Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

hoạt động tuyên truyền pháp luật của các Tổ chức xã hội trên địa bàn một số địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.99 KB, 62 trang )

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
Đảng CSVN:

Đảng cộng sản Việt Nam

Đoàn TNCSHCM: Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Hội CCB :

Hội Cựu Chiến Binh.

Hội LHPNVN:

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Hội NDVN:

Hội Nông dân Việt Nam.

MTTQVN:

Mặt trận tổ quốc Việt Nam.

TCXH:

Tổ chức xã hội.

.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.


Tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật cho nhân dân,
từng bước xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật là một trong
những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là tiền đề quan trọng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh
hiện nay, khi Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới về mọi mặt
kinh tế, văn hóa, xã hội…Đối với các TCXH, tuyên truyền pháp luật là một
trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của các tổ chức này. Là
những tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện, thu hút đông đảo nhân
dân tham gia nên TCXH có điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân,
góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối
tượng này. Trong thời gian qua, với các quy định về hoạt động tuyên truyền
pháp luật của TCXH, hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định, tuy
nhiên bên cạnh đó cịn những hạn chế cần khắc phục để phát huy hơn nữa vai
trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật. Để tìm hiểu về TCXH
và vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, tác giả đã chọn
đề tài này để nghiên cứu làm khóa luận.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH
trong các văn bản có liên quan.


- Tìm hiểu thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH trên
địa bàn một số địa phương, qua đó rút ra những kinh nghiệm trong thực
hiện hoạt động này.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Các quy phạm pháp luật về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của TCXH trong
lĩnh vực tuyên truyền pháp luật trong các văn bản pháp luật có liên quan.
- Kết quả đạt được từ việc áp dụng các quy định về tuyên truyền pháp luật

của TCXH trên thực tế.
4. Phạm vi nghiên cứu.
- Các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH
trong các văn bản Luật như Luật Mặt trận tổ quốc, Luật Cơng đồn…,và
các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan
- Các văn bản pháp luật về các chương trình tun truyền pháp luật có sự
tham gia của TCXH.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Khóa luận tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về TCXH và những quy
định hiện hành về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của TCXH trong hoạt động
tuyên truyền pháp luật được quy định tại Luật Mặt trận tổ quốc, Luật Cơng
đồn và các văn bản khác có liên quan đến chương trình tun truyền pháp
luật có sự tham gia của các TCXH. Khóa luận đã đi sâu vào nghiên cứu vai
trị của mỗi TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật tại các địa bàn trên
phạm vi cả nước, qua đó rút ra những biện pháp, hình thức tuyên truyền pháp
luật có hiệu quả của mỗi loại hình TCXH. Đây là đề tài nghiên cứu mới
không chỉ giúp cho việc hiểu thêm về thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp


luật của TCXH mà tác giả cịn mong đóng góp cơng sức trong việc nâng cao
hơn nữa vai trị của TCXH trong lĩnh vực tuyên tuyền pháp luật bằng việc chỉ
ra những hạn chế trong hoạt động này và đưa ra những giải pháp để khắc
phục.
6. Cấu trúc của khóa luận.
Khóa luận được chia thành 3 phần lớn:
Chương I: Một số vấn đề chung về TCXH.
Chương II: Thực trạng quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp
luật của TCXH và hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH.
Chương III: Những giải pháp nâng cao vai trò của TCXH trong lĩnh vực
tuyên truyền pháp luật trong giai đoạn hiện nay.



CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TCXH
1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TCXH.
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay vẫn tồn tại một số quan niệm khác nhau về TCXH. Cụ thể :
Theo quan niệm của Khoa Luật, Đại Học Quốc Gia Hà Nội thì: “TCXH
là bộ phận của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, được hình thành theo
nguyên tắc tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản của những thành
viên tham gia nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của họ, thu hút đơng đảo
quần chúng vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội, nâng cao tính
tích cực chính trị của cá nhân công dân”.
Trường Đại Học Luật Hà Nội cũng đưa ra quan niệm như sau: “TCXH là
hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có chung mục đích,
hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, khơng vì mục đích lợi nhuận nhằm đáp
ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội”
Theo Nghị Định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003, TCXH được gọi là Hội và
được hiểu như sau: “Hội được quy định trong Nghị Định này được hiểu là tổ
chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở
thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đồn kết hội viên, hỗ trợ nhau hoạt
động có hiệu quả, góp phần và việc pháp triển kinh tế, xã hội của đất nước,
được tổ chức và hoạt động theo nghị định này và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan”.
Trên đây là những quan niệm hiện nay về TCXH ở nước ta hiện nay, qua
đó có thể thấy rằng TCXH được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Quan điểm thứ


