Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Phần một: Mở đầu 1
Phần hai: Nội dung 1
I. Khái quát chung về hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá của
tổ chức tín dụng
1. Khái quát về hoạt động huy động vốn 1
2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá 2
3. Vai trò của hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá đối với hoạt
động huy động vốn của tổ chức tín dụng 5
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có
giá của các tổ chức tín dụng
1. Quy định chung về giấy tờ có giá 5
2. Chủ thể phát hành 6
3. Đối tượng được mua giấy tờ có giá 7
4. Điều kiện để phát hành giấy tờ có giá 7
5. Cơ chế xác lập giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng
a. Quy trình xác lập 10
b. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể 11
III. Nhận xét, đánh giá về huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng
1. Tích cực 11
2. Hạn chế 13
3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn thông qua
hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng 16
Phần ba: Kết luận 17
1
A. MỞ ĐẦU:
Với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh
tế đã không còn là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam đang
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện địa hoá đất nước, tích cực chủ động
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nên nhu cầu về vốn lại càng trở nên cấp


thiết. Với tư cách là các “trung gian tài chính”, các Tổ chức tín dụng (TCTD)
Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn
trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế với nhứng điều kiện nhất định. Vốn để
các TCTD tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh của mình không chỉ
riêng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là nguồn vốn huy động được. Do đó có thể nói
hoạt động huy động vốn có tác động rất lớn đến các tổ chức tín dụng cũng như
toàn bộ nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của hoạt động huy động vốn, Nhà
nước cần phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng, tạo điều
kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng và hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, phát hành giấy tờ có giá là giải pháp huy
động vốn khá dễ dàng và thuận lợi của các tổ chức kinh tế nói chung và tổ chức
tín dụng nói riêng từ công chúng. Theo Luật Các tổ chức tín dụng, các tổ chức
tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để
huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
B. NỘI DUNG:
I. Khái quát chung về hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có
giá của tổ chức tín dụng:
1. Khái quát về tổ chức tín dụng và hoạt động huy động vốn:
Khi nền sản xuất hàng hóa hình thành, phát triển thì tiền tệ xuất hiện và
nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Sự phát triển của ngành nghề kinh doanh
tiền tệ dẫn đến sự xuất hiện những tổ chức chuyên thực hiện hoạt động thu nhận
các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng, làm các dịch vụ
2
tiền tệ khác, người ta gọi chúng là các TCTD. Ngày nay các TCTD với nhiều
loại hình, tên gọi khác nhau, nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa dạng.
Xét theo góc độ kinh tế, TCTD là doanh nghiệp hoạt động với mục đích
lợi nhuận là chủ yếu; xét dưới góc độ pháp lý, TCTD là một định chế tài chính
trung gian thực hiện cung cấp các dịch vụ tiền tệ cho các chủ thể có nhu cầu.
TCTD mang những đặc điểm đặc thù như:

Một là, TCTD có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
Hai là, TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu,
thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đây là hoạt
động kinh doanh tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do tính chất kéo dài của các quan hệ
kinh doanh.
Ba là, TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) và thuộc phạm vi áp dụng của luật ngân hàng.
Hoạt động của TCTD rất phong phú và đa dạng. Các hoạt động này đã góp
phần quan trọng trong việc luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế và tạo ra
những tiện ích nhất định cho người dân. Một trong những hoạt động đầu tiên và
được biết tới một cách phổ biến, luôn gắn liền với các tổ chức tín dụng là hoạt
động huy động vốn.
Hiện tại trong các văn bản pháp luật chưa nêu ra khái niệm cụ thể của hoạt
động huy động vốn của các TCTD mà mới chỉ ra các hình thức huy động vốn
được phép của từng loại hình TCTD. Tuy nhiên, một cách khái quát có thể hiểu
hoạt động huy động vốn của TCTD là việc TCTD tập trung các khoản tiền từ các
tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua bốn hình thức huy động vốn cơ bản:
nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD, vay vốn của
Ngân hàng Nhà nước.
2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá:
Hiện nay, việc huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá của
các TCTD chủ yếu được điều chỉnh trong Quy chế phát hành giấy tờ có giá của
TCTD để huy động vốn trong nước ban hành kèm theo quyết định số
3
07/2008/QĐ-NHNN. Theo đó thì “giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát
hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong
một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
TCTD và người mua”. Về bản chất, giấy tờ có giá là một công cụ vay nợ trên thị
trường tiền tệ, thị trường vay vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ
tiền gửi, trong đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian

nhất định.
Hoạt động huy động vốn thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá là
việc các TCTD vay vốn của các tổ chức, cá nhân thông qua việc phát hành các
loại giấy tờ có giá với sự chấp nhận của Ngân hàng Nhà nước hoặc Ủy ban
chứng khoán Nhà nước. Giao dịch này mang những đặc điểm sau:
Một là, về bản chất pháp lý, việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín
dụng ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không
phải là hành vi “bán” giấy tờ có giá cho khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như
vậy là bởi vì, trong quan hệ giao dịch này, tổ chức tín dụng không hề có quyền
sở hữu đối với các giấy tờ có giá mà nó dự định phát hành, nên không thể đóng
vai trò là người bán. Mặt khác, trước khi các giấy tờ có giá được tổ chức tín dụng
chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư xác nhận quyền chủ nợ
và tổ chức tín dụng cũng chưa nhận được nguồn vốn tiền tệ do khách hàng
chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực tế, nghĩa là
không thể hoán đổi chúng thành tiền hay các tài sản khác có giá trị tương đương
với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Điều đó cho thấy, chỉ khi nào khách
hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với tổ chức tín dụng bằng số tiền tương
đương mệnh giá của chứng thư thì khi đó, chứng thư này mới thực sự là có giá trị
và mới phản ánh đúng tên gọi của nó là “giấy tờ có giá” hay “tư bản giả”.
Hai là, về đối tượng của giao dịch, mặc dù tên gọi của giao dịch là “phát
hành các giấy tờ có giá” nhưng đối tượng của giao dịch này không phải là các
giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành, mà chính là các khoản tiền vốn do
khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho tổ chức tín dụng với điều kiện tổ
4
chức tín dụng phải hoàn trả cho khách hàng sau một thời hạn nhất định, kèm theo
khoản lãi do các bên thoả thuận. Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của
giao dịch nhưng các chứng thư này được coi là hình thức pháp lý của giao dịch,
đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong
quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các chứng thư này cũng
được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không phải là tiền do Ngân hàng

Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi tổ chức tín dụng trong quá
trình huy động vốn, thông qua chức năng “tạo tiền” của tổ chức tín dụng. Trên
thực tế, các chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành ra công chúng có
thể là chứng khoán nợ ngắn hạn – có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, ví dụ
chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn; kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của tổ chức tín
dụng, hoặc là chứng khoán nợ dài hạn (có thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên,
ví dụ chứng thư tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân hàng…). Sự phân biệt giữa
hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu
thông chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi tổ chức
tín dụng (phát hành và bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào?).
Ba là, về tư cách pháp lý, khi phát hành các giấy tờ có giá để vay nợ của
khách hàng, tổ chức tín dụng có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn
khách hàng “mua” giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của tổ
chức tín dụng. Mặc dù có tư cách là người cho vay nhưng do giao dịch này được
tổ chức tín dụng và khách hàng xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho
vay có thời hạn xác định nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút
vốn về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại tổ chức tín
dụng (bằng cách chịu lãi suất phạt với tổ chức tín dụng nhận tiền gửi). Nếu muốn
thu hồi vốn về trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có giá (bên
cho vay) ký hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác (chẳng hạn,
có thể “bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết khấu hoặc bán
cho các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông thường trên thị trường
tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán).
5
3. Vai trò của hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá đối với
hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng:
Bằng cách huy động vốn, TCTD có khả năng tập trung một khối lượng
vốn lớn trong thời gian ngắn. Hình thức huy động vốn này thường được sử dụng
sau khi TCTD đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn, với thời hạn giải
ngân cụ thể của khách hành.

Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá, các TCTD
thường phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi guy động. Do đó nghiệp
vụ này chỉ được tiến hành khi TCTD thiếu vốn. Khi huy động vốn theo hình thức
này, TCTD phải căn cứ vào khả năng đầu ra để quyết định khối lượng vốn huy
động, mức lãi suất, thời hạn và phương pháp huy động vốn.
Cùng với nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi, nguồn vốn huy động từ
việc phát hành giấy tờ có giá cũng giữ một vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn
trong toàn bộ vốn kinh doanh của TCTD. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng lớn
đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của TCTD. Nguồn vốn này có xu
hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu hướng tăng trưởng và ổn định của nền
kinh tế, với việc cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ của TCTD, với việc gia
tăng nhu cầu thanh toán của khách hàng.
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy
tờ có giá của các tổ chức tín dụng:
1. Quy định chung về giấy tờ có giá:
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị
trường tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền
gửi, trong đó, TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất
định.
Theo pháp luật quy định: Giấy tờ có giá do TCTD phát hành là chứng
nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó, xác định nghĩa vụ trả nợ
một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản
cam kết khác giữa TCTD và người mua.
6
Giấy tờ có giá do TCTD phát hành bao gồm giấy tờ có giá ngắn hạn (thời
hạn dưới 12 tháng như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn tín phiều và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác) và giấy tờ có giá dài hạn (thời hạn từ 12 tháng trở
lên như: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn, và các giấy tờ có giá dài hạn
khác).
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể thể hiện dưới hình thức

chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có giá ghi danh hoặc không ghi
danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng đối với người mua là cá nhân. Hình
thức chứng chỉ vô danh áp dụng đối với người mua là cá nhân và tổ chức. Hình
thức ghi sổ áp dụng đối với người mua là tổ chức có tài khoản tiền gửi tại TCTD
phát hành. Trường hợp phát hành giáy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, TCTD
phát hành phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua.
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành được chuyển nhượng quyền sở hữu
dưới các hình thức mua, bán, tặng, cho, trao đổi, thừa kế hoặc người sở hữu giấy
tờ có giá có thể dùng làm vật cầm cố.
2. Chủ thể phát hành:
Theo Điều 2 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD (ban
hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 của Thống
đốc NHNN), các chủ thể phát hành giấy tờ có giá bao gồm:
- Các TCTD được thành lập, hoạt động theo Luật các TCTD, Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật các TCTD và đáp ứng các điều kiện theo quy định
của quy chế này, bao gồm:
+ Các TCTD Nhà nước.
+ Các TCTD cổ phần.
+ Quỹ tín dụng nhân dân trung ương.
+ Các TCTD liên doanh.
+ Các TCTD 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh ngân hang nước ngoài
được phép hoạt động tại Việt Nam.
7
- Riêng công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, loại giấy tờ có giá
và thời hạn giấy tờ có giá được phép huy động thực hiện theo quy định hiện hành
về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
3. Đối tượng được mua giấy tờ có giá:
Theo Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD (ban
hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 của Thống
đốc NHNN), người mua giấy tờ có giá bao gồm:

- Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của pháp
luật Việt Nam, bao gồm các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
và không hoạt động tại Việt Nam .
Đối với người mua giấy tờ có giá là tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức
tín dụng chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh.
4. Điều kiện để phát hành giấy tờ có giá:
TCTD muốn được huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá phải
thoả mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và được Thống đốc NHNN
hoặc người được Thống đốc NHNN uỷ quyền chấp thuận bằng văn bản. Cụ thể:
Thứ nhất, về điều kiện để được phát hành giấy tớ có giá bao gồm:
- Phải là các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ
chức tín dụng gồm: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức
tín dụng liên minh, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, các tổ chức tín dụng nước
ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Riêng công ty cho thuê tài chính chỉ
được phát hành giấy tờ có giá thời hạn trên 12 tháng
- Tuân thủ các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của NHNN.
- Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra ngân hàng.
- Trong trường hợp tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá theo phương
thức chào bán chứng khoán ra công chúng thì việc phát hành, niêm yết và giao
8
dịch giấy tờ có giá của TCTD tại thị trường chứng khoán tập trung được thực
hiện theo các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thứ hai, về trình tự và thủ tục phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
Tổ chức tín dụng muốn phát hành giấy tờ có giá phải nộp hồ sơ đề nghị
phát hành gửi đến NHNN trung ương (Vụ chính sách tiền tệ) hoặc Chi nhánh
NHNN tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính đối với tổ chức tín dụng cổ phần
trong trường hợp đề nghị phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Hồ sơ đề nghị bao
gồm:

- Đơn đề nghị phát hành giấy tờ có giá người ngắn hạn trong năm tài
chính, hoặc dài hạn.
- Kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn (trong đó nêu rõ mục đích
phát hành, phương án sử dụng, tổng số dư giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm tài
chính, số đợt và thời điểm dự kiến phát hành, tên gọi giấy tờ có giá phát hành,
đồng tiền phát hành) Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì phương án phát
hành trong đó nêu rõ mục đích phát hành, phương án sử dụng, tổng mệnh giá
phát hành, mệnh giá, tên gọi của mệnh giá, thời hạn, lãi suất, phạm vi phát hành,
cách thức địa điểm trả gốc và lãi, các điều kiện và điều khoản về quyền và nghĩa
vụ của TCTD và người mua. Phương án phát hành giấy tờ có giá dài hạn phải
được Hội đồng quản trị thông qua.
- Các báo cáo tài chính của hai năm liên tục gần nhất và tính đến thời điểm
có đơn đề nghị phát hành. Các TCTD có thời hạn hoạt động dưới hai năm gửi
các báo cáo tài chính từ khi bắt đầu hoạt động đến thời điểm có đơn đề nghị phát
hành. Nếu các TCTD đề nghị phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì các báo cáo tài
chính phải được một tổ chức kiểm toán được Ngân hàng Nhà nước thừa nhận
hoặc thanh tra NHNN xác nhận.
- Kế hoạch kinh doanh trong năm tài chính.
- Điều lệ và giấy phép hoạt động (đối với TCTD phát hành lần đầu).
- Các thay đổi về bộ máy tổ chức và thay đổi khác (nếu có).
- Mẫu giấy tờ có giá phát hành (nếu là phát hành giấy tờ có giá dài hạn).
9
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ đề
nghị phát hành giấy tờ có giá của TCTD, NHNN có quyết định chấp thuận hoặc
không chấp thuận đề nghị xin phát hành giấy tờ có giá của TCTD.
Trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị phát hành và điều kiện phát hành, Thống
đốc NHNN hoặc người được Thống đốc uỷ quyền ra quyết định chấp thuận,
không chấp thuận đối với kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong cả
năm hoặc đối với từng đợt phát hành giấy tờ có giá dài hạn của TCTD.
Sau khi có quyết định chấp thuận cho phát hành của người có thẩm quyền,

TCTD sẽ tiến hành phát hành giấy tờ có giá, cụ thể:
- Đối với phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, TCTD chủ động tổ chức các
đợt phát hành trong phạm vi kế hoạch cả năm đã được chấp thuận. Nếu phát
hành vượt quá kế hoạch phát hành trong cả năm đã được chấp thuận thì phải
được sự chấp thuận bổ sung bằng văn bản của NHNN nơi đã ra quyết định chấp
thuận phát hành. Trước thời điểm phát hành ít nhất 20 ngày làm việc, TCTD phải
gửi thông báo phát hành của đợt phát hành dự kiến về NHNN nơi đã ra quyết
định chấp thuận phát hành. Nếu trước ngày phát hành dự kiến 10 ngày làm việc,
NHNN không có ý kiến bằng văn bản thì TCTD được tổ chức phát hành giấy tờ
có giá. Hàng tháng, TCTD báo cáo bằng văn bản về kết quả phát hành giấy tờ có
giá ngắn hạn chậm nhất vào ngày 10 tháng tiếp theo cho NHNN nơi ra quyết
định chấp thuận.
- Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn, các TCTD phải công bố thông
báo phát hành giấy tờ có giá dài hạn trên các phương tiện thông tin đại chúng
trong thời gian tối thiểu 5 ngày liên tiếp trước khi phát hành. Thời điểm bắt đầu
phát hành chậm nhất không quá 45 ngày kể từ ngày Thống đốc NHNN chấp
thuận. TCTD chỉ được phát hành vượt quá tổng mệnh giá đã được chấp thuận khi
có sự chấp thuận bổ sung bằng văn bản của Thống đốc NHNN. Chậm nhất sau
10 ngày làm việc kể từ khi kết thúc đợt phát hành, TCTD báo cáo bằng văn bản
về kết quả phát hành giấy tờ có giá dài hạn về NHNN.
10
Thứ ba, về mệnh giá của giấy tờ có giá do TCTD phát hành được quy định như
sau:
Mệnh giá của giấy tờ có giá ngắn hạn được in sẵn hoặc theo thoả thuận
của TCTD phát hành với người mua.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do TCTD phát hành theo hình thức
chứng chỉ bằng đồng Việt Nam thì mệnh giá tối thiểu là một triệu đồng và tối đa
là một tỷ đồng. Nếu phát hành bằng ngoại tệ thì mệnh giá tối thiểu là 100USD
hoặc ngoại tệ khác tương đương và tối đa là 100.000USD hoặc ngoại tệ khác
tương đương. Các mệnh giá lớn hơn mệnh giá tối thiểu phải là bội số của mệnh

