Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 54 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY ”
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài, thuận lợi và khó khăn
Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy học để
truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước.
Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều
phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách
dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh
chép như môn chính tả ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học,
bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm ở
bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc –
chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học
có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh
“chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học
“chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến
thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư
tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm
kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình
phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ
động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự
mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc
sống.
2
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc.
Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm,


không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không
thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài
dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy
“đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt.
Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra một số
nguyên nhân sau:
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một tiết học
chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ, dặn dò học,
làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút để giảng bài mới nên giáo viên
chọn cách “đọc – chép”.
Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động trong học
tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh về nhà chỉ cần học
thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm
cao…
Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy sao
cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức, cứ sẵn giáo án
mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng lại ghi vài chữ lên bảng. Như
thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa không tốn sức.
Trang thiết bị và các phòng học chức năng không đủ hoặc không có để đáp ứng
nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh không có nhiều điều kiện để
thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh động.
3
Khắc phục tình trạng đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng
dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp trong
điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt việc chống dạy học theo kiểu “đọc –
chép” là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó
sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chỉ thị bắt đầu từ năm học này
(2011 – 2012) chấm dứt việc dạy học chủ yếu qua đọc chép và nhìn chép ở bậc trung học
phổ thông.

Đây là chủ trương phù hợp với tiến trình đổi mới và nâng cao chất lượng giáo
dục, đáp ứng sự mong đợi bấy lâu nay của nhiều giáo viên tâm huyết với giáo dục, giúp
học sinh chủ động học tập và sáng tạo.
Có thể nói, nhiều năm qua việc giáo viên đọc cho học sinh chép bài đã trở thành
thói quen của phần lớn thầy – trò bậc phổ thông, kể cả đại học. Nhiều nhà nghiên cứu
giáo dục và dư luận lên tiếng không đồng tình, thậm chí phản đối gay gắt và đề nghị
chấm dứt việc dạy học theo kiểu đọc chép, nhưng có lẽ do còn nhiều việc phải giải quyết,
nên mãi đến năm học này, Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có ý kiến chính thức bằng văn
bản.
Dạy theo kiểu “đọc cái có sẵn cho học sinh chép vào vở” cứ lặp đi lặp lại nhiều
năm, khiến công việc của các nhà giáo trở nên nhàm chán, không có động lực để đổi mới.
Còn với học sinh, dẫu biết rằng phải chép bài của thầy đọc từ sách giáo khoa, cái mà các
em có thể tự đọc – là một sự miễn cưỡng. Nhưng biết làm sao, khi thầy yêu cầu trả bài
phải đúng, thậm chí đúng nguyên văn những lời thầy đọc.
Đã có những bài thi ngây ngô đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp tư duy, rập
khuôn máy móc do việc học lệ thuộc hoàn toàn vào thầy, còn thầy thì lệ thuộc sách giáo
4
khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay cóp, gian lận trong thi cử, tạo ra sự
thiếu công bằng giữa những người học nghiêm túc và những người thầy thực sự muốn
đổi mới cách dạy học.
Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tải liên miên khiến các em
không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tòi, suy luận để có kiến
thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy không đọc, trò không chép? Không
đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy sẽ nói gì để các em ghi lại và phát
triển tư duy?
Chỉ thị không đọc – chép trên lớp sẽ thực hiện từ năm học này. Nếu không chuẩn
bị kỹ lưỡng với một tinh thần hưởng ứng nhiệt tình, có thể xảy ra tình trạng, giáo viên
photo bài giảng và bộ câu hỏi rồi phát cho học sinh tự đọc, tự trả lời để tránh tiếng “thầy
đọc, trò chép”. Và cũng không loại trừ xảy ra chuyện, thầy cứ giảng, trò muốn ghi gì
cũng được mà không biết đâu là nội dung chính để tập trung học hỏi. Rồi khi thi kiểm tra