nhất khẳng định: Các TCXH là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị ở nước
ta, được hình thành trên cơ sở tự nguyện, hoạt động theo nguyên tắc tự quản

nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về lợi ích của các thành viên, nâng cao tính tích
cực chính trị của cá nhân công dân. Quan niệm thứ hai cho rằng TCXH là những
tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam,
là tập hợp của những người có chung đặc điểm nhất định, hoạt động theo pháp
luật và theo điều lệ, khơng nhằm mục đích lợi nhuận, nhằm đáp ứng lợi ích
chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Như vậy quan niệm thứ nhất và thứ hai đều khẳng định các TCXH được
hình thành trên cơ sở tự nguyện của các thành viên tham gia, hoạt động theo
nguyên tắc tự quản theo quy định của pháp luật và theo điều lệ, hoạt động khơng
vì mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền lợi của các thành viên và thu hút
nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Tuy nhiên hai quan
niệm này cũng có sự khác biệt nhất định: Quan niệm thứ nhất khẳng định TCXH
là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn quan
niệm thứ hai lại khơng nhìn nhận TCXH theo góc độ này mà đưa ra quan niệm
về TCXH dựa trên các đặc điểm chung của TCXH. Một điểm khác biệt nữa
trong hai quan niệm trên là quan niệm thứ nhất đưa ra mục đích hoạt động của
TCXH nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của các thành viên; còn theo quan
niệm thứ hai thì khơng phải mọi lợi ích đều được bảo vệ mà chỉ những lợi ích
chính đáng của các thành viên mới được đáp ứng.
Đối với quan niệm thứ nhất, nếu xem xét từ góc độ TCXH là thành viên
của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cũng phải nhận thấy rằng
khơng phải tất cả các TCXH đều là thành viên của hệ thống chính trị, trên thực
tế chỉ có các tổ chức sau: Đảng cộng sản Việt Nam, Đồn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội


Cựu chiến binh Việt Nam mới là thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Mặt khác cũng phải thấy rằng tuy TCXH hình thành chủ yếu
nhằm đáp ứng cho lợi ích của các thành viên trong tổ chức, nhưng khơng phải
bất cứ lợi ích nào cũng được đáp ứng mà chỉ những lợi ích “chính đáng, hợp

pháp” khơng xâm hại đến lợi ích chung của nhà nước, của cộng đồng mới được
đáp ứng. Do vậy quan niệm thứ nhất này không thể áp dụng chung cho tất cả các
TCXH, không thể dùng làm khái niệm chung về TCXH.
TCXH được xác định trong Nghị Định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003
phải thỏa mãn các tiêu chí sau:
 Là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức việt Nam cùng ngành nghề,
cùng sở thích, cùng giới, cùng chung mục đích.
 Hoạt động thường xun khơng vì lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của hội viên
 Hoạt động nhằm pháp triển kinh tế - xã hội đất nước.
Một TCXH nào đó đáp ứng các tiêu chí trên mới là TCXH theo phạm vi
điều chỉnh của Nghị định này. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 thì Nghị
định này khơng áp dụng với:
“ a; Mặt Trận tổ Quốc Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam,
Đồn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt
Nam, Hội Cựu Chiến Binh, Hội Nông Dân Việt Nam.
b; Các tổ chức giáo hội…”
Trong khi đó khoản 2 điều 4 Nghị Định này lại quy định “Hội được cơng
nhận là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp”. NHư
vậy quy định về TCXH tại khoản 2 điều 1 và khoản 2 điều 4 mâu thuẫn với


