc tế, chứ không phải nội luật của
nhiều quốc gia khác nhau. Đây là một quan điểm được coi là hiện đại vì quan điểm mới
xuất hiện giữa thế kỉ XX, tuy nhiên tác giả lại đưa ra dẫn chứng sơ sài và chưa có tính
thuyết phục. Quan điểm cũng đã công nhận chủ thể chính của luật quốc tế là quốc gia
nhưng tác giả lại cho rằng các cá nhân trong quốc gia đó lại được sở hữu các quyền và
nghĩa vụ quốc tế nên cá nhân cũng là một chủ thể. Kết luận về việc cá nhân trong quốc gia
được sở hữu các quyền và nghĩa vụ quốc tế là không có cơ sở bởi các Công ước hay Tuyên
ngôn về bảo vệ quyền con người được ký kết giữa các quốc gia với nhau. “Vì vậy những
1
Giáo trình luật quốc tế - ThS.Nguyễn Thị Kim Ngân – ThS. Chu Mạnh Hùng, tr 72.

2
Giáo trình luật quốc tế - ThS.Nguyễn Thị Kim Ngân – ThS. Chu Mạnh Hùng, tr 72.
3
Oppenhame L.Luật quốc tế T.I.M. 1893. tr 259 ( Cá nhân – Chủ thể của Luật Quốc tế -
thongtinphapluatdansu.wordpress.com – Nguyễn Đức Lam ).
2
quyền và nghĩa vụ cụ thể được phát sinh ra từ những Công ước này là dành cho nhà nước
chứ không cho từng cá nhân. Cá nhân được quốc gia bảo trợ, và những qui tắc của luật
quốc tế về quyền và bảo vệ quyền con người được thực hiện chủ yếu qua hoạt động của
quốc gia”
4
. Ví dụ trong phần lời mở đầu của hầu hết các Công ước, Tuyên ngôn đều có
câu: “ Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp Quốc, phấn đấu thúc đẩy
sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người ”
5
.
Như vậy, chỉ có quốc gia mới đảm bảo cho các quyền của cá nhân được phát huy tối đa, đó
là những quyền lợi dành cho cá nhân mà quốc gia hướng tới chứ cá nhân không thể dựa vào
những quyền lợi đó mà có thể sở hữu những quyền và nghĩa vụ quốc tế được. Nếu có phản
biện cho rằng kể cả quốc gia có đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho cá nhân nhưng chính cá
nhân mới là người trực tiếp phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó giống như ví dụ mà
tác giả đã đưa ra những cá nhân làm nghề cướp biển phải chịu trách nhiệm pháp lý theo
những quy tắc của luật quốc tế nhưng thẩm quyền xét xử những đối tượng này lại thuộc sự
cho phép của các quốc gia, không phải Tòa án nào cũng có thể xử được. Trường hợp này
cũng tương tự đối với Tòa Hình sự Quốc tế (ICC) là một tòa án thường trực để truy tố các
cá nhân phạm tội ác diệt chủng, tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh, và tội ác
xâm lược.
6
Tuy nhiên theo Điều 6 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm
1948 quy định: “Những kẻ phạm tội diệt chủng sẽ bị một tòa án có thẩm quyền của quốc

gia nơi hành vi phạm tội được thực hiện xét xử hoặc một tòa hình sự quốc tế có thể phán
quyết trên cơ sở các quốc gia thành viên sẽ chấp nhận thẩm quyền của Tòa án Quốc tế
đó”. Với quy định này có thể thấy, một cá nhân phạm tội diệt chủng, tùy thuộc vào ý chí
của quốc gia, có thể bị xét xử bởi một tòa án của quốc gia hoặc xét xử bởi một Tòa án
Quốc tế do quốc gia thỏa thuận thành lập, bởi cá nhân đó không có ý chí độc lập khi tham
gia quan hệ. Quá trình thực thể này tham gia quan hệ quốc tế phụ thuộc vào ý chí quốc
gia.
7

4
4
Shurshaloff V.M.Quan hệ pháp lý quốc tế. M. 1971. tr 77.
5
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ( LHQ – 10/12/1948).
6
.
7
Giáo trình luật quốc tế - ThS.Nguyễn Thị Kim Ngân – ThS. Chu Mạnh Hùng, tr 72,73.
3
Một số quan điểm khác đưa ra là cá nhân có thể tham gia một số quan hệ quốc tế
nhất định và cá nhân là chủ thể của luật quốc tế. Ví dụ một số quan hệ quốc tế mà cá nhân
tham gia các tác giả đưa ra như sau: cá nhân bị xâm hại về nhân quyền có quyền kiện ra
Tòa án nhân quyền Châu Âu ( Tòa án Nhân quyền châu Âu (tiếng Anh: European Court of
Human Rights, trụ sở tại Strasbourg, (Pháp) là một tòa án siêu quốc gia, được lập ra bởi
Công ước châu Âu về Nhân quyền, một cấp tòa cuối cùng mà một người có thể cầu cứu khi
cảm thấy nhân quyền của mình bị một nước ký kết Công ước châu Âu về Nhân quyền vi
phạm ). Bất cứ ai cảm thấy nhân quyền của mình bị xâm phạm bởi các nước ký kết Công
ước đều có thể đưa vụ việc ra tòa án nói trên. Các phán quyết về những vi phạm nhân
quyền buộc các nước liên quan phải có nghĩa vụ thi hành.
8