chất lượng, thầy có chấp nhận nội dung bài thi khác với ý của mình hay không.
Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương pháp “đọc –
chép” nên để thay đổi cách giảng dạy cũng khó có thể đạt kết quả một sớm một chiều.
Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thông đang tiếp tục được thay đổi và nội dung
còn khá nặng nề cũng là một lực cản trong quá trình nói không với “đọc – chép”.
Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể cả bậc đại học) đã áp dụng phương
pháp giảng dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem lại hiệu quả rõ nét.
Nhưng vì không có động lực, thiếu sự khuyến khích, động viên và tiêu chí rõ ràng, nên
cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít người.
5
Chấm dứt tình trạng không đọc chép sẽ trở thành hiện thực nếu đội ngũ giáo viên
được coi trọng, nếu đội ngũ giáo viên có động lực và sự đánh giá nghiêm túc, công bằng
từ các cơ quan quan quản lý.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành
tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp
học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang
chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và đối với bộ môn
lịch sử nói riêng.
Trong năm học 2007 – 2008 Sở GD&ĐT Bình Dương đã triển khai cho các
Trường THCS trong tỉnh thực hiện dạy học theo “Sơ đồ tư duy” và mỗi trường THPT cử
một giáo viên dự lớp tập huận đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp mới do
Microsoft tài trợ, nhưng hiện nay chưa triển khai đến giáo viên các trường THPT.
Đầu năm học 2011 – 2012 Hiệu trưởng Trường THPT Dĩ An Vương Văn Thanh
triển khai chỉ thị năm học mới của Bộ GD&ĐT trong đó có nêu lên chỉ thị “chấp dứt
hoàn hoàn việc đọc – chép hoặc nhìn – chép ở trường THPT” và thầy Hiệu trưởng có giới
thiệu một phương pháp giảng dạy mà từ lâu các nước tiên tiến trên thế giới đã áp dụng
trong dạy học đó là sử dụng sơ đồ tư duy và đã cho giáo viên xem một số hình ảnh minh
họa các “sơ đồ tư duy” mà học sinh các trường đã thực hiện.
Sự việc nầy đã làm tôi liên tưởng đến lớp học của chương trình đổi mới phương
pháp dạy học do chương trình Microsoft tài trợ và huấn luyện mà tôi đã tham dự, tôi hỏi

thăm một số thầy cô đã được cử đi tập huấn ở Singapor và được biết các trường học ở
Singapor cũng đã thực hiện cách dạy nầy rồi. Tôi đến các lớp hỏi thăm học sinh lớp 10 có
biết ghi bài bằng sơ đồ tư duy hay không thì các em trả lời ở Trường THCS các em cũng
đã được dạy rồi.
6
Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ tư duy trong
dạy học lịch sử ở trường THPT” và bài trả lời cho câu hỏi làm thế nào để đổi mới phương
pháp dạy học “không đọc – chép ; không nhìn – chép” theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và
Đào tạo mà tôi trăn trở băn khoăn bấy lâu nay đã có cách để giải quyết
Qua một năm học áp dụng cho học sinh lớp 10 và lớp 12 ở Trường THPT Dĩ An
do tôi phụ trách ở bộ môn lịch sử, tôi nhận thấy đây là cách dạy mang lại hiệu quả cao
nếu giáo viên biết vận dụng các kĩ năng CNTT vào tiêt dạy thì sẽ giúp học sinh hứng
thú, yêu thích tiết học lịch sử hơn so với một tiết dạy bằng giáo án điện tử thông thường.
2. Mức độ nghiên cứu đề tài
Năm học 2011 – 2012 là năm học đầu tiên Bộ GD – ĐT triển khai thực hiện
“Chấm dứt hoàn toàn việc đọc – chép; nhìn – chép ở các trường THPT”.
7
Vì trong năm học nầy tôi chỉ được phân công giảng dạy Lịch sử lớp 10 và lớp 12
nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai khối lớp của mình phụ trách. Trong phạm vi nghiên
cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn trong vấn đề lớn : “Hướng dẫn học sinh
ghi bài theo sơ đồ tư duy”.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : “Soạn giảng bộ môn Lịch sử 10 và 12 theo sơ đồ tư duy và
chuẩn KTKN được điều chỉnh giảm tải trong năm học 2011 – 2012”.
+ Khách thể nghiên cứu : Môn LS lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.
+ Phạm vi nghiên cứu : Hướng dẫn học sinh ghi bài theo sơ đồ tư duy.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Cuộc vận động chấm dứt cách dạy học “đọc chép” nếu thành công, sẽ góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục. Theo GS – TS Đinh Quang Báo, nguyên Hiệu trưởng
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để cuộc vận động này thành công, thì đội ngũ giáo viên