nhau, bởi vì thực chất các tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 là tổ
chức chính trị - xã hội như quy định tại khoản 2 Điều 4, là một bộ phận cấu
thành của hệ thống TCXH ở nước ta, vậy nhưng các TCXH này lại không được
coi là TCXH theo quy định của Nghị định này. Hơn nữa, khoản 4 điều 2 quy
định Hội được cơng nhận là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội
nghề nghiệp, tuy nhiên đó là những tổ chức nào thì Nghị định lại không đưa ra
cách hiểu cụ thể sau khi đã gạt các tổ chức MTTQ, Hội LHPNVN, Hội CCBVN,
Đoàn TNCSHCM, Hội NDVN ra ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghi định, điều

này cũng có nghĩa là theo quan niệm của Nghị định 88/2003 thì các tổ chức trên
khơng phải là tổ chức chính trị - xã hội. Đây là điểm bất cập của Nghị định
88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003, nó làm cho quan niệm về TCXH quy định tại
Nghị định này có nội hàm hẹp, trong khi đó trên thực tế các TCXH có nội hàm
rộng và được phân loại thành tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, và các tổ chức khác…với sự góp mặt của MTTQ và các tổ
chức thành viên dưới tên gọi chung là các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức
này đều có những đặc điểm chung của TCXH như được hình thành theo ngun
tắc tự nguyện, hoạt động tự quản vì lợi ích hợp pháp của các thành viên, khơng
nhằm mục đích lợi nhuận, hoạt động nhằm pháp triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Như vậy, quan niệm về TCXH theo quy định tại Nghị định 88/2003/NĐ-CP
khơng dành cho các tổ chức chính trị - xã hội hay các tổ chức giáo hội, mà chỉ
được dùng để chỉ một bộ phận trong hệ thống các TCXH ở nước ta. Do đó quy
định này có phạm vi hẹp và khơng thể áp dụng chung cho các TCXH.
Khắc phục nhược điểm đã nêu trên của Nghị Định 88/2003, dự thảo Luật
về Hội lần thứ 11 đưa ra khái niệm hội như sau:


“ Hội là tổ chức tự nguyện bao gồm những người có cùng nhu cầu, mục
đích, hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của hội, hội viên và cộng đồng, góp phần phát triển đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội bao gồm hội có tư cách pháp nhân và hội khơng có tư cách pháp
nhân…”
So với Nghị định 88/2003 thì đối tượng áp dụng của Dự thảo Luật về Hội
đã được mở rộng, dự thảo cũng đưa ra các dấu hiệu để nhận diện một tổ chức có
phải là TCXH hay khơng, tuy nhiên với khái niệm này, một đặc điểm quan trọng
của TCXH đó là “hoạt động theo nguyên tắc tự quản” lại không được đề cập
đến. Đây là những điểm bất cập cần được quy định cụ thể.

Giáo trình Luật Hành Chính của trường Đại Học Luật Hà Nội đưa ra khái
niệm về TCXH, tuy không mới nhưng khá ngắn gọn, trình bày một cách đầy đủ,
bao quát về TCXH, giúp ta dễ dàng hình dung về TCXH với những đặc điểm
của tổ chức này.
1.1.2 Đặc điểm của TCXH
Mỗi TCXH đều có những hoạt động đặc thù phản ánh vị trí, vai trị của
mình trong hệ thống chính trị. Mặt khác các TCXH lại có những đặc điểm chung
nhất định phân biệt với các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế. Trên cơ sở khái
niệm đã nêu, ta có thể thấy rõ những đặc điểm chung nhất của TCXH, bao gồm:
Thứ nhất: Các TCXH được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện của các
thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở
thích.


Đây là dấu hiệu đặc trưng thể hiện quyền tự do của công dân trong việc
tham gia hoặc không tham gia một TCXH nhất định. Bất kì TCXH nào được lập
ra đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của mỗi cá nhân, khơng ai có quyền ép
buộc người khác phải tham gia hoặc không được tham gia vào các TCXH. Ở
nước ta các TCXH chủ yếu là do nhân dân thành lập trên cơ sở tự nguyện của
các thành viên có chung một đặc điểm nào đó, ví dụ: Đảng cộng sản Việt nam là
tập hợp những người cùng chung mục đích, lý tưởng chính trị. Những ai có
chung chí hướng, mục tiêu, lý tưởng, mong muốn được đứng trong hàng ngũ của
Đảng và đáp ứng các yêu cầu khác thì có thể trở thành Đảng viên Đảng cộng sản
Việt Nam, không phân biệt thành phần xuất thân, giới tính. Yếu tố tự nguyện
cịn thể hiện trong việc kết nạp hay khai trừ các thành viên của TCXH hoàn toàn
do TCXH và các thành viên quyết định. Mặc dù một số TCXH do nhà nước sáng
kiến thành lập ví dụ Đồn Luật Sư.. nhưng nhà nước khơng can thiệp và cũng
không sử dụng quyền lực nhà nước để chi phối việc gia nhập, kết nạp thành viên
hay lựa chọn những người đứng đầu tổ chức, mà vấn đề này do điều lệ quy định
phù hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động và dấu hiệu tập hợp thành viên của

