SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN, VĂN
HỌC TRUNG ĐẠI Ở TRƯỜNG THPT"
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận là thể loại văn: “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực
đời sống khác nhau: chính trị, triết học, kinh tế, văn hoá…Mục đích của văn nghị luận là
bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó
nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định…Đặc trưng
cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết - khác với văn học nghệ thuật, văn
chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý
lẽ…” (Từ điển thuật ngữ Văn học - NXB Đại học Quốc Gia, 4/1999)
Trên thế giới và Việt Nam văn chương nghị luận có lịch sử từ rất lâu đời, nó không chỉ
có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước, thời đại như công cuộc giữ nước,
dựng nước, canh tân đất nước mà cũng rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống con
người. Đã có rất nhiều áng văn trở thành mẫu mực, bất hủ của từng dân tộc và trên toàn
thế giới.
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho rằng văn chương
chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ đến văn nghị luận.
Hoặc có nghĩ đến thì lại cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến những tư tưởng cao
siêu, trừu tượng, lập luận khô, diễn đạt khó nên không hấp dẫn. Do vậy văn nghị luận rất
ít được đưa vào chương trình phổ thông, có chăng chỉ một vài tác phẩm nghị luận trung
đại (Sông núi nước Nam, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo) và hiện đại (Tuyên ngôn độc
lập) ở cả hai cấp học (theo quan điểm đồng tâm mở rộng).
2
Hiện nay do thấy được vai trò quan trọng của văn nghị luận. Nên các nhà nghiên cứu
và biên soạn sách đã tuyển chọn một số văn bản nghị luận hay, có giá trị vào dạy trong
chương trình phổ thông với nhiều thể loại và đa dạng về đề tài…. đặc biệt là trong
chương trình Ngữ văn bậc THPT.
Đối với bản thân, do thấy được những giá trị to lớn của văn nghị luận, đặc biệt là văn
nghị luận trung đại trong thực tế đời sống cũng như trong quá trình giảng dạy. Chính vì
vậy tôi quyết định chọ vấn đề này để nghiên cứu và áp dụng
2. Mục đích nghiên cứu
- Khi thực hiện đề tài này, mục đích tôi đặt ra là để tìm một hướng tiếp cận đơn giản, dễ
hiểu nhưng sâu sắc, cuốn hút đối với giáo viên trong giảng dạy và với học sinh trong quá
trình các em lĩnh hội, tiếp thu kiến thức. Biến giờ dạy những tác phẩm nghị luận trung đại
khô khan thành những giờ dạy văn hấp dẫn nhưng rất thực tế, sinh động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các tác phẩm văn nghị luận trung đại trong chương trình THPT.
- Các loại tài liệu tham khảo có liên quan tới phần văn nghị luận trung đại
-
Đối tượng sử dụng đề tài:
Các em học sinh lớp 11A6 và 11A9 năn học 2010 - 2011; lớp
10A9, 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Bá Thước năm học 2011 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng kết kinh nghiệm
- Nghiên cứu tài liệu: các loại sách tham khảo, tài liệu tham khảo về văn nghị luận trung
đại, phương pháp dạy văn nghị luận ở trường THPT.
- Xác định đối tượng học sinh áp dụng đề tài
3
- Kiểm tra sự tiếp thu của học sinh bằng bài tập về nhà và các đề ôn tập.
- Đánh giá, đưa ra sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần 1: Cơ sở lí luận
4
Văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời sống xã hội của
con người, có vai trò rèn luyện tư duy lôgic, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư tưởng
sâu sắc trước đời sống.
Văn chương trung đại là phần đã được đánh giá ổn định. Đó là những tác phẩm tiêu
biểu có giá trị nhất trong lịch sử giữ nước, dựng nước thời phong kiến. Nó là “tiếng của
cha ông thuở trước”, góp phần xứng đáng làm nên và hun đúc những truyền thống quý
báu của dân tộc. Nó là quyền tự hào chính đáng của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Sách Ngữ văn 10 và Ngữ văn 11, phần văn học trung đại đã tăng một số lượng đáng kể
những văn bản nghị luận. Coi trọng đúng mức những tác phẩm văn học chính luận,
những tác phẩm có màu sắc học thuật để tăng cường, tô đậm bản chất văn hoá của văn
học.