giá tối thiểu. Nếu chứng chỉ là trái phiếu thì mệnh giá được in sẵn hoặc theo thoả
thuận của TCTD phát hành với người mua. Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn
do TCTD phát hành theo hình thức ghi sổ thì do TCTD phát hành thoả thuận với
người mua.
TCTD huy động vốn bang phát hành giấy tờ có giá phải có trách nhiệm
công bố công khái về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh
toán tiền gốc và lãi đùng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và phải
thực hiện chế độ báo cáo phát hành cho NHNN theo quy định.
5. Cơ chế xác lập giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
a. Quy trình xác lập:
Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD quy định việc phát
hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trên phạm vi lãnh thổ
Việt Nam từ các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài. Phát hành giấy tờ
có giá là một hành vi pháp lý được quy định theo một quy trình chặt chẽ bao
gồm các công việc chủ yếu như: thông qua Hội đồng quản trị về kế hoạch phát
hành giấy tờ có giá để huy động vốn từ công chúng; làm thủ tục xin cấp phép
phát hành giấy tờ có giá tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (hiện tại cơ quan
này là NHNN Việt Nam); triển khai việc niêm yết và phân phối các giấy tờ có
giá cho những người đầu tư. Các hành vi này tuy phản ánh đầy đủ quy trình hình
thành giao dịch nhưng thực ra chứng cứ quan trọng nhất thể hiện tập trung ý chí
11
của TCTD trong giao dịch này, chính là các giấy tờ có giá do ngân hàng phát
hành. Mặt khác, vì các chứng thư này đã thể hiện rõ ràng, đầy đủ ý chí của tổ
chức tín dụng (muốn vay tiền của khách hàng với số lượng bao nhiêu, trong thời
hạn bao lâu và trả lãi như thế nào) nên về lý thuyết, có thể coi những chứng thư
đó như là bằng chứng quan trọng nhất về việc TCTD đã đưa ra đề nghị vay tiền.
Chứng thư nhận nợ, sau khi đã được công bố phát hành và niêm yết bởi tổ chức
tín dụng thì về nguyên tắc, họ không thể tự ý rút lại hay thay đổi nội dung bản đề
nghị trong thời hạn phát hành chứng thư do pháp luật quy định. Sở dĩ có thể
khẳng định như vậy là vì khi tiến hành các thủ tục phát hành chứng thư, TCTD

đã mặc nhiên chấp nhận các quy định của pháp luật về thời hạn phát hành chứng
thư và điều đó có nghĩa rằng: TCTD đã tự mình đưa ra thời hạn trả lời đề nghị
cho tất cả các chủ thể khác là người tiếp nhận đề nghị. Trong trường hợp này, có
thể coi bản đề nghị hợp đồng chung như vậy là loại hợp đồng không có thương
lượng, hay hợp đồng “gia nhập”. Do đó, chỉ khi nào khách hàng thể hiện ý chí
chấp nhận bản đề nghị đó một cách vô điều kiện bằng hành động chuyển giao
cho TCTD quyền sở hữu số tiền ghi trên chứng thư và nhận về mình quyền sở
hữu đối với chứng thư được TCTD chuyển giao thì khi đó, ý chí của hai bên mới
có sự thống nhất và hợp đồng vay tiền mới được hình thành, kéo theo hệ quả làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên cam kết.
b. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể:
Trong số các quyền, nghĩa vụ được tạo ra bởi các bên từ giao dịch phát
hành giấy tờ có giá thì đối với TCTD là ngân hàng, những quyền, nghĩa vụ cơ
bản nhất bao gồm: quyền sở hữu đối với khoản tiền thu được do phát hành giấy
tờ có giá và đồng thời cũng có nghĩa vụ hoàn trả số tiền này cho khách hàng kèm
theo khoản lãi khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán.
Còn đối với khách hàng, họ được sở hữu giấy tờ có giá do ngân hàng phát
hành và chuyển giao, trong đó xác nhận quyền chủ nợ của khách hàng đối với
ngân hàng phát hành giấy tờ có giá. Với quyền năng này, khách hàng có thể chờ
đợi đến ngày đáo hạn của giấy tờ có giá để đòi tiền từ ngân hàng, hoặc nếu muốn
12
thu hồi vốn trước kỳ hạn thì họ có thể “bán” chứng thư đó cho người khác trên
thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán như một loại tài sản.
III. Nhận xét, đánh giá về huy động vốn thông qua hoạt động phát hành
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
1. Tích cực:
Ở Việt Nam, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng (cụ
thể hơn là trái phiếu ngân hàng) được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh ngân
hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sau đó, văn bản này được cụ thể
hoá bằng các Quyết định số 212/QĐ-NH1 ngày 22/9/1994; Quyết định số