là yếu tố quyết định. Do vậy ngay từ khâu đào tạo giáo viên ở các trường đại học, cao
đẳng phải đào tạo họ biết cách “không đọc chép”.
Vấn đề càng tỏ ra bức xúc hơn khi Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo Nguyễn Thiện
Nhân phát động chiến dịch “Nói không với đọc chép” cùng với việc “Nói không với tiêu
cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Nói thì dễ nhưng làm thật khó. Nhiều
đồng nghiệp đã nhận thức được sự tai hại của việc dạy học theo lối đọc chép, nhưng quả
thực để “Nói không với đọc chép”, có người chưa biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế
nào, thậm chí còn rất ái ngại, vì thay đổi một tập quán không dễ gì nếu thiếu một quyết
tâm và sự định hướng.
8
Để góp phần tạo nên sự chuyển biến trong dạy học bộ môn, đáp ứng yêu cầu phát
triển xã hội, và để “Nói không với đọc chép”, giáo viên lịch sử cần lưu ý một số điểm sau
đây:
Trước hết, giáo viên phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc dạy học
lịch sử là phải cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản về lịch sử thế giới,
lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương, qua đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, truyền
thống cho học sinh. Nghĩa là phải vừa khai trí vừa khai tâm cho các em. Hai nhiệm vụ
này luôn gắn chặt và hỗ tương với nhau. Phải giúp cho các em am tường và biết cách vận
dụng những tri thức lịch sử vào cuộc sống.Trong sách giáo khoa, các nội dung sự kiện
được trình bày một cách cô đọng vốn đã rất cần sự phân tích diễn giải, minh hoạ, so sánh,
đối chiếu để giúp học sinh hiểu vấn đề một cách thấu đáo. Nếu dạy theo lối đọc chép, có
nghĩa giáo viên một lần nữa tóm tắt sách giáo khoa, đọc cho các em chép rồi buộc các em
phải học thuộc lòng. Làm như vậy, bộ môn lịch sử sẽ trở nên giáo điều, nhồi nhét, vì học
sinh chẳng thể nào hiểu nổi một vấn đề, một sự kiện và như vậy việc học tập trên lớp trở
nên vô bổ, thậm chí làm cho các em có cảm giác như bị “tra tấn” trong học tập bộ môn.
Để “Nói không với đọc chép”, đòi hỏi giáo viên phải có tâm huyết với nghề
nghiệp, phải luôn thấy được trách nhiệm và uy tín cá nhân của mình trước hết là đối với
học sinh. Cần phải tích cực đầu tư chuyên môn và không ngừng học tập nâng cao trình độ
nghiệp vụ. Việc đầu tư chuyên môn đòi hỏi phải tiếp cận với thông tin khoa học chuyên
ngành. Điều kiện sách vở, tài liệu tham khảo và các nguồn thông tin cần thiết hiện nay