Điều này có nghĩa là các cá
nhân có quyền kiện còn các quốc gia tham gia Công ước phải thi hành các phán quyết của
Tòa án đó. Như vậy, những quyền và nghĩa vụ của cá nhân tồn tại trong Công ước đó với ý
nghĩa là khách thể của các quan hệ pháp luật Công ước quốc tế về quyền con người, hình
thành từ sự hợp tác giữa các quốc gia.
9
Quyền và nghĩa vụ của các cá nhân là đối tượng
mà các quốc gia hướng tới để bảo đảm nên quyền và nghĩa vụ của cá nhân không độc lập
với cá nhân mà gắn với ý chí của quốc gia. Do vậy, chủ thể của quan hệ quốc tế không thể
là cá nhân mà cá nhân chỉ tham gia một số quan hệ quốc tế nhất định.
3. Cá nhân không là chủ thể của Luật quốc tế.
Sau khi phân tích về một quan điểm (như đã trình bày ở phần các quan điểm) và
trên các cơ sở về lý luận, pháp lý, thực tiễn về Luật Quốc tế ở Việt Nam hiện nay, em
nghiêng về quan điểm không nên xem cá nhân là chủ thể của Công pháp Quốc tế bởi
những minh chứng sau đây:
3.1. Về đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế:
Hiện nay, Luật Quốc tế điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc
8
.
9
Giáo trình Luật Quốc tế - Trường ĐH Luật HN, tr 59.
gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu và quan trọng
nhất vẫn là chính trị. Do Luật Quốc tế là hệ thống luật công nên Luật Quốc tế điều chỉnh
4
các vấn đề chung nhất, phổ biển nhất giữa các quốc gia. Trong khi đó, các quan hệ mà cá
nhân tham gia lại chủ yếu là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) - phi chính trị và thuộc sự
điều chỉnh của hệ thống luật tư ( Tư pháp Quốc tế ). Nếu xem Tư pháp Quốc tế là bộ phận
của Luật Quốc tế thì cá nhân cũng là chủ thể của Luật Quốc tế. Đây cũng là một trong các
lý do chủ yếu dẫn đến sự khác biệt về quan điểm của các quốc gia trên thế giới về việc công

nhận hay không công nhận cá nhân là chủ thể của Luật Quốc tế. Một số quốc gia cho rằng
cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế vì quốc gia đó đang hiểu khái niệm Luật
Quốc tế theo nghĩa rộng hơn, tức là bao hàm cả Công và Tư pháp Quốc tế trong khi Luật
Quốc tế chỉ có hàm nghĩa là Công pháp quốc tế.
Vì thế có thể suy ra rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia với các quan
hệ mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau.
3.2. Về các đặc điểm cơ bản để xác định một thực thể là chủ thể của Luật Quốc
tế:
Ta có khái niệm về chủ thể của Luật Quốc tế: “ Chủ thể của Luật Quốc tế là
những thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế một
cách độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quốc tế cũng như thực hiện một cách độc
lập các quyền và nghĩa vụ quốc tế đó trên cơ sở các quy phạm Luật Quốc tế ”.
Theo như khái niệm trên, có thể rút ra được các dấu hiệu cơ bản của chủ thể
Luật Quốc tế và theo quan điểm của em thì cá nhân không đáp ứng được các dấu hiệu cơ
bản sau đây để trở thảnh chủ thể của Luật Quốc tế:
Thứ nhất, thực thể đang và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế.
Một số các tác giả đã viện dẫn các Điều ước Quốc tế về quyền con người (ví dụ
như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948), về vị thế pháp lý của một số nhóm cá nhân
trong Luật Quốc tế (Công ước Quốc tế về quyền của người tị nạn 1951), hay quyền của cá
nhân được thỉnh cầu lên các Tòa án Quốc tế (Điều 190 Công ước Quốc tế về Luật Biển
1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được
xét xử tại Toà án Quốc tế về biển), khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế ( ví dụ
như Điều lệ Tòa án binh quốc tế 1945, Công ước Quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác
diệt chủng 1948...).
5

×