Đưa thêm văn nghị luận, tăng cường bản chất văn hoá của văn học là để giúp học sinh
vận dụng văn học vào cuộc sống. Văn nghị luận gắn với học sinh giúp các em về phương
pháp tư duy, cách lập luận đến cách viết bài văn nghị luận…
Phần 2: Thực trạng của vấn đề
2.1. Thực trạng chung:
Về cơ bản văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lôgíc. Nhưng vẻ đẹp của một áng
văn nghị luận không chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc mà còn ở hình thức
lập luận phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết phục. Hiện nay mặc dù
những tác phẩm văn nghị luận trung đại đưa vào chương trình học đều là những tác phẩm
có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, nhưng thực tế trong quá trình giảng dạy cả giáo
viên và học sinh mới chỉ đi đúng, hiểu đúng những quan điểm tư tưởng của tác giả (chú ý
khai thác nội dung) mà chưa chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của các tác phẩm.
5
Vì thế việc dạy các tác phẩm nghị luận, đặc biệt là nghị luận xã hội thường khó, không
mấy hấp dẫn đối với cả giáo viên và học sinh.
2.2. Thực trạng đối với giáo viên:
- Thực tế cho thấy, không ít giáo viên có tâm lí không mặn mà, ít hứng thú khi dạy văn
bản nghị luận. Nhiều giáo viên cho rằng văn bản nghị luận khô khan, khó cảm nhận, khó
truyền được hứng thú cho học sinh. Do đó, dẫn đến việc dạy sơ sài, thiếu tìm hiểu sâu,
thiếu đầu tư cho tiết dạy này. Với thực tế đó, hiệu quả giờ dạy văn bản nghị luận khó đạt
được như yêu cầu đặt ra.
- Khi thực hiện chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới, nhiều đồng chí giáo viên còn
cảm thấy lúng túng về phương pháp dạy đọc - hiểu một số văn bản nghị luận trung đại vì
có nhiều bỡ ngỡ khi gặp một số thể loại mới như : chiếu, văn bia, tựa, thư, cáo…với
nhiều tác phẩm khác nhau về thời điểm ra đời, khác nhau về loại hình văn hoá. Nhưng
những tác phẩm ấy đều có sức hấp dẫn đặc biệt bởi tính trí tuệ uyên bác và tình cảm sâu
sắc của người cầm bút. Để vừa dạy đúng, lại vừa hay, biến những tác phẩm nghị luận
thiên về lý lẽ, lập luận trở thành một văn bản văn học lôi cuốn, hấp dẫn học sinh là một
điều không phải dễ đối với nhiều giáo viên. Vì vậy, việc tìm ra những biện pháp tích cực
phục vụ cho quá trình giảng dạy các tác phẩm nghị luận trung đại là điều vô cùng cần
thiết.
2.3. Thực trạng đối với học sinh:
Về phía học sinh, do chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá các tác phẩm;
bởi việc đọc - hiểu văn bản văn học trung đại đã khó thì việc đọc - hiểu một văn bản nghị
luận trung đại càng khó hơn. Vì trong văn bản nghị luận trung đại, tư tưởng của tác giả
khó nắm bắt bởi cách viết hàn lâm, với hệ thống điển tích, điển cố dày đặc Điều đó,
càng đọc học sinh càng không hiểu bởi vốn kiến thức hạn chế, từ ngữ “xa lạ”.
6
Đặc biệt là khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh hiện nay rất yếu, nhiều
em khi viết bài văn tỏ ra rất lúng túng, thậm chí chưa xác lập được một hệ thống luận
điểm, luận cứ một cách rõ ràng và xác đáng, biến bài văn của mình thành một “rừng
văn”, “bè văn”. Trong khi những bài văn nghị luận trung đại trong sách giáo khoa Ngữ
văn có thể coi là những bài văn nghị luận mẫu mực trong cách lập luận. Việc dạy đọc -
hiểu tốt các văn bản nghị luận trung đại sẽ góp phần rất lớn vào việc rèn luyện và nâng
cao kĩ năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh, giúp học sinh có hứng thú học tập
và tác phẩm sẽ không còn bị đóng băng trong lớp sương nghệ thuật trung đại.
Phần 3: Giải pháp và tổ chức thực hiện:
3.1. Giải pháp:
- Văn nghị luận trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá - xã hội phong kiến chịu sự chi
phối bởi hệ tư tưởng chính thống cũng như quan niệm văn chương của thời đại. Trong
quá trình dạy học, giáo viên một mặt phải tôn trọng tính chỉnh thể của văn bản, bám sát
văn bản để hướng dẫn học sinh đọc – hiểu, mặt khác để hiểu thấu đáo các luận điểm và
cách thức lập luận của tác giả trung đại, giáo viên phải trau dồi tri thức văn hoá đọc cho
bản thân và hướng dẫn cho học sinh cách đọc tác phẩm của tiền nhân đúng với thi pháp
của một thời đại, phù hợp với ngữ cảnh sản sinh văn bản. Do đó, phương pháp dạy tích
hợp trở thành nguyên tắc quan trọng không thể thiếu.
