Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MÔI TRƯỜNG PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.27 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN MÔN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
Đề tài:
MÔI TRƯỜNG PHÁP LUẬT
GVHD: Trịnh Quốc Trung
Lớp: T01
Danh sách nhóm 6:
Họ và tên MSSV
Trần Thị Hương Giang 030325090016
Lê Phùng Quang 030325090191
Trần Bảo Trâm 030325090122
Trần Nhã Uyên 030325090395
Nguyễn Lê Hoàng Yến 030325090402
Tp.HCM, tháng 10 năm 2011.
MỤC LỤC
I. Pháp luật là gì?...................................................................................................3
1. Khái niệm..........................................................................................................3
2. Bản chất.............................................................................................................3
Môi trường pháp luật – Nhóm 6
3. Thực thi pháp luật.............................................................................................3
4. Nguồn gốc pháp luật.........................................................................................3
5. Pháp luật kinh tế................................................................................................4
II. Hệ thống tòa án...................................................................................................4
1. Chế độ xét xử hai cấp........................................................................................4
2. Thành phần hội đồng xét xử..............................................................................5
3. Nguyên tắc xét xử.............................................................................................5
4. Hệ thống tòa án các cấp....................................................................................5
III. Luật hợp đồng và đại lý......................................................................................6
1. Các đặc trưng cơ bản của luật hợp đồng............................................................6


2. Đại lí.................................................................................................................15
IV. Một số nguyên nhân cho thấy sự cần thiết phải có sự can thiệp của luật pháp để bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng...................................................................................16
1. Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam..............................................16
2. Hệ thống quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều bất cập..17
V. Nội dung chính của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng...........19
1. Các hành vi bị cấm trong lĩch vực bảo vệ quyền lợi NTD.................................................19
2. Trách nhiệm của bên thứ ba đối với NTD..........................................................................19
3. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dung20
4. Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD.....................................................20
5. Giải quyết tranh chấp giữa NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ......
20
6. Về việc miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm án phí...............................................20
I. Pháp luật là gì?
1. Khái niệm
Pháp luật, về bản chất nguyên gốc, là mối tương quan giữa con người với con người,
giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự, mỗi người phải tuân thủ khi
giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một định chế, trở thành
GVHD: TS. Trịnh Quốc Trung 2
Môi trường pháp luật – Nhóm 6
khoa học được mọi người tuân hành, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi
phạm.
Pháp luật, dưới góc độ luật học, được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền,
được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng
chế, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội .
2. Bản chất
Về bản chất của pháp luật, pháp luật phản ánh bản chất của Nhà nước đặt ra nó. Hay nói
cách khác, Nhà nước kiểu nào thì pháp luật kiểu đó. Lịch sử xã hội loài người đã có các
kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ

nghĩa. Chính vì vậy, pháp luật có tính chất giai cấp.
Pháp luật còn có tính xã hội, vì nó chứa đựng những chuẩn mực chung được số đông
trong xã hội ủng hộ. Nếu không pháp luật sẽ bị chống đối.
Pháp luật có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức
của các dân tộc trong đất nước. Bản chất này cho phép pháp luật gần gũi với dân chúng,
được dân chúng ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh lên các quan hệ xã hội.
Pháp luật có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, có khả
năng hội nhập với pháp luật quốc tế.
3. Thực thi pháp luật
Pháp luật thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ quan thực thi, bao
gồm các cơ quan như Công an (hay cảnh sát), tòa án, Viện kiểm sát, thi hành án... Tuy
nhiên phải hiểu rằng không phải tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều bị đưa ra tòa án,
chỉ những hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội đến mức độ cần thiết mới
bị đưa ra xét xử ở tòa án. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có hai phương thức
thực thi pháp luật là theo con đường hành chính và con đường hình sự. Hành chính và hình
sự là hai cấp độ khác nhau và không thể đồng thời áp dụng lên một hành vi vi phạm.
4. Nguồn gốc của pháp luật
Có thể phân thành hai loại chính là quan điểm phi mác xít và quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin
Theo quan điểm phi mác xít, thuyết thần học cho rằng thượng đế là người sắp đặt tất cả,
nên pháp luật do đấng tối cao, chúa trời tạo ra; thuyết pháp luật tự nhiên coi pháp luật là
tổng thể quyền con người tự nhiên sinh ra mà có; thuyết pháp luật linh cảm xem pháp luật
là những linh cảm của con người về cách cư xử hợp lí, vv... Những quan điểm trên có cùng
chung là giải thích nguồn gốc pháp luật một cách duy tâm, thần bí, thiếu cơ sở khoa học.
Theo quan điểm Mác-Lênin, thì những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng chính
là nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, chưa
có nhà nước và pháp luật. Các quy tắc xã hội chủ yếu dựa trên tập quán và tín điều tôn giáo
trên được mọi người chấp hành một cách tự giác trên cơ sở thói quen, niềm tin, nếu ai vi
phạm thì sẽ bị cộng đồng xử lí. Phương pháp cơ bản áp dụng đối với người vi phạm là tự
nguyện và thuyết phục, nhưng khi làm những việc mà cả thị tộc lên án thì những người vi