chính TCXH đó.
Mỗi TCXH là tập hợp của những thành viên có cùng chung dấu hiệu, đặc
điểm, đó có thể là cùng chung giai cấp như Hội Nông Dân, cùng giới tính như
Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam…hay cùng chung mục đích, lý tưởng như
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Với những điểm chung đó, họ liên kết nhau lại, tìm
tiếng nói chung trong một hình thức TCXH nhất định nhằm đáp ứng và bảo vệ
những lợi ích chính đáng của họ.
Thứ hai: Các TCXH nhân danh chính mình tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội. Chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, TCXH mới hoạt
động nhân danh nhà nước. Xuất phát điểm của nguyên tắc này là bởi các TCXH


được thành lập và hoạt động với mục đích chủ yếu là bảo vệ lợi ích của tổ chức
và các thành viên chứ khơng phải hoạt động với mục đích thực hiện cơng vụ, vì
lợi ích của nhà nước và xã hội, hơn nữa là do địa vị của TCXH chỉ là các tổ chức
hình thành trên cơ sở tự nguyện của những người tham gia mà không phải là bộ
phận trong cơ cấu của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là đặc điểm phân biệt giữa TCXH và cơ quan nhà nước, khác với TCXH chỉ
nhân danh chính mình, trong trường hợp đặc biệt mới được nhân danh nhà nước,
sử dụng quyền lực nhà nước thì cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình do pháp luật quy định luôn nhân danh nhà nước, sử dụng quyền
lực nhà nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của các TCXH bằng việc
cho phép TCXH được thành lập và hoạt động, quy định các quyền và nghĩa vụ
pháp lý cho các tổ chức đó. Do vậy khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý
này TCXH luôn nhân danh chính tổ chức mình. Chỉ trong một số trường hợp
nhất định được nhà nước trao quyền, cho phép thì TCXH mới được nhân danh
nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước.
Ví dụ: Tổng liên đồn lao động Việt Nam phối hợp với Bộ lao động Thương binh và Xã hội ban hành văn bản liên tịch
Trong trường hợp này, quyết định của TCXH có thể có hiệu lực đối với thành
viên bên ngoài tổ chức.

Thứ ba : Các TCXH hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và điều lệ
do các thành viên trong tổ chức xây dựng.
Mơ hình tổ chức tự quản được hiểu là các thành viên của TCXH tự quyết
định cách thức quản lý của tổ chức mà mình tham gia thơng qua điều lệ của tổ
chức mà khơng cần có sự can thiệp từ bên ngồi. Nói cách khác là các thành
viên của TCXH tự quyết định những nội dung quản lý của tổ chức mình như:


việc kết nạp thành viên, bầu ban lãnh đạo, tôn chỉ mục đích hoạt động của tổ
chức.
Dù TCXH hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước thì hoạt
động của nó vẫn mang tính tự quản, nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công
việc nội bộ của TCXH. Phần lớn các TCXH đều có điều lệ hoạt động, đó là
những quy định do các thành viên trong tổ chức xây dựng và ban hành làm cơ sở
cho việc tổ chức và hoạt động của mỗi TCXH, điều lệ này được xây dựng thông
qua đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể các thành viên, và phải được cơ quan
nhà nước phê chuẩn. Điều lệ của TCXH không phải là văn bản pháp luật, các
quy định trong điều lệ khơng mang tính pháp lý do đó chúng chỉ điều chỉnh các
quan hệ trong nội bộ TCXH và chỉ có hiệu lực đối với các thành viên trong tổ
chức. Để quản lý các TCXH, nhà nước ban hành quy chế pháp lý hành chính của
TCXH, trong quá trình hoạt động các tổ chức này sẽ tự xử lý các cơng việc nội
bộ của mình, nhà nước chỉ can thiệp nếu hoạt động của TCXH trái với các quy
định của pháp luật.
Thứ tư : TCXH hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Đây là đặc điểm rõ nét nhất để phân biệt TCXH với các tổ chức kinh tế
như Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hay các Hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ…Trong khi các tổ chức kinh tế luôn coi lợi nhuận là mục
tiêu hàng đầu, quyết định sự tồn tại và hoạt động thì TCXH thường hướng tới
các mục tiêu khác, khơng mang tính lợi nhuận như tương trợ, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của các thành viên; hoạt động vì cộng đồng , vì xã hội trong các
lĩnh vực như y tế, giáo dục, môi trường. Thành viên của TCXH không tham gia
vào tổ chức với ý định tìm kiếm lợi nhuận mà hướng tới đáp ứng những nhu cầu
của cá nhân, xã hội do họ lựa chọn.