Để dạy - đọc hiểu các văn bản nghị luận trung đại theo hướng tích hợp, tôi đã làm như
sau :
a. Xác định trọng tâm kiến thức cần đạt trong bài dạy.
b. Xác định đặc điểm nổi bật của thể loại.
7
c. Xác định nội dung kiến thức cần tích hợp (Xác định kiến thức của bài có liên quan đến
bài nào học sinh đó học và sắp học).
d. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp.
- Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của các văn bản nghị luận là hệ thống luận điểm, luận cứ
hết sức rõ ràng, mạch lạc, lập luận rất chặt chẽ thế nhưng khi đọc xong văn bản, học rất
mơ hồ về điều này. Vậy khi dạy, chúng ta phải làm thế nào để khắc phục được hiện tượng
trên? Theo tôi giải pháp là sử dụng sơ đồ hoá nội dung bài học theo cấu trúc tầng bậc.
Làm như vậy, vừa khái quát hoá nội dung bài học một cách ngắn gọn, khoa học vừa
khiến cho học sinh dễ nhớ, khắc sâu được kiến thức.
- Các văn bản nghị luận trung đại thường mang đặc điểm của văn học trung đại: sử dụng
điển tích, điển cố, ngôn từ mang tính ước lệ, tượng trưng, hệ thống từ Hán Việt xuất hiện
dày đặc. Học sinh sẽ rất khó khăn khi đọc hiểu văn bản nếu không hiểu được các điển
tích, điển cố và những từ khó mà tác giả đó sử dụng. Do vậy khi dạy đọc - hiểu các văn
bản nghị luận trung đại, cần yêu cầu và hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu phần chú
thích ở cuối mỗi trang của văn bản.
3.2. Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại theo hướng tích hợp
3.2.1.1. Thế nào là dạy đọc - hiểu theo hướng tích hợp?
- Tích hợp ngang:
Tích hợp theo cả ba phần Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một đơn vị bài học.
- Tích hợp dọc:
Tích hợp theo từng vấn đề – vấn đề đang dạy ở phần này có liên hệ đến các nội dung
khác để dạy hoặc sẽ dạy ở hai phần kia hoặc vấn đề đó trong cả một giai đoạn văn học.
8
3.2.1.2. Vận dụng nguyên tắc dạy đọc – hiểu tích hợp vào một số văn bản nghị luận
trung đại.
*/ Vì nghệ thuật đặc sắc nhất của các văn bản nghị luận chính là hệ thống luận điểm,
luận cứ rõ ràng, mạch lạc và cách lập luận chặt chẽ nên khi dạy đọc - hiểu các văn bản
nghị luận trung đại, tôi đặc biệt chú trọng tới việc tích hợp với phân môn Làm văn. Từ đó
nhằm củng cố, rèn luyện và nâng cao khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh
- Điều này trước hết được thể hiện ở việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu bố cục của văn
bản nghị luận trung đại.
Nếu trong các loại văn bản khác ta thường hỏi: “Sau khi tìm hiểu văn bản, em thấy văn
bản có thể chia làm mấy phần? Nội dung của từng phần?” thì đối với các văn bản nghị
luận không nên hỏi như vậy vì không khai thác được đặc điểm nổi bật của thể loại nghị
luận. Vậy giáo viên phải đặt câu hỏi như thế nào đây?
Khi dạy văn bản: “Trích diễm thi tập” của tác giả Hoàng Đức Lương, tôi đặt câu hỏi
như sau: Theo em, văn bản “Trích diễm thi tập” gồm mấy luận điểm? Đó là những luận
điểm nào?
Có thể lúc đầu học sinh còn bỡ ngỡ trước cách hỏi như vậy nhưng nếu giáo viên có sự
gợi dẫn tốt và thường xuyên sử dụng kiểu câu hỏi như vậy khi dạy đọc hiểu các văn bản
nghị luận thì các em sẽ trả lời được.
- Việc tích hợp với phân môn Làm văn còn thể hiện ở bước hướng dẫn học sinh đọc hiểu
chi tiết văn bản.
+ Để làm được điều này khi dạy văn bản “Trích diễm thi tập”, tôi sử dụng một hệ thống
câu hỏi sau:
• Câu hỏi 1: Theo em, vấn đề nêu ra ở luận điểm một là gì?