phạm cũng sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế.
GVHD: TS. Trịnh Quốc Trung 3
Môi trường pháp luật – Nhóm 6
Do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Công cụ ngày càng được cải tiến,
con người được phát triển về thể lực, ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới và
trong lao động sản xuất ngày càng phát triển... Những yếu tố đó đã tạo tiền đề cho sự phân
công lao động. Chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và luôn đấu
tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình nên pháp luật được hình thành nhằm điều
hòa những mâu thuẫn đó.
Mặt khác, nhà nước hình thành nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, nên pháp luật ra đời là công cụ để nhà nước thực hiện những công việc quản lí xã
hội. Nhà nước ban hành và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cũng như nhà nước,
pháp luật là sản phẩm của xã hội phát triển tới một trình độ nhất định.
5. Pháp luật kinh tế
Pháp luật kinh tế là một hỗn hợp các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác
nhau liên quan đến toàn bộ đời sống kinh tế trong xã hội, bao gồm quy phạm pháp luật của
của các ngành luật có liên quan đến các đối tượng điều chỉnh là các quan hệ kinh tế liên
quan chặt chẽ với nhau trong các tổ chức, quản lý kinh tế và các hoạt động kinh doanh.
Pháp luật kinh tế bao gồm các ngành luật sau: luật kinh tế, luật tài chính-ngân hàng, luật
lao động, luật đất đai và môi trường.
II. Hệ thống tòa án
1. Chế độ xét xử hai cấp
Tại Việt Nam, việc xét xử của tòa án thực hiện qua hai cấp: sơ thẩm (là xử lần 1) và
phúc thẩm (xử lần 2).
Tòa án khi xét xử sẽ đưa ra phán quyết của mình, gọi chung là “bản án”.
Bản án của tòa án xử sơ thẩm gọi là Bản án sơ thẩm. Bản án sơ thẩm có thể bị kháng cáo
(hay còn gọi là chống án) bởi các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan …) – trong vòng 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay và nếu không bị kháng cáo thì sau 15
ngày được xem là có hiệu lực pháp luật. Tức là có tính bắt buộc phải thi hành. Ví dụ: ông A