214/QĐ-NH1 ngày 23/9/1994; Quyết định số 243/QĐ-NH1 ngày 30/3/1994 và
Quyết định số 247/QĐ-NH1 ngày 05/10/1994 về việc cho phép các tổ chức tín
dụng, ngân hàng đầu tư phát triển được phát hành trái phiếu ngân hàng cho các
tổ chức, cá nhân Việt Nam để huy động vốn trung hạn và dài hạn trên thị trường
vốn. Gần đây, giao dịch phát hành trái phiếu ngân hàng và các giấy tờ có giá
khác lại tiếp tục được quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng ban hành ngày
12/12/1997 (đạo luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2004)
và được cụ thể hoá bằng các văn bản dưới luật như Nghị định số 49/2000/NĐ-CP
ngày 12/9/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương
mại (khoản 2 Điều 3); Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 của Chính
phủ về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện
của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam (khoản 2 Điều 30); Quyết định số
1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy
động vốn trong nước. Sau đó, văn bản này đã bị thay thế bởi Quyết định số
02/2005/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy
động vốn trong nước (sau đây gọi tắt: Quyết định số 02). Gần đây nhất, Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày
24/3/2008 ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín
13
dụng (sau đây gọi tắt: Quyết định số 07) để thay thế cho Quyết định số 02. Hành
động này có thể xem như một nỗ lực đáng kể của Ngân hàng Nhà nước trong
việc kết nối hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng với thị trường chứng
khoán, thông qua đó góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán
Việt Nam, vốn đang gặp nhiều khó khăn trong thời điểm hiện nay.
Có thể nói, việc ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày
24/3/2008 là cần thiết và đúng hướng. Văn bản này, đã từng bước thiết lập sự
đồng bộ giữa các quy định về phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với
các quy định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công

chúng. Đặc biệt, văn bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn
bản bị thay thế chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, chẳng hạn như: quyền phát
hành trái phiếu chuyển đổi và chứng quyền của tổ chức tín dụng cổ phần; việc áp
dụng cơ chế phát hành thông qua phương thức đấu thầu, thông qua tổ chức làm
đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo lãnh phát hành chứng khoán…
Pháp luật quy định rõ ràng các hình thức phát hành giấy tờ có giá bao gồm
hình thức chứng chỉ ghi danh, chứng chỉ vô danh và ghi số. Trong đó, giấy tờ có
giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi số có
ghi tên người sở hữu; giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình
thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền
sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá. Các thông tin cần thiết ghi trên chứng
thư được quy định tại Điều 8 của quy chế. Việc quy định chi tiết các yếu tố của
giấy tờ có giá nhằm đảm bảo giá trị thanh toán của giấy tờ có giá đồng thời đảm
bảo cho các chủ thể thực hiện được quyền của mình.
Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD đã đưa ra được
các quy định cụ thể trong việc phát hành từng loại giấy tờ có giá như: các quy
định liên quan đến việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, dài hạn. Đặc biệt, văn
bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn bản bị thay thế chưa
quy định hoặc quy định chưa rõ, chẳng hạn như: quyền phát hành trái phiếu
chuyển đổi và chứng quyền của tổ chức tín dụng cổ phần, việc áp dụng cơ chế
14
phát hành thông qua phương thức đấu thầu, thông qua tổ chức làm đại lý hoặc tổ
chức trung gian bảo lãnh phát hành chứng khoán…
2. Hạn chế:
Nhìn chung, các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động phát hành
giấy tờ có giá của TCTD là ngân hàng khá đầy đủ và cụ thể, tạo hành lang pháp
lý cho các ngân hàng thực hiện hoạt động này một cách có hiệu quả. Việc ban
hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 đã tạo bước tiến hoàn
thiện hơn các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này. Song nhìn từ góc
độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN vẫn