9
Sau khi học trả lời : “Vấn đề mà tác giả Hoàng Đức Lương nêu ra ở luận điểm một là:
Những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời”, ta sẽ đưa ra tiếp các
câu hỏi sau:
• Câu hỏi 2: Ở luận điểm một, tác giả Hoàng Đức Lương đã đưa ra những lí do nào
khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời ?
(Với câu hỏi này, giáo viên đã giúp học sinh phát hiện được: ở luận điểm một tác giả đã
nêu ra sáu lí do làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời.
* Bốn lí do chủ quan:
+ Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca.
+ Người có học thì ít để ý đến thơ ca.
+ Người quan tâm đến thơ ca thì không đủ năng lực và kiên trì.
+ Chính sách in ấn của nhà nước còn hạn chế.
* Hai lí do khách quan:
+ Thời gian làm huỷ hoại sách vở.
+ Chiến tranh, hoả hoạn làm sách vở rách nát, mai một.)
• Câu hỏi 3: Từ việc tìm hiểu các lí do trên, em thấy tác giả chọn cách lập luận nào
để luận chứng?
(Tác giả phân tích những luận cứ cụ thể về các mặt khác nhau để lí giải bản chất của hiện
tượng, vấn đề.)
• Câu hỏi 4: Tại sao tác giả không bắt đầu bài tựa bằng cách trình bày những công
việc sưu tầm của mình mà lại giải quyết trước luận điểm: Nguyên nhân làm cho thơ văn
không lưu truyền hết ở đời?
10
(Câu hỏi này giúp học sinh nhận ra rằng: Sở dĩ tác giả mở đầu bằng luận điểm trên vì hai
lí do:
- Đó chính là luận điểm quan trọng nhất của bài tựa.
- Bởi ông muốn nhấn mạnh việc làm sưu tầm, biên soạn cuốn sách là xuất phát từ
yêu cầu cấp thiết của thực tế chứ không chỉ từ sở thích cá nhân và đó là công việc khó
khăn vất vả nhưng nhất định phải làm.)
• Câu hỏi 5: Trước những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời,
tâm trạng của tác giả ra sao? Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện tâm trạng đó?
• Câu hỏi 6: Tìm những từ ngữ thể hiện thái độ của tác giả khi sưu tầm biên soạn
sách?
=> Qua việc sử dụng các câu hỏi trên khi dạy đọc hiểu văn bản “Trích diễm thi tập”, ta
thấy:
+ Đặt câu hỏi tích hợp ở cả bốn câu: 1,2,3,4 không chỉ giúp cho học sinh đọc - hiểu
được nội dung văn bản mà còn giúp các em thấy được nghệ thuật lập luận chặt chẽ, logic
của tác giả Hoàng Đức Lương. Qua đó các em sẽ học tập được cách lập luận trong văn
nghị luận.
+ Đặt câu hỏi tích hợp ở hai câu: 5, 6, đã tích hợp được với bài: “Yếu tố biểu cảm, tự
sự trong văn nghị luận” mà các em đã được học ở THCS. Việc tích hợp như vậy sẽ giúp
các em hiểu được: Kết hợp nghị luận với biểu cảm, tự sự, làm bài tựa có tính thuyết phục
cao, tác động sâu sắc đến người đọc.
- Khi hướng dẫn học sinh phân tích văn bản nghị luận giáo viên thường đưa ra câu hỏi:
Em hãy nhận xét về cách lập luận của tác giả?
11
Câu hỏi này sẽ giúp học sinh củng cố lại kiến thức của các bài học về lập luận trong văn
nghị luận, các thao tác lập luận trong văn nghị luận
- Cuối cùng việc tích hợp với phân môn Làm văn còn được thể hiện ở phần củng cố bài
học.
VD: Sau khi dạy xong các bài văn nghị luận trung đại, tôi thường sử dụng câu hỏi: Em
hãy viết lại dàn ý của bài Tựa (Chiếu, Văn bia)?
*/ Tích hợp với phân môn Tiếng Việt
- Một trong những đặc điểm của văn học trung đại nói chung và văn nghị luận trung đại
nói riêng là dùng cách nói uyển ngữ, cách nói hình ảnh với nhiều điển tích, điển cố. Vì
vậy khi dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại, giáo viên cần phải giúp học sinh thấy
rõ được điều này.
Dạy bài “Chiếu cầu hiền” hoặc bài “Xin lập khoa luật”, ta có thể tích hợp với bài Tiếng
Việt học trước đó: “Thực hành về thành ngữ, điển cố.”