kiện đòi ông B 100 triệu đồng. Tòa án Quận 10 xử sơ thẩm xử tuyên ông B phải trả cho
ông A 100 triệu đồng. Ông B thấy tòa xử đúng nên không kháng cáo bản án sơ thẩm. Sau
15 ngày kể từ ngày tuyên án, bản án sẽ chính thức có hiệu lực pháp luật. Nghĩa là từ lúc
này, việc phải trả 100 triệu cho ông A là “bắt buộc” đối với ông B.
Bản án sơ thẩm bị kháng cáo sẽ được xét xử phúc thẩm.
Bản án của tòa phúc thẩm gọi là Bản án phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật ngay (chung
thẩm), không ai được kháng cáo nữa.
Tuy nhiên, bất kỳ bản án nào - dù đã có hiệu lực pháp luật, mà sau đó phát hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì sẽ được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm.
2. Thành phần Hội đồng xét xử
Việc xét xử một vụ án được thực hiện bởi một Hội đồng xét xử.
Hội đồng xét xử tùy theo cấp xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm mà có số lượng như sau:
GVHD: TS. Trịnh Quốc Trung 4
Môi trường pháp luật – Nhóm 6
- Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm: 3 vị, gồm 1 thẩm phán và 2 vị hội thẩm nhân dân
- Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm: gồm 3 vị thẩm phán.
Trong những vụ án lớn hoặc có tính chất đặc biệt, thành phần của Hội đồng xét xử có
thể được bổ sung nhiều vị hơn.
Tại mỗi phiên tòa, trong Hội đồng xét xử sẽ có một vị thẩm phán nắm quyền điều hành
phiên tòa gọi là “Chủ tọa”
Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Luật qui định các vị này độc lập với
nhau (tức không ai có quyền chỉ đạo ai) và chỉ tuân theo pháp luật.
Việc nghị án (tức là trao đổi và quyết định về mức án hay phán quyết có liên quan đến
nội dung khởi kiện của các đương sự ) thực hiện theo chế độ tập thể. Phán quyết của Hội
đồng xét xử được thông qua bằng cách lấy biểu quyết - theo đa số. Ví dụ: cũng vụ án ông A
kiện ông B nói trên, sau khi tiến hành xét xử sơ thẩm, Hội đồng xét xử sẽ vào nghị án.
Trong Hội đồng xét xử (gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm có ý kiến khác nhau. Chẳng hạn vị
thẩm phán thì cho rằng nội dung kiện của ông A là không có căn cứ, còn hai vị hội thẩm thì
lại nói ông A kiện là đúng. Khi đó, với số phiếu đa số 2/1, xem như tòa sẽ xử tuyên chấp

nhận yêu cầu khởi kiện của ông A.
Như vậy, có thể thấy Hội đồng xét xử ở Việt Nam khá khác do với các nước tư bản. Tại
những nước này (chẳng hạn như Hoa Kỳ), Hội đồng xét xử gồm vị thẩm phán nắm quyền
chủ trì và một đoàn bồi thẩm (Bồi thẩm đoàn) gồm 15 vị.
3. Nguyên tắc xét xử
Tại Việt Nam, việc xử án phải bảo đảm những nguyên tắc cơ bản sau:
- Xét xử công khai (trường hợp đặc biệt có thể xử kín, để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần
phong mỹ tục hoặc để giữ bí mật của các đương sự).
- Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội…
- Hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật.
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Tức là được thuê luật sư.
4. Hệ thống tòa án các cấp
Tại Việt Nam, cơ quan xét xử được gọi là “Tòa án nhân dân” (TAND). Gọi tắt là “tòa
án”.
Tòa án xét xử các vụ án thuộc mọi lĩnh vực trong xã hội: hình sự (xử về tội phạm), dân
sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế và hành chính.
Hệ thống tòa án tại Việt Nam được tổ chức gồm các tòa án sau:
a) Tòa án nhân dân tối cao
b) Tòa án nhân dân tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc trung ương)
Mỗi tỉnh có một tòa án. Ví dụ: TP. HCM có TAND TP.HCM, tỉnh Vĩnh Long có TAND
tỉnh Vĩnh Long
c) Tòa án nhân dân quận, huyện thuộc tỉnh
GVHD: TS. Trịnh Quốc Trung 5
Môi trường pháp luật – Nhóm 6
Mỗi huyện có một tòa án. Ví dụ: Quận 10 thuộc TP.HCM có TAND Quận 10, TP. Biên
Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai có TAND TP. Biên Hòa. Như vậy, trong một tỉnh sẽ có nhiều tòa
án cấp quận, huyện.
d) Các Tòa án quân sự (chia theo quân khu – khu vực).