còn một số điểm bất cập, hạn chế sau:
- Thứ nhất, về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành giấy tờ có giá. Trên
nguyên tắc, việc phát hành các giấy tờ có giá của TCTD là ngân hàng chính là
những thỏa thuận vay nợ giữa ngân hàng với khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng
định như vậy là bởi vì, thực chất các giấy tờ có giá được phát hành theo quy chế
này đều là những phiếu nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để cam kết hoàn trả
một số tiền nhất định ghi trên giấy tờ có giá đó cho người sở hữu vào một ngày
nhất định trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi phát hành giấy tờ có giá
cho người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, tổ chức tín dụng không phải là “người
bán” giấy tờ có giá mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư (người vay), còn khách
hàng là tổ chức, cá nhân cũng không phải là “người mua” giấy tờ có giá theo
đúng nghĩa của từ này mà chỉ là người đầu tư gián tiếp vào tổ chức tín dụng bằng
cách cho vay đối với chủ thể này để được nhận một khoản lãi cho vay theo thoả
thuận. Tuy nhiên, các quy định hiện hành trong Quyết định số 07 lại thể hiện
quan điểm coi giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng như là một
giao dịch “mua bán” giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất
là giao dịch cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng.
- Thứ hai, mặc dù Quyết định số 07 đã đặt nền móng cho việc nhất thể hoá
các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng, nhưng nét
nổi bật dễ nhận thấy trong văn bản pháp quy này là nhà làm luật vẫn chủ trương
15
tách bạch giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với hoạt
động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức khác không phải là tổ chức tín
dụng. Điều này thể hiện ở chỗ, hiện tại, việc phát hành các giấy tờ có giá của các
chủ thể không phải là tổ chức tín dụng đang được thực hiện theo quy định của
Luật chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ
chức tín dụng để huy động vốn (trong đó chủ yếu là các trái phiếu ngân hàng) thì
vẫn được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban hành kèm theo Quyết
định này. Theo thiển nghĩ của người viết, quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ
trái phiếu ngân hàng thực chất cũng là một loại chứng khoán dài hạn nên về

nguyên tắc cần phải được phát hành và lưu thông trên thị trường chứng khoán,
giống như cổ phiếu và trái phiếu công ty hay trái phiếu chính phủ. Đặc biệt, việc
phát hành Hối phiếu nhận nợ của các tổ chức tín dụng cho khách hàng (người
cho vay), với ý nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn để huy động vốn, đồng
thời tạo thêm “hàng hoá” cho thị trường tiền tệ, cũng chưa được đề cập đến trong
Quy chế này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu đến Luật các công cụ
chuyển nhượng.
- Thứ ba, mặc dù thủ tục phát hành và thanh toán giấy tờ có giá do tổ chức
quy định phù hợp với đặc điểm, mô hình quản lý của TCTD đảm bảo việc phát
hành và thanh toán giấy tờ có giá được chính xác và an toàn (Điều 12 Quy chế)
song trên thực tế thủ tục phát hành vẫn còn rườm rà, đặc biệt trong việc phát
hành giấy tờ có giá dài hạn. Mỗi khi tiến hành giấy tờ có giá ngân hàng không
chỉ phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định tại thời điểm đó như: tuân
thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các
tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín
dụng và hướng dẫn của NHNN, có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ
ngày tổ chức tín dụng chính thức đi vào hoạt động, tổng lợi nhuận trước thuế so
vốn chủ sở hữu của năm liền kề năm phát hành phải đạt từ 10% trở lên và tính
đến thời điểm gần nhất phải có lãi mà còn phải xin phép NHNN và phải chờ 15
ngày làm việc để Thống đốc NHNN xem xét việc ra quyết định về việc phát
16
hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của TCTD (Điều 22 Quy chế).
Việc quy định phải xin phép này, một mặt làm lỡ cơ hội kinh doanh của các ngân
hàng, mặt khác làm chậm lại quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Pháp
luật nên có những quy định mang tính chất nguyên tắc về thủ tục và điều kiện
phát hành, theo đó ngân hàng nào đáp ứng được các điều kiện này sẽ được tiến
hành hoạt động thay vì phải xin phép như hiện nay. Hơn nữa việc quy định như
vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh vừa
đảm bảo vai trò quản lý nhà nước, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin cho” mà hiện
nay chúng ta đang nỗ lực thực hiện, giảm thiểu đến mức tối đa sự can thiệp của