Tuy vậy cũng phải hiểu một cách đầy đủ rằng TCXH hoạt động khơng
nhằm mục đích lợi nhuận nhưng vẫn có thể có các hoạt động có lợi nhuận. Các
TCXH có thể làm kinh tế từ các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch hoặc kinh
doanh gây quỹ nhưng lợi nhuận thu được sẽ được sử dụng cho hoạt động của
TCXH theo điều lệ mà không chia cho bất cứ cá nhân nào trong tổ chức. Trong
quá trình hoạt động, một số hội viên đảm nhận những nhiệm vụ chun trách có
thể được trả tiền cơng nhưng đó khơng phải là sự phân chia lợi nhuận, và các
hoạt động trên khơng được coi là mục đích hoạt động chính của TCXH.
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng mỗi TCXH dù có vị trí, vai trị
khác nhau đối với nhà nước và xã hội nhưng đều có những điểm chung nhất định
đó là: được hình thành trên cơ sở ý chí tự nguyện của các thành viên có chung
mục đích, giai cấp, nghề nghiệp; trong hoạt động các TCXH ln nhân danh
chính tổ chức mình, chỉ trong trường hợp được nhà nước trao quyền, cho phép
thì mới được nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước; TCXH hoạt
động tự quản theo quy định của pháp luật và theo điều lệ do các thành viên xây
dựng; các TCXH hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các thành viên. Đây cũng là những dấu hiệu để nhận biết tổ
chức nào là TCXH.
1.2 PHÂN LOẠI TCXH.
Hiện nay ở nước ta có nhiều TCXH thành lập và hoạt động với những
mục đích, tơn chỉ hoạt động khác nhau, do vậy việc phân loại các TCXH là rất
cần thiết để có các quy định phù hợp với từng loại TCXH. Tuy nhiên cho đến
nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định các tiêu chí cho việc phân loại
các TCXH. Do vậy, mỗi người có thể đưa ra cách phân loại khác nhau tùy theo

tiêu chí mà họ lựa chọn như: căn cứ vào phạm vi hoạt động, mục đích của
TCXH, độ tuổi … thơng thường chúng ta có thể phân loại chúng dựa vào vị trí,


vai trò của TCXH đối với nhà nước và xã hội. Với tiêu chí này, TCXH được
phân loại như sau:
 Tổ chức chính trị: là tổ chức mà thành viên gồm những người cùng hoạt động
với nhau vì một khuynh hướng chính trị nhất định, theo đuổi mục tiêu chính trị,
có cương lĩnh, đường lối và đóng vai trị quan trọng trong hệ thống chính trị. Tổ
chức chính trị tập trung những người tiên phong nhất đại diện cho một giai cấp
hay một lực lượng xã hội nhất định thực hiện những hoạt động có liên quan đến
mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và tầng lớp xã hội.
Ở nước ta hiện nay chỉ có một tổ chức chính trị là Đảng cộng sản Việt
Nam được Hiến pháp 1992 quy định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội
(Điều 4).
 Tổ chức chính trị - xã hội: Đây là những tổ chức quần chúng rộng rãi có cơ
cấu tổ chức hồn thiện được chia thành nhiều cấp để hoạt động trong phạm vi cả
nước bao gồm những cơ quan, tổ chức, hình thành từ trung ương đến địa phương
theo các đơn vị hành chính lãnh thổ và theo các ngành, lĩnh vực quản lý nhà
nước. Các tổ chức này có điều lệ hoạt động do đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn
thể các thành viên thơng qua.
Các tổ chức chính trị xã hội ở nước ta gồm: MTTQVN, Cơng đồn, Đồn
TNCSHCM, Hội LHPNVN, Hội NDVN, Hội CCBVN.
 Tổ chức xã hội nghề nghiệp: Là những tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến
thành lập được hình thành theo quy định của nhà nước để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội về phát triển việc làm, mở rộng dân chủ…Có thể nói rằng,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp được thành lập để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ
quan nhà nước giải quyết một số công việc xã hội, hoạt động nghề nghiệp của
các tổ chức này đặt dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy



nhiên các tổ chức này vẫn có đầy đủ những dấu hiệu chung của tổ chức xã hội:
Hoạt động mang tính tự quản; đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi thành lập tổ
chức; hoạt động khơng mang tính quyền lực nhà nước. Có thể kể đến một số tổ
chức xã hội nghề nghiệp tiêu biểu là Trung tâm trọng tài, Đoàn Luật sư,..
 Các tổ chức tự quản: được thành lập theo sáng kiến của nhà nước, hoạt động
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện nhiệm vụ tự quản trong một phạm vi
nhất định đối với các công việc mà nhà nước không trực tiếp quản lý. Khác với
tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có cơ cấu tổ chức hồn thiện, được
hình thành từ trung ương đến địa phương để hoạt động trong phạm vi cả nước thì
các tổ chức tự quản được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, khơng tạo thành hệ thống, giữa các tổ chức cùng loại khơng có
mối quan hệ về mặt tổ chức. Hoạt động của các tổ chức này đặt dưới sự quản lý
trực tiếp của các cơ quan nhà nước hữu quan. Ví dụ: tổ chức thanh tra nhân dân,
tổ dân phố.
 Các hội được thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích hoặc dấu hiệu
khác: Đây là loại tổ chức xã hội có số lượng nhiều nhất so với các loại tổ chức
xã hội khác, với nhiều tên gọi khác nhau như: Liên hiệp hội, Tổng hội, Liên
đồn, Câu lạc bộ,.. có thể hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh, trong
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong phạm vi quận, huyện,
xã, phường. Khi thành lập hội phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
phải có điều lệ được cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập phê chuẩn. Ví
dụ: Hội được thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp như Hiệp hội thủy sản; Hội
nhà văn; Hội nhà báo. Các hội được thành lập theo dấu hiệu khác: Hội người
mù; Hội người khuyết tật; hội đồng hương…
Với cách phân loại như trên, chúng ta có thể dễ dàng phân loại từng hình
thức TCXH cũng như phạm vi hoạt động của chúng, đặc điểm nổi bật của từng


loại hình TCXH. Qua đó giúp cho việc tìm hiểu nghiên cứu về chúng dễ dàng

nhanh chóng hơn.
1.3 VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA TCXH TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ.
Cùng với sự phát triển của đất nước, số lượng các TCXH khơng ngừng
tăng lên cho thấy chúng có vị trí, vai trị quan trọng trong hệ thống chính trị
nước ta, góp phần tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng
hiệu quả hơn.
Có thể hiểu hệ thống chính trị là liên minh các thiết chế chính trị xã hội có
liên hệ mật thiết với nhau tồn tại và hoạt động nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của toàn xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích, thực hiện những mục đích của giai
cấp thống trị trong xã hội. Ở nước ta, hệ thống chính trị là chỉnh thể các thiết chế
chính trị xã hội có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhằm đảm bảo và thực
thi quyền lực của nhân dân. Hiện nay ở nước ta có nhiều loại hình TCXH, mỗi
TCXH có vị trí khác nhau trong hệ thống chính trị:
 ĐCSVN là một bộ phận cấu thành và là hạt nhân chính trị lãnh đạo của hệ
thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với hệ thống chính trị
và đối với xã hội là một nguyên lý xã hội chủ nghĩa nói chung và của
nước ta nói riêng. Củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước và hệ hống chính trị là yếu tố quyết định đối với thắng lợi của
công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ khi giành được chính quyền đến nay, qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau, Đảng ln là lực lượng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức trong
hệ thống chính trị. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành cơng sự
nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hồn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phát huy vai
trị hạt nhân chính trị và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị ngày càng quan trọng. Nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và xã hội đã được Đại hội VI của Đảng đề ra một cách cụ