không đến nổi quá khó khăn. Mỗi khi đã có sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn, giáo
viên dễ dàng lựa chọn phương pháp để giảng dạy, vì phương pháp là sự vận động của tri
thức.
9
Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, tuỳ theo nội dung kiến thức và đối
tượng mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp nhằm tạo biểu tượng, hình thành khái
niệm, khắc sâu kiến thức cơ bản… cho học sinh. Để phát huy tính tích cực của học sinh
trong học tập, phương pháp dạy học sử dụng sơ đồ tư duy tỏ ra có ưu thế. Mỗi bài học
chứa đựng một số vấn đề cơ bản của lịch sử, bằng sự hiểu biết của mình, giáo viên nêu
vấn đề, tổ chức cho học sinh giải quyết bằng cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy nhằm phát
huy tính tích cực và huy động bộ não các em làm việc hết công suất cho mỗi bài học, sẽ
không còn tình trạng học sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em được phát biểu và làm việc
với giáo viên trong tiết học.
Việc học sinh tham gia trực tiếp vào việc giải quyết những yêu cầu của bài học
vừa có tác dụng phát triển tư duy vừa gây hứng thú học tập. Tất nhiên vai trò dẫn dắt của
người thầy là hết sức quan trọng. Dạy học là một nghệ thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết
và nghệ thuật của giáo viên, những “phần xác” lịch sử sẽ được “phả hồn” vào một cách
sinh động và đẹp đẽ, giúp các em cảm nhận tốt hơn, yêu thích hơn bộ môn lịch sử.
Phương tiện dạy học bằng sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phóng phú và được các
nước tiên tiến trên thế giới sử dụng đạt hiệu quả cao. Nếu biết khai thác tốt sơ đồ tư duy
sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Cùng với sự kết hợp các
phương pháp, phương tiện trực quan và kỹ thuật sẽ góp phần đẩy lùi hiện tượng “đọc
chép” một cách có hiệu quả.Việc sử dụng sơ đồ tư duy cùng phương tiện trực quan và kỹ
thuật đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư công sức và trí tuệ cho bài giảng. Rõ ràng làm
tốt công việc này sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy và hiên tượng “đọc
chép” sẽ không có cơ hội để tồn tại.
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng, học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá
trình dạy học. Dạy học theo lối đọc chép có nghĩa giáo viên đã thủ tiêu mất vai trò chủ
10
thể của học sinh, đưa các em vào trạng thái hoàn toàn thụ động, bị nhồi nhét một cách

đáng thương. Việc tạo ra mô hình dạy học sử dụng sơ đồ tư duy trong đó học sinh có điều
kiện trao đổi với thầy với bạn, sẽ phát huy tốt tính tích cực, chủ động của các em, giúp
các em vươn lên chiếm lĩnh tri thức.Thay đổi mô hình dạy học theo sơ đồ tư duy là một
yêu cầu không thể thiếu được. Nó vừa phát huy tốt ưu thế của bộ môn, vừa tạo được sự
hấp dẫn, hứng thú đối với học sinh. Cần chú ý mô hình dạy lịch sử theo sơ đồ tư duy,
giảm dần tính biên niên trong dạy học lịch sử.
Khả năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống là cái đích của việc dạy học bộ
môn. Khả năng đó có được từ nghệ thuật truyền dạy và tổ chức rèn luyện của giáo viên
cho các em. Học lịch sử mà không liên hệ được thực tế, không làm bài tập thực hành, sẽ
không thể nào có được năng lục vận dụng và như vậy sự học trở nên vô bổ. Cuộc sống
đang đặt ra vô vàn những vấn đề phức tạp, hiểu sâu sắc lịch sử để lý giải những vấn đề
của cuộc sống hiện tại là vô cùng cần thiết, nó tỏ rõ ưu thế của bộ môn. Không làm tốt
điều này xem như giáo viên lịch sử chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Dạy học “đọc chép” sẽ phải kiểm tra đánh giá theo kiểu “đọc chép” và ngược lại.
Đó là lẽ đương nhiên. Đổi mới phong cách dạy học phải đi liền với việc thay đổi cách
thức kiểm tra đánh giá. Giáo viên phải biết trăn trở, lựa chọn hình thức và nội dung kiểm
tra để đánh giá đúng thực lực học sinh, đồng thời tự kiểm tra năng lực giảng dạy của
mình một cách chính xác. Phải hết sức nghiêm túc trong kiểm tra đánh giá thì mới tạo
được sự chuyển biến về chất lượng đào tạo và mới có thể “Nói không với tiêu cực trong
thi cử”.
11
5. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 phần :
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.
-Phần III : Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị
12
NỘI DUNG
Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài SKKN