VD: Trong đoạn đầu của văn bản “Chiếu cầu hiền” tác giả Ngô Thì Nhậm đã sử dụng
mấy điển tích, điển cố? Đó là những điển tích, điển cố nào? ý nghĩa của việc sử dụng
đó?
Hỏi như vậy chắc chắn học sinh sẽ phát hiện và cảm nhận được: Chỉ trong một đoạn
văn ngắn, tác giả đó sử dụng 9 điển tích, điển cố được rút ra từ sách vở cổ xưa, hàm ý chỉ
những người ẩn dật uổng phí tài năng, hoặc những người làm quan nhưng còn nghi ngại,
kiêng dè, giữ mình mà không dám nói thẳng.
- Tích hợp với Tiếng Việt để giúp học sinh thấy được việc sử dụng từ ngữ chính xác,
giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của văn bản nghị luận trung đại.
12
VD: Phân tích ý nghĩa nhan đề “Chiếu cầu hiền”, cần làm nổi bật tác dụng biểu đạt, biểu
cảm của từ “cầu”: Tại sao tác giả lại sử dụng từ “cầu” chứ không phải là từ “mời” hoặc
“gọi”?
Câu hỏi này giúp học sinh thấy được giá trị biểu đạt của từ ngữ: “Cầu” thể hiện sự mong
mỏi đồng thời là thái độ trân trọng và đề cao đối tượng mà vua Quang Trung muốn
hướng tới, còn “mời” hay “gọi” mang sắc thái tình cảm bình thường.
- Trong văn nghị luận trung đại cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật phong phú để thể
hiện cảm hứng của chủ thể sáng tạo và tạo nên tính hình tượng cùng sắc thái trữ tình của
tác phẩm. Tính hình tượng của văn nghị luận trung đại thường thể hiện ở cấp độ ngôn từ,
ở cách diễn đạt tu từ
Ví dụ: Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh,
cường điệu để diễn tả sức mạnh của nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn. Voi
uống nước, nước sông phải cạn” và sự thảm bại nhanh chóng của kẻ thù: “Cơn gió to
quét sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”
Khi phân tích văn bản giáo viên chỉ ra được điều này thì đồng nghĩa với việc giúp học
sinh củng cố lại kiến thức về các biện pháp nghệ thuật tu từ mà các em đã được học ở lớp
dưới.
*/ Tích hợp theo cụm thể loại
- Việc tích hợp theo cụm thể loại giúp học sinh hình thành được tri thức về thể loại và
vận dụng được những tri thức đọc hiểu về thể loại đó.
- Một số ví dụ
13
+ VD1: Dạy bài “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm, nên yêu cầu học sinh về nhà xem
trước lại bài : “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn đã được học ở Lớp 8.
Khi dạy ở trên lớp, ta có thể đặt câu hỏi: “Qua bài “Chiếu dời đô” đã được học ở Lớp
8, em hiểu như thế nào là thể chiếu?”
+ VD2: Sau khi dạy xong các văn bản nghị luận trung đại, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh
rút ra những kết luận khái quát nhất về đặc trưng văn nghị luận trung đại sau đó yêu cầu:
Từ những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận trung đại đã học, em hãy so sánh với các
văn bản nghị luận hiện đại đã học ở chương trình THCS. Từ đó rút ra một số kết luận cần
thiết khi viết một văn bản nghị luận?
3.2.2. Sử dụng sơ đồ
- Người xưa đã nói: “Trăm nghe không bằng một thấy”. Lí luận dạy học hiện đại cũng
khẳng định vai trò quan trọng của những ví dụ trực quan sinh động.
Sử dụng sơ đồ hệ thống luận điểm, luận cứ của văn bản nghị luận chính là làm cho học
sinh không chỉ “nghe” mà còn “thấy”.
VD: Khi dạy bài “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” ta cho học sinh quan sát sơ đồ kết
cấu của bài văn bia.
Sơ đồ kết cấu của bài văn bia “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”
14
Sau khi cho học sinh quan sát sơ đồ, giáo viên sẽ yêu cầu các em rút ra kết luận: Cách lập
luận chặt chẽ, mạch lạc của bài văn bia.
15
Tầm quan trọng
của hiền tài
Quyết định thịnh suy của
đất nước
Nguyên khí của quốc
gia
Khuyến khích
hiền tài
Ý nghĩa của việc
khắc bia tiến sĩ
Những việc đã làm
Những việc đang làm và sẽ
làm
3.2.3. S dng phn chỳ thớch cui mi trang ca vn bn
- S dng phn chỳ thớch cui mi trang ca vn bn s giỳp hc sinh hiu rừ ý ngha
ca nhng t ng m tỏc gi s dng, qua ú hiu rừ hn ni dung ý ngha ca vn bn.