nhà nước vào hoạt động nghiệp vụ của các TCTD là ngân hàng, đẩy mạnh cải
cách hành chính trong lĩnh vực ngân hàng.
Ngoài ra theo Thông tư số 16 do Thống đốc NHNN ký ban hành ngày
11/8/2009, để được phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng
quyền, các TCTD phải có kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước
năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi; tỷ lệ xấu trên tổng dư
nợ của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất là dưới
5%.
Các TCTD muốn phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng
quyền thì phải được sự chấp thuận của Thống đốc NHNN. Nếu phương án tăng
vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng
quyền đã được đại hổi cổ đông thông qua có thay đổi, TCTD phải báo cáo với cơ
quan thanh tra, giám sát ngân hàng để được xem xét chấp thuận.
Nếu TCTD muốn thay đổi mức vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu
trên thì trong hồ sơ đề nghị phát hành trái phiếu phải ghi rõ các nội dung theo
quy định hiện hành của NHNN…
3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn thông qua
hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng:
- Cần rút ngắn hơn nữa thời hạn để Thống đốc NHNN xem xét và ra quyết
định về việc phát hành giấy tờ có giá sau khi nhận được hồ sơ đề nghị phát hành
17
của TCTD cũng như bổ sung một cách chi tiết hơn các quy định trong trường
hợp TCTD đề nghị được phát hành vượt kế hoạch đã được xét duyệt, bổ sung
Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN những quy định cụ thể về giới hạn tổng mệnh
giá giấy tờ có giá mà TCTD được phát hành.
- Nên tiếp cận việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD đúng với bản chất
pháp lý của nó chính là những thỏa thuận vay nợ của TCTD và khách hàng, trên
cơ sở đó có những quy định phù hợp.
- Nhất thể hóa các quy chế về phát hành giấy tờ có giá của TCTD với Luật
Chứng khoán 2006, dần đưa việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD và của các

tổ chức khác vào điều chỉnh chung bởi một hành lang pháp lý. Điều này sẽ tạo ra
tính thanh khoản cao hơn cho các giấy tờ có giá do TCTD phát hành cũng như
hạn chế một số bất cập của pháp luật hiện hành.
- Phát huy hơn nữa hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở thông qua các biện
pháp như: ổn định lãi suất phù hợp với diễn biến thực tế trên thị trường và điều
tiết vốn khả dụng của các TCTD ở mức hợp lý; sử dụng linh hoạt các phương
thức đấu thầu khối lượng, lãi suất với các kỳ hạn phù hợp.
C. KẾT LUẬN:
Vốn là điều kiện sống còn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sử dụng
nguồn vốn có hiệu quả là một trong các biện pháp hàng đầu để phát triển kinh tế
đất nước. Để nền kinh tế đạt được tốc độ phát triển cao như hiện nay ở nước ta
đã thực hiện biện pháp huy động vốn khác nhau như huy động vốn từ nguồn
ngân sách Nhà nước, huy động vốn bằng nhận tiền gửi, và đặc biệt là hoạt động
huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá của các TCTD và đã đạt được
một số thành tựu đáng khích lệ. Mặc dù vậy trong quá trình huy động vốn trong
nền kinh tế vẫn còn tồn tại những vấn đề cần phải giải quyết, những nhân tố tiêu
cực cần xóa bỏ. Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ phần nào giúp cho nền
kinh tế khắc phục tình trạng thiếu vốn trầm trọng hiện nay.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1) Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội.
2) Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 (đã sửa đổi bổ sung năm
2003).
3) Luật các Tổ chức tín dụng 19997 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2004).
4) Bàn về giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng - Tiến sỹ
Nguyễn Văn Tuyến - Tạp chí Ngân hang số 9/2008.
5) Pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam : Khoá
luận tốt nghiệp / Phạm Thị Trang; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Ánh
Vân.
6) Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng là ngân

hàng : Khoá luận tốt nghiệp / Tường Thị Thu Hiền; Người hướng dẫn: TS.
Phạm Thị Giang Thu.
7) Bảo đảm an toàn huy động vốn của các tổ chức tín dụng - Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện : Khoá luận tốt nghiệp / Phan Nữ Hiền Oanh;
Người hướng dẫn: ThS. Phạm Nguyệt Thảo.
8) Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của các Tổ chức tín dụng
(ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước).
9) Thông tư của Ngân hàng Nhà nước số 16/2009/TT-NHNN ngày
11/8/2009 sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế phát hành giấy tờ có
giá trong nước của Tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số
07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
19

×