Năm học 2011 – 2012 Bộ Giaó dục và Đào tạo giảm tải nội dung sách giáo khoa
tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc dạy và học hơn nững năm qua.
Tôi được Sở GD&ĐT Bình Dương cử tham dự lớp tập huấn “Phương pháp dạy
học mới” và những năm qua đã soạn giảng khá tốt bộ giáo án điện tử lớp 10 và lớp 12 nên
có thuận lợi hơn khi áp dụng đề tài hướng dẫn học sinh bậc THPT thực hiện ghi bài theo
sơ đồ tư duy.
13
Trường THPT Dĩ An được Sở GD&ĐT Bình Dương đâu tư xây dựng thành đơn
vị Trường THPT chất lượng cao của Tỉnh Bình Dương và được Sở đầu tư lắp đặt mỗi
phòng học đều có một bộ máy chiếu để giáo viên giảng dạy tại lớp. Mỗi giáo viên chỉ
cầng dùng một USB ghi nội dung bài dạy và đến lớp để sử dụng ngay trong tiêt dạy tại
lớp nên rất thuận tiện cho giáo viên và học sinh khi áp dụng phương pháp giảng dạy mới
sử dụng sơ đồ tư duy.
Học sinh các lớp THPT của Bình Dương bước đầu đã được làm quen với cách ghi
bài theo sơ đồ tư duy ở các trường THCS nên các em tiếp thu cách học mới dễ dàng hơn
ở bậc THPT.
Một số phần mềm sơ đồ tư duy được phổ biến rộng rãi nên đã hỗ trợ cho giáo
viên và học sinh khi trình bày sơ đồ tư duy trên máy chiếu.
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài SKKN
Khi dự giờ các tiết dạy giáo viên còn theo bảng chấm điểm cũ, hầu như đa số giáo
viên của các trường THPT đều chưa giảng dạy học sinh theo phương pháp sử dụng sơ đồ
tư duy vào trong một tiết dạy.
Giáo viên ở các trường THCS không hướng dẫn kỹ cách thực hiện cho học sinh
và chưa nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học theo phương pháp mới nầy nên tôi phải
cho học sinh lớp 10 và lớp 12 xem phim minh họa, hướng dẫn học sinh cách sử dụng
phần mềm, cách vẽ sơ đồ tư duy lại từ đầu (xem phim hướng dẫn sử dụng sơ đồ tư duy
theo dĩa CD đính kèm).
14
Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính
“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”
1. Thực trạng và giải pháp:
1.1 Giảng dạy theo sơ đồ tư duy tăng cường tính tích cực của học sinh
Năm học 2011-2012 là năm đầu tiên ngành Giáo dục và Đào tạo triển khai giảng
dạy theo sơ đồ tư duy ở bậc học THPT. Qua thực tế cho thấy việc giảng dạy này đã tạo
hứng thú cho học sinh. Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ tư duy cho mình dưới sự hướng
dẫn của giáo viên để bài học trở nên dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Cùng một nội dung
15
nhưng các em có thể thêm nhánh, thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu sắc tùy
vào cách hiểu, cách lĩnh hội kiến thức trong bài học của mình.
Ngay từ đầu năm học, sau khi đăng kí đề tài SKKN tôi đã tìm hiểu, áp dung dạy học
lịch sử bằng sơ đồ tư duy. Từ đó tôi tự lập kế hoạch giảng dạy cho từng tiết học. Nếu
không sử dụng phần mềm, giáo viên có thể linh động sử dụng hình vẽ tay với những màu
sắc, hình ảnh, từ ngữ diễn đạt khác nhau nhằm giúp học sinh có thể nắm bắt và nhớ được
phần cốt lõi của bài giảng ngay tại lớp học.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn gọn thể hiện
qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội dung chính, giáo viên vẽ ra
từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài giảng và chú thích, giảng giải theo một
ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học sinh.
Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa hay cả bài giảng
đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được khái niệm qua hình vẽ.
Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên cũng giúp các em nhớ được phần trọng
tâm của bài giảng.
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về
trí tuệ, vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần nào
trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, vận dụng
kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Để giảng dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên bảng rồi cho
học sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ
sơ đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định hướng lại từng nội dung cho học sinh.

Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay tỷ lệ nhất
định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy màu sắc và thực sự
16
hiệu quả. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ
ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học,
các em sẽ trở nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập.
1.2 Giáo viên trở thành người hướng dẫn, hỗ trợ
Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học
sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy bằng
sơ đồ tư duy, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ,
tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung
những phần còn thiếu. Kết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học
sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác
nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng
tâm của bài học. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được
với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa, bảng
bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư
duy đã được triển khai đến từng trường. Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần
hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn
vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
Sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy (Mind Map) là hình thức ghi chép sử dụng màu
sắc, hình ảnh nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một
nội dung, hệ thống hoá một chủ đề. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony
Buzan (Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp thế giới.
Tony Buzan sinh năm 1942, chuyên gia hàng đầu thế giới về nghiên cứu hoạt
động của bộ não và là cha đẻ của Mind Map.
17
Phương pháp tư duy của ông được dạy và sử dụng ở khoảng 500 tập đoàn, công ty
hàng đầu thế giới; hơn 250 triệu người sử dụng phương pháp Mind Map của Tony Buzan;
khoảng hơn 3 tỷ người đã từng xem và nghe chương trình của ông (ông đã từng sang Việt

Nam năm 2007 để nói chuyện về lĩnh vực nghiên cứu của mình).
Trong dạy học: Việc sử dụng sơ đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng của bộ não,
giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp dạy học.
18
Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói quen tự tay
ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học, theo cách hiểu của học
sinh với dạng sơ đồ tư duy.
Sau khi cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo viên đưa ra
một chủ đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào trang vở, tờ giấy/ bìa)
rồi đặt câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3 Mỗi bài học
được tự vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem
lại kiến thức khi cần.
Đối với học sinh: Học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát triển khả
năng thẩm mỹ do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho
đẹp, sắp xếp các ý tưởng khoa học, súc tích… Và đó chính là để học sinh “Học cách
học”: Học sinh được học để tích lũy kiến thức, nhưng từ trước đến nay học sinh chưa biêt
cách học cách để lĩnh hội những kiến thức bộ môn lịch sử một cách hiệu quả.
Khái niệm của sơ đồ tư duy: Nguyên lý hoạt động theo nguyên tắc liên tưởng “ý
này gợi ý kia” của bộ não. Học sinh có thể tạo một sơ đồ tư duy ở dạng đơn giản theo
nguyên tắc phát triển ý: từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh lớn, từ mỗi nhánh lớn lại tỏa ra
nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vô tận. (Cách vẽ cũng rất giản đơn và còn rất nhiều
tiện ích khác khiến cho sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phổ biến toàn cầu).
1.3 Những lưu ý học sinh khi sử dụng sơ đồ tư duy
Màu sắc cũng có tác dụng kích thích bộ não như hình ảnh. Tuy nhiên, học sinh
cũng không cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ cần dùng một hai
màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian.
19
Nếu học sinh thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, thì
học sinh có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó – rất mới mẻ và tốn ít
thời gian.

Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự mềm mại,
cuốn hút.
Khi học sinh sử dụng những từ khóa riêng lẻ, mỗi từ khóa đều không bị ràng
buộc, do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ mới.
Nếu trên mỗi nhánh học sinh viết đầy đủ cả câu thì như vậyhọc sinh sẽ dập tắt khả
năng gợi mở và liên tưởng của bộ não. Não của học sinh sẽ mất hết hứng thú khi tiếp
nhận một thông tin hoàn chỉnh. Vì vậy, trên mỗi nhánh học sinh chỉ viết một, hai từ khóa
mà thôi. Khi đó, học sinh sẽ viết rất nhanh và khi đọc lại, não của học sinh sẽ được kích
thích làm việc để nối kết thông tin và nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần
nâng cao khả năng ghi nhớ của học sinh.
Giáo viên nên thường xuyên cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy khi làm việc
nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong môn học lịch sử, đặc biệt là khi ôn tập cho các
kỳ thi (dù là thi , học , đều sử dụng tốt). Sơ đồ tư duy cũng giúp các học sinh và các thầy
cô tiết kiệm thời gian làm việc ở nhà và trên lớp rất nhiều với các phần mềm sơ đồ tư duy
trên máy tính học sinh có thể làm tại nhà và gửi email cho các thầy cô chấm chữa trước
khi lên lớp.
2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy
2.1 Giới thiệu đôi nét về sơ đồ tư duy
Việc phát triển tư duy cho học sinh và giảng dạy kiến thức về thế giới xung quanh
luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của những người làm công tác giáo dục. Nhằm
20
hướng học sinh đến một phương cách học tập tích cực và tự chủ, giáo viên không những
cần giúp học sinh khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp học sinh hệ thống được
những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các
kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận
thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo…Một trong những công cụ hết sức
hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là sơ đồ tư duy.
2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
Sơ đồ tư duy (Mind Map) là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh,
để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại sơ đồ này được gọi là Mind

Mapping và được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960.
Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay
khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các
nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên
cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được
nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý
trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
Những yếu tố đã làm cho sơ đồ tư duy có tính hiệu quả cao và nền tảng của
chúng là:
Sơ đồ tư duy đã thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động.
Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não bộ của con người đều
cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và sử dụng. Khi có một thông tin mới
được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại
trước đó.
21
Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh đã đem lại một công dụng
lớn vì đã huy động cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự kết hợp này sẽ làm
tăng cường các liên kết giữa 2 bán cầu não, và kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng
tạo của chủ nhân bộ não.
Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ
thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc
trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm
tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học,
tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, v.v…
2.3 Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo sơ đồ tư duy
22
Một sơ đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với các loại bút
màu khác nhau, tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay đổi,
chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để tạo ra sơ đồ tư
duy. Một số phần mềm tiêu biểu trong thể loại “phần mềm mind mapping” (mind

mapping software).
Phần mềm Buzan’s iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy nhiên có thể
tải bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online Ltd. thực hiện. Trang chủ
tại www.imindmap.com
Phần mềm Inspiration: sản phẩm thương mại của công ty Inspiration Software,
Inc. Sản phẩm có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo đến lớp 5) rất dễ dùng
và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.inspiration.com
Phần mềm Visual Mind: sản phẩm thương mại của công ty Mind Technologies.
Phần mềm dễ sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa từ khóa. Có thể dùng thử
30 ngày. Trang chủ tại www.visual-mind.com
Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình trên Java.
Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng để thực hiện
mind mapping. Trang chủ tại:
/>Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm loại mind
mapping tại địa chỉ sau:
/>23
Mind mapping – Sơ đồ tư duy
Trước nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số. Với
cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não – não trái, mà chưa hề sử
dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu
sắc, không gian và sự mơ mộng. Hay nói cách khác, chúng ta vẫn thường đang chỉ sử dụng
50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi nhận thông tin. Với mục tiêu giúp chúng ta sử
dụng tối đa khả năng của bộ não, Tony Buzan đã đưa ra sơ đồ tư duy để giúp mọi người thực
hiện được mục tiêu này
24

P
3. Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy
Trước khi áp dụng phương pháp "Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch
sử ở trường THPT” giáo viên giới thiệu cho học sinh xem một số đoạn phim ngắn (có

gửi kèm theo đĩa CD gắn chung với SKKN) cho học sinh thấy hiệu quả của việc sử dụng
sơ đồ tư duy khi ghi bài, học bài và hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy gồm nội
dung cả bài học trên một trang giấy rất dễ học, dễ thực hiện và học sinh sẽ rất thích thú
25

×