+ VD1: Da vo phn chỳ thớch cui trang, em hóy gii thớch nhan vn bn: Trớch
dim thi tp?
Nu khụng da vo chỳ thớch cui trang, hc sinh khú m hiu c rng:
* Trớch: trong ting Hỏn l chn hỏi mt bụng hoa p, hay tuyn chn.
* Dim: Ch s kiu dim, dim l, ch cỏi hay, cỏi p mc cao.
* Thi l th, dim thi l nhng bi th hay.
Vy Trớch dim thi tp l tp th tuyn chn nhng bi th hay.
+ VD2: Da vo phn chỳ thớch cui trang, em hóy gii thớch nhan vn bn: Hin
ti l nguyờn khớ ca quc gia?
HS trả lời theo định hớng:
* Hiền tài: ngời có tài, có đức, tài cao, đức lớn.
* Nguyên khí: khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của sự vật.
-> Mi quan hệ giữa hiền tài với sự thịnh suy của đất nớc.
Son bi mu
16
Tiết: 23+24
Đọc văn: CHIẾU CẦU HIỀN
(Cầu hiền chiếu)
- Ngô Thì Nhậm
A- Mục tiêu bài học
1. Kiến thức:
- Hiểu được tầm tư tưởng mang tính chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây dựng
đất nước của vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta. Qua đó HS
nhận thức được tầm quan trọng của nhân tài đối với quốc gia
- Thấy được cách diễn đạt tinh tế bằng lời lẽ vừa tâm huyết vừa có sức thuyết phục cao và
lập luận chặt chẽ của tác giả.
2. Kĩ năng: - Rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản văn học.
3. Thá i độ : - Có ý thức trân trọng người hiền tài.
B - Chuẩn bị
- GV: ảnh, tượng vua Quang Trung; Đọc SGK, SGV, giáo án.
- HS: Đọc lại các văn bản “Chiếu dời đô” (Lớp 8); “Hoàng Lê nhất thống chí” (Lớp 9);
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (Lớp 10)
C - Phương pháp : Nêu vấn đề , Gợi mở
D - Tiến trình lên lớp
1- Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số
17
2- Kiểm tra bài cũ
3- Bài mới
Hoạt động của GV - HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1:
- Thao tác 1: Tìm hiểu về tác
giả Ngô Thì Nhậm
+ GV : Yêu cầu HS đọc phần
tiểu dẫn và rút ra những nét
chính về Ngô Thì Nhậm.
- Thao tác 2: Tìm hiểu về hoàn
cảnh ra đời
Mục đích viết “Chiếu cầu
hiền”? Đối tượng hướng tới của
I- Tìm hiểu chung
1- Tác giả:
- Ngô Thì Nhậm (1764 – 1803), hiệu Hi
Doãn.
- Người làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn
Nam (nay: Thanh Trì - Hà Nội)
- 1775 đỗ tiến sỹ, từng làm quan dưới
thời Lê Cảnh Hưng
- Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần 2, ông đã
theo giúp Tây Sơn. 1788, Nguyễn Huệ
lên ngôi, Ngô Thì Nhậm được cử làm
Thị lang bộ lại. Là người được nhà vua
tin dùng giao cho soạn thảo giấy tờ quan
trọng.
2) Tác phẩm
a- Hoàn cảnh sá ng tá c:
- 1788 Quang Trung tiến quân ra Bắc,
tiêu diệt quân Thanh và bọn tay sai.Nhà
18
“Chiếu cầu hiền” là những ai?
- Thao tác 3: Tìm hiểu thể loại
+ GV : Qua bài “Chiếu dời đô”
đã được học ở Lớp 8, em hiểu
như thế nào là thể chiếu?
Hoạt động 2:
- Thao tác 1: Gv hướng dẫn đọc
Giọng đọc rõ ràng, mạch lạc,
chú ý thể hiện tình cảm của
người xuống chiếu: lời lẽ nhún
nhường, tâm huyết, giàu sức
thuyết phục
Lê sụp đổ.
- Bề tôi nhà Lê mang nặng tư tưởng
trung quân, phản ứng tiêu cực: bất hợp
tác, thậm chí chống lại phong trào Tây
Sơn.
- Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm
thay lời mình viết “Chiếu cầu hiền”- kêu
gọi những người tài đức ra giúp dân giúp
nước.
b- Thể loại: Chiếu
- Thuộc loại văn nghị luận chính trị - xã
hội do vua chúa ban ra để triều đình và
nhân dân thực hiện.