thể và được các Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X tiếp tục khẳng định và
phát triển bao gồm:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự
phát triển của toàn xã hội trong từng thời kì phát triển, trên tất cả các
lĩnh vực;
- Đảng vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở
cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước, củng cố và phát triển hệ
thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
- Đảng đề ra những quy định và chính sách về công tác cán bộ; phát
hiện lựa chọn, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú và những người ngồi
Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội thơng qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn để bố trí
vào làm việc trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội.
Về thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là
lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để nhà nước và các
tổ chức thành viên của hệ thống chính trị có cơ sở để chủ động sáng tạo
trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ, phương pháp và biện
pháp cụ thể của mình.


 MTTQVN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ
chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tơn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngồi. Với tính chất đó MTTQVN có vai trị hết sức quan trọng
trong hệ thống chính trị. Điều 9 Hiến pháp 1992 đã sửa đổi, bổ sung 2001
ghi nhận “Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân”. Mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của
Mặt trận là pháp huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự thống

nhất về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động
và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ
và viên chức nhà nước.
 Cơng Đồn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, là thành viên của hệ thống
chính trị của xã hội chủ nghĩa và là trường học của người lao động. Trong
phạm vi chức năng của mình, Cơng đồn tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động
khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc; cùng với cơ quan nhà nước chăm lo và
bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao
động.
 Hội Nông Dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nơng
dân Việt Nam, là thành viên hệ thống chính trị. Trong q trình hoạt động,
Hội Nơng Dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; đoàn kết,


giáo dục, nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nông dân; cùng với cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế tổ chức chăm lo và bảo vệ quyền lợi của
nông dân, kiến nghị với nhà nước những vấn đề cần thiết trong chính sách
phát triển nơng nghiệp nơng thơn.
 Đồn TNCSHCM là tổ chức chính trị - xã hội, liên minh tự nguyện của
thanh niên Việt Nam, là đội hậu bị và cánh tay đắc lực của Đảng cộng sản
Việt Nam, là thành viên có vị trí, vai trị quan trọng trong hệ thống chính
trị. Trong chức năng, nhiệm vụ của mình Đồn TNCSHCM tập hợp, đồn
kết, giáo dục và và rèn luyện thế hệ trẻ, tham gia tích cực vào các hoạt
động của nhà nước và xã hội; phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ

chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần chúng
khác chăm lo và bảo vệ quyền lợi của thế hệ trẻ, đề xuất với Đảng và nhà
nước các chính sách, quan đểm phát huy năng lực và tạo điều kiện cho thế
hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện.
 Hội LHPNVN là tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ Việt Nam, là thành
viên có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Hội LHPNVN tập hợp,
đồn kết, động viên, giáo dục các tầng lớp phụ nữ tham gia tích cực vào
các cơng việc nhà nước và xã hội, các q trình phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục, thực hiện bình đẳng giới, phát huy vai trị đặc biệt của phụ nữ
trong việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, giáo dục các
thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam.
 Hội CCB Việt Nam là thành viên của MTTQ, một tổ chức thành viên của
hệ thống chính trị. Trong phạm vi hoạt động của mình, Hội CCB tập hợp,
đoàn kết, bồi dưỡng và động viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản
chất cách mạng, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền, phát huy dân
chủ góp phần giữ ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh; tham


gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; góp phần
tích cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ và tham gia vào hoạt động đối ngoại
của Đảng và nhà nước.
Sự tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội mang ý nghĩa chính trị quan
trọng, các tổ chức xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân, với vai trị hội tụ
sức mạnh tồn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị. TCXH góp phần ổn định
chính trị từ trung ương đến địa phương tạo điều kiện để nhà nước thực hiện việc
quản lý xã hội. TCXH đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam, thay mặt quần chúng nhân dân thực hiện quyền lực chính trị đồng thời
giúp cho từng cá nhân phát huy tính tích cực chính trị thơng qua việc tun
truyền giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của nhà nước, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước và

quản lý xã hội. Là bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp
phần to lớn vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động.

00_________________****________________00



×