Tải bản đầy đủ (.pptx) (11 trang)

slide thuyết trình Tiểu luận Chu kỳ kinh tế là gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 11 trang )

Chu kỳ kinh tế
Nhóm:
GVHD:Châu Văn Thành
SV: Hà Thế Tài
Nguyễn Lê Trường Duy
Chu kỳ kinh tế là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba
pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ)

Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản,
người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang
giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.

Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay
trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh
tế.

Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước
lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha
bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới.
Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh
của chu kỳ kinh tế
Diễn biến của suy thoái

Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp
tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư
vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.

Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo
là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.

Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên


nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn
kinh tế suy thoái Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường
giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về
vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.

khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại

Sau chiến tranh thế giới thứ 2 tới nay nước mỹ có
khoảng 11 cuộc khủng hoảng.Nghiệm trọng nhất là
cuộc khủng hoảng (1981 1982) tốc độ tăng trưởng
-2% và cuộc khủng hoảng mới đây 2008 dưới
-2% .Gây hậu quả nghiêm trong cho không chi nền
kinh tế Mỹ mà ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới
Nguồn : Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Nhìn vào số liệu thống kê về tăng trưởng và thất nghiệp ở Việt Nam từ
năm 1986 đến nay có thể thấy sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã trải
qua ba giai đoạn suy thoái chu kỳ với tần suất từ 9-10 năm. Lần đầu tiên là
năm 1989-1990 khi tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt 4,9% trong khi tỷ
lệ thất nghiệp lên đến 13% năm 1989 và 9% năm 1990.

Do cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á dẫn đến thời kỳ suy thoái
1998-1999. Tốc độ tăng trưởng chỉ còn 5,8% năm 1998 và xuống đáy 4,8%
năm 1999. Cũng trong năm 1999, thất nghiệp tăng lên 6,7% và tỷ lệ thiếu
việc làm ở nông thôn ở mức rất cao 28,9%.

Tiếp theo là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 Tăng trưởng GDP
giảm xuống chỉ còn 6,2% năm 2008


giai đoạn vượt qua suy thoái mang tính chu kỳ luôn là cơ hội tốt để những nước
đang chuyển đổi như Việt Nam đẩy mạnh cải cách và chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chỗ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, xuất khẩu tài nguyên chuyển sang
tăng trưởng nhờ vào năng lực cạnh tranh, phát huy lợi thế so sánh

kỳ vọng (expectations) của người dân và doanh nghiệp là phạm trù của môn tâm lý
học nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của kinh tế học hiện
đại và do đó các nhà hoạch định chính sách không thể bỏ qua.

Ở các nước phát triển, việc tính toán và theo dõi các chỉ số nói lên kỳ vọng của
người dân và doanh nghiệp như chỉ số lòng tin người tiêu dùng, chỉ số lòng tin nhà
đầu tư, chỉ số lòng tin các chủ doanh nghiệp là rất quan trọng trong việc hoạch
định chính sách vĩ mô.

trong thời kỳ khó khăn của chu kỳ kinh tế, chính sách
tiền tệ và tài khóa cần được kết hợp linh hoạt để phục
hồi tăng trưởng GDP và tạo việc làm. Việc nới lỏng
chính sách tiền tệ, hạ lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn là cần thiết nhưng cần chú ý không rơi vào bẫy
thanh khoản (liquidity trap) khi lãi suất đã giảm thấp
nhưng ngân hàng vẫn không cho vay, doanh nghiệp
không thể tiếp cận tín dụng như trong thời gian qua ở
nước ta. Khi đó chính sách tiền tệ sẽ không còn tác
dụng kích thích nền kinh tế

Đối với chính sách tài khóa, cần tính toán thận trọng hiệu
quả và liều lượng của gói kích cầu. Chính sách kích cầu mà
nhiều nước trên thế giới và Việt Nam đang sử dụng dựa
trên quan điểm Keynes với lập luận cho rằng sẽ tạo ra tác
động số nhân (multiplier effect) theo đó khoản chi tiêu kích

cầu của Chính phủ sẽ là thu nhập của nhiều đối tượng khác
nhau trong nền kinh tế theo cấp số nhân, qua đó làm tăng
tổng cầu và tăng GDP, tạo việc làm. Không hiểu các giải
pháp kích cầu của chúng ta như giảm thuế giá trị gia tăng,
giãn thuế thu nhập cá nhân, bảo lãnh tín dụng hay bù lãi
suất được tính toán với số nhân là bao nhiêu

×