- Có thể nhà vua đích thân viết nhưng
thường do các văn tài võ lược viết thay
vua.
II/ Đọc – hiểu văn bản
1. Đọc:
*) Giải thích từ khó: (SGK)
19
- Gọi 1 Hs đọc văn bản
- GV giải thích từ khó ở phần
chú thích cuối mỗi trang của
văn bản
+ GV: Theo em, văn bản
“Chiếu cầu hiền” gồm mấy
luận điểm? Vấn đề mà tác giả
nêu ra ở từng luận điểm là gì?
- Học sinh theo dõi văn bản và
trả lời.
Thao tác 2: Phân tích văn bản
+ GV: Để đi đến kết luận mang
ý nghĩa điểm tựa cho lập luận:
Hiền tài cần phải phụng sự cho
đời mới là đúng ý trời, tác giả
đã xuất phát từ điều gì, dẫn dắt
ý ra sao?
Cách nêu vấn đề như vậy có tác
dụng gì?
*) Bố cục:
a- Luận điểm 1: “ Từng nghe…người
hiền vậy”: mối quan hệ giữa người hiền
và vua.
b- Luận điểm 2: “Trước đây…lẩn tránh
suốt đời”: ứng xử của người hiền khi
Quang Trung ra Bắc.
c- Luận điểm 3: “Nay trẫm…hay sao?”:
Tấm lòng của Quang Trung với hiền tài.
d- Luận điểm 4: phần còn lại: Cách cầu
hiền của Quang Trung.
2. Phân tích:
a- Mối quan hệ giữa người hiền và
nhà vua
* Tác giả ví người hiền “như sao sáng
trên trời”, thiên tử là sao Bắc thần. Quy
luật vận động của vũ trụ là tinh tú chầu
về Bắc thần.
- Vai trò trọng đại của người hiền.
- Tạo cảm giác trang trọng thiêng
20
- HS trao đổi, trả lời
+ GV: Việc mở đầu có ý nghĩa
như thế nào đối với mục đích
cầu hiền?
(Giáo viên gợi dẫn: Khổng tử là
ai? Trong lòng các nho sĩ Bắc
hà Khổng Tử có vị trí như thế
nào?)
liêng cho lời kêu gọi hiền tài của bài
chiếu.
- Hiền tài ra giúp vua là hợp với
quy luật của vũ trụ.
* Hình ảnh “người hiền ắt làm sứ giả
cho thiên tử”, lấy từ lời Khổng tử trong
sách Luận ngữ: “ Vi chính dĩ đức, thí
như Bắc thần, cư kì sở, chúng tinh củng
chi” (dùng đức để cai trị đất nước cũng
giống như sao Bắc thần đứng đúng vị trí
của mình mà các sao khác phải chầu về.)
=> Mở đầu bài chiếu bằng lời Khổng
Tử có sức thuyết phục mạnh mẽ sĩ phu
Bắc Hà vì:
- Họ vốn am hiểu kinh điển nho gia nên
nghe đến là hiểu ngay.
- Trong lòng họ, Khổng Tử là vị thánh,
lời Khổng Tử là chân lý, ai cũng tin và
tuân theo.
=> Việc cầu hiền của nhà vua là có cơ
sở, căn cứ, hợp lòng trời, hợp lòng
người. Lời lẽ, ý tứ giàu sức thuyết phục,
lập luận chặt chẽ.
21
+ GV: Em học được điều gì bổ
ích khi áp dụng viết phần mở
đầu cho bài văn nghị luận của
mình?
- HS liên hệ
+ GV: Trong đoạn văn từ
“Trước đây” đến “phụng sự
vương hầu chăng?”, tác giả đã
sử dụng bao nhiêu điển tích,
điển cố? Nội dung mà chúng
biểu hiện là gì?
- Việc sử dụng chúng kết hợp
với các câu hỏi tu từ đó đem lại
hiệu quả nghệ thuật như thế nào
cho bài chiếu?
- HS theo dõi đoạn văn bản và
phát hiện các điển tích, điển cố
b- Ứng xử của người hiền khi Quang
Trung ra bắc
- 9 điển tích, điển cố thể hiện nội dung:
+ Một số người bỏ đi ở ẩn.
+ Một số người trốn tránh giấu mình.
+ Những người đó ra làm quan thì sợ
hãi, hoặc im lặng như bù nhìn “kiêng dè
không dám lên tiếng”, hoặc làm việc
cầm chừng như kẻ “gõ mõ canh cửa”
+ Một số lại đi tự tử, “ra biển vào sụng”
-> Đa số nho sĩ Bắc Hà không đem tài
năng ra phò tá triều Tây Sơn.