III. Luật hợp đồng và đại lý
1. Các đặc trưng cơ bản của luật hợp đồng:
a) Khái niệm
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự[1]. Như vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên
bằng việc thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác định khi nào và trong
điều kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và chấm dứt. Các
chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại chủ thể khác.
Khách thể của hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng, có thể là tài sản, hàng hoá hoặc
dịch vụ. Nguyên tắc quan trọng và được pháp luật bảo vệ là nguyên tắc tự do thoả thuận,
bình đẳng và thiện chí trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng, không phân biệt mục đích
của hợp đồng là kinh doanh thu lợi nhuận hay nhằm phục vụ cho tiêu dùng.
b) Hình thức
Về nguyên tắc, các bên có quyền tự do quyết định hình thức của hợp đồng. Hình thức
hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ
một số trường hợp pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức nhất
định nhằm đảm bảo trật tự công, ví dụ như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
phải được thể hiện bằng văn bản.
Để phù hợp với xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, pháp luật cũng ghi nhận hình
thức của hợp đồng có thể được thể hiện thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu và hình thức này được coi là hợp đồng bằng văn bản[2]. Trong trường
hợp pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc
chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác thì nhìn chung, hợp đồng không bị coi là vô hiệu nếu có vi
phạm về hình thức.
c) Ký kết hợp đồng và việc uỷ quyền ký kết hợp đồng
BLDS xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu lực của
cam kết, thoả thuận của các bên, không phụ thuộc vào hình thức của hợp đồng. Do đó, về
mặt nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp

nhận giao kết của bên được đề nghị. Hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời
hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu các bên có thoả thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết. Trên cơ sở hình thức của hợp đồng, pháp luật cũng quy định cụ thể đối
với từng trường hợp, ví dụ, đối với hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì thời điểm giao
kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng; đối với hợp
đồng được giao kết bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau
cùng ký vào văn bản[3].
GVHD: TS. Trịnh Quốc Trung 6
Môi trường pháp luật – Nhóm 6
Về mặt nguyên tắc, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm giao kết,
tuy nhiên vẫn có các ngoại lệ đó là khi các bên có thoả thuận khác, ví dụ hợp đồng được
các bên ký vào ngày 01/01/2009 nhưng các bên thoả thuận là hợp đồng được coi là ký kết
vào ngày 01/02/2009 hoặc khi pháp luật có quy định khác, ví dụ theo pháp luật về đất đai
thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp là thời điểm đăng ký.
Vấn đề uỷ quyền ký kết hợp đồng không được BLDS quy định cụ thể, tuy nhiên, vì hợp
đồng là một dạng của giao dịch dân sự cho nên có thể áp dụng các quy định về việc uỷ
quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự[4]. Theo đó cá nhân, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện hợp đồng theo chế
định người đại diện.
d) Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Theo quy định của Điều 405 BLDS thì hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể
từ thời điểm giao kết trừ trường có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Tuy
nhiên, BLDS lại không quy định thế nào là "được giao kết hợp pháp", do đó phải áp dụng
Điều 122 BLDS về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự vì hợp đồng là một trong
những hình thức giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện

Ngoài các điều kiện trên đây, nếu pháp luật quy định giao dịch phải được thể hiện bằng
một hình thức cụ thể, ví dụ phải thể hiện bằng văn bản, thì hình thức của giao dịch là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch.
Như vậy, khi hợp đồng có đủ 3 điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực trừ một số trường hợp
mà pháp luật yêu cầu hợp đồng phải tuân theo một hình thức nhất định.
e) Điều kiện vô hiệu của hợp đồng
Theo quy định của Điều 410 BLDS thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được áp dụng theo
các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 BLDS bao gồm các trường hợp sau:
- Giao dịch bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của
BLDS bao gồm: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội
dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Ngoài ra, nếu pháp luật yêu cầu giao dịch
phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào đó thì hình thức của giao dịch cũng là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội[5]. Điều
này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu. Vi phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là vi
phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định, ví dụ như hành vi buôn bán chất ma tuý. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử
chung giữa người với người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
GVHD: TS. Trịnh Quốc Trung 7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×