- Tác giả không nói thẳng ra điều trên
mà dùng hình ảnh hoặc lấy trong kinh
điển nho gia hoặc mang ý nghĩa tượng
trưng.
+ Cách nói ý nhị, kín đáo, có tính chất
châm biếm nhẹ nhàng.
+ Nhà vua tỏ ra khoan dung, tha thứ (sự
hoà giải mang tầm chiến lược của vua
22
+GV: Tác giả có nói thẳng ra
những điều trên không? Nói
như vậy có ý nghĩa gì?
(Gv: Trong tâm lí của nho sĩ
Bắc Hà, có một số coi thường
Quang Trung không biết nghi
lễ, chữ thánh hiền.)
+GV: Theo em tấm lòng của
Quang Trung với người hiền
được thể hiện qua những hình
ảnh nào?
- Gv hướng dẫn tìm hiểu
+GV: Tại sao nhà vua, người có
quyền cao nhất nhưng không
lệnh, gọi, mời mà phải cầu?
Quang Trung.)
+ Tỏ ra người có kiến thức sâu rộng ->
người nghe phải nể trọng.
+ Người nghe không tự ái mà còn tự
cười về thái độ ứng xử chưa đúng của
chính mình.
c- Tấm lòng của Quang Trung
- Hình ảnh “ghé chiếu” (ngồi bên mép
chiếu chứ không ngồi chính giữa vì còn
đợi người hiền tài)
- “Cầu hiền”-> Sự khiêm tốn, tấm lòng
chân thành, khao khát người hiền tài của
Quang Trung.
- Hai câu hỏi đặt ra tình thế lưỡng phân
hoặc thế này, hoặc thế kia. Cả 2 đều
không đúng với thực tế lúc bấy giờ. Vậy
thì chỉ còn cách ra giúp triều đại mới.
- Lí do phải cầu hiền.
+ Những khó khăn và nhiệm vụ mới
chồng chất, phức tạp của triều đình.
+ Một mình nhà vua không thể làm hết,
23
+GV: Tác giả đã đưa ra những
lí do nào khiến vua phải cầu
hiền?
Em có nhận xét gì về lời lẽ của
người viết và cách lập luận ở
đoạn này?
- HS trao đổi, trả lời
+GV: Quang Trung đó đưa ra
cách cầu hiền như thế nào ở
luận điểm tiếp theo?
Em có nhận xét gì về cách cầu
hiền đó?
+GV: Theo em những bậc hiền
tài thời Quang Trung sẽ có thái
độ ra sao sau khi đọc “Chiếu
cầu hiền”?
làm tốt trọn vẹn mọi công việc.
+ Theo quy luật…nhất định phải có
nhiều bậc hiền tài.
=> Lời lẽ khiêm nhường tha thiết, lập
luận chặt chẽ khiến người hiền tài không
thể không ra giúp triều đại mới.
d - Cách cầu hiền
- Tất cả mọi tầng lớp đều được phép
dâng sớ tấu bày công việc.
- Tự mình dâng sớ tấu bày, các quan lại
văn võ tự tiến cử.
=> Cách cầu hiền rộng mở, tự do, dân
chủ, tiến bộ.
Cụ thể, dễ thực hiện.
III/ Tổng kết
- Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung
thể hiện một chiến lược phát hiện và sử
dụng người tài để xây dựng và phát triển
24
- HS thảo luận
Hoạt động 3:
+ GV hướng dẫn học sinh tổng
kết nội dung và nghệ thuật
- Gọi một HS đọc phần ghi nhớ
trong SGK
- HS: đọc
(GV: Chiếu cầu hiền thể hiện
chiến lược của một vị vua sáng.
Tiếc rằng năm 1792 vua Quang
Trung đã băng hà đột ngột.
Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại
đến năm 1802 trong cảnh hỗn
chiến. Vì thế chiếu cầu hiền chỉ
mang ý nghĩa như một văn kiện
lịch sử, một tư liệu lịch sử của
một triều đại vang bóng).
đất nước ngày một thêm cường thịnh.
- Bài chiếu còn thể hiện một tư tưởng
tiến bộ của vị vua anh minh đại diện cho
nông dân với chính sách chiêu mộ người
tài bằng những lý lẽ thuyết phục được
minh họa bằng những dẫn chứng thực tế
chứ không phải bằng giọng điệu ra lệnh
của kẻ bề trên.
25