Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập Hóa học tính theo phương trình hóa học ở lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.15 KB, 26 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI BÀI
TẬP HÓA HỌC TÍNH THEO PHƯƠNG TRÌNH HÓA HỌC Ở LỚP
10”
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÝ CHỌN ĐỀ TÀI:
Hoá học là môn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục ở
bậc THPT. Chương trình hoá học THPT hiện nay nhằm mục tiêu hình thành một số kĩ
năng cơ bản và thói quen học tập, làm việc khoa học, phát triển khả năng nhận thức,
năng lực chủ động cho học sinh, đồng thời trang bị cho học sinh một vốn kiến thức cơ
bản đầy đủ để tiếp tục học cao hơn nũa và đi vào cuộc sống lao động trong tương lai một
cách vững vàng hơn.
Trong thực tiễn dạy học có rất nhiều học sinh không nắm được bài từ các thao
tác giải những bài tập mẫu đơn giản. Trong khi đó giải bài tập hoá học học sinh không
chỉ đơn thuần là vận dụng kiến thức cũ mà cả tìm kiến thức mới và vận dụng kiến thức cũ
trong những tình huống mới. Vì vậy một trong những trọng tâm của cải cách giáo dục
nhằm phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo trong học tập của học sinh. Nhận thấy
được vấn đề này trong quá trình giảng dạy, tôi đã nghiên cứu để đưa ra phương pháp
giảng dạy phù hợp với học sinh THPT đặc biệt với học sinh THBT, giúp học sinh xây
dựng các dạng bài toán hoá học cơ bản thường gặp để các em có một tư liệu học tập và
không lúng túng trước các bài tập hoá học. Tôi mong muốn có thể góp phần vào việc giáo
dục học sinh giúp các em có phương pháp học tốt nhất, kích thích lòng say mê học hỏi,
tìm tòi và nghiên cứu của các em. Từ những lý do đó tôi viết đề tài: “Một số kinh
nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập hoá học tính theo phương trình hoá học ở lớp
10 BTTH” .
II. NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI:
Chương trình hoá học THPT ngoài nhiệm vụ hình thành một số kĩ năng cơ bản,
thói quen học tập, làm việc khoa học thì việc phát triển năng lực nhận thức, năng lực
hành động và tư duy cho học sinh cũng là nhiệm vụ không kém phần quan trọng. Qua
quá trình trực tiếp giảng dạy bộ môn hoá học ở TTGDTX- DN Bá Thước, tôi thiết nghĩ


việc giải bài tập hoá học thực sự là khó đối với học sinh THBT, đặc biệt là học sinh trung
tâm GDTX-DN Bá Thước (do học sinh trung tâm đầu vào rất thấp). Đa số học sinh chưa
biết cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập. Từ không biết, không hiểu, học sinh
thường chán nản, không có hứng thú trong học tâp.Vì vậy, với mục đích trên, đề tài nhằm
hướng dẫn hình thành kĩ năng giải bài tập (vô cùng cần thiết) cho các em .Từ đó gây
được hứng thú lòng say mê học tập và yêu thích môn học của tất cả học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
“ Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài tập hoá học tính theo phương trình
hoá học ở lớp 10 trường Trung Tâm GDTX-DN Bá Thước ” .
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Chương trình hóa học lớp 10, phần hướng dẫn giải bài tập.
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
2. Phương pháp thực nghiệm
3. Phương pháp điều tra cơ bản.
VI. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Hoá học là môn khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm. Đây là một trong những
bộ môn khó đối với học sinh lớp 10 mặc dù các em đã được học ở chương trình THCS,
nhưng mãi tới lớp 8,9 mới bắt đầu học. Đây cũng là thời gian một số học sinh lơ là trong
việc học tập. Vì vậy việc tiếp thu kiến thức của học sinh gặp không ít khó khăn. Chương
trình hoá học lớp 10 ngoài mục tiêu truyền đạt cho học sinh kiến thức theo mục tiêu giáo
dục của Bộ giáo dục và Đào tạo, còn nhằm hình thành cho học sinh những kĩ năng giải
bài tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phải tích cực tư duy và suy nghĩ để giải
một số bài tập hoá học cơ bản, từ đó học sinh mới có thể rút ra phương pháp để tiến hành
giải một dạng bài tập hoá học nào đó. Việc giải bài tập hoá học là một trong những hình
thức luyện tập và trao đổi kiến thức chủ yếu cho học sinh và được tiến hành nhiều nhất
trong việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng vận dụng kiến thức vào giải bài tập. Do đó các
bài tập hoá học có một vai trò quan trọng trong việc hình thành kĩ năng và vận dụng kiến
thức vào giải bài tập đúng như Đanilôp đã nói:“ Kiến thức sẽ được nắm vững thật sự

nếu học sinh có thể vận dụng thành thạo chúng vào việc hình thành những bài tập lý
thuyết và thực hành”.
Chính vì vậy, trong quá trình giải bài tập hoá học, học sinh bắt buộc phải thực hiện
các thao tác tư duy để tái hiện kiến thức cũ đã được học , tìm ra mối liên hệ bản chất giữa
các sự vật và hiện tượng. Học sinh phải phân tích tổng hợp, biết phán đoán suy luận để
tìm ra lời giải cho bài toán . Nhờ vậy tư duy của học sinh được phát triển và khả năng làm
việc độc lập của học sinh được nâng cao. Bài tập hoá học là một phương tiện hữu hiệu
tích cực hoá hoạt động tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học hoá học. Dạy
học để giải bài tập hoá học song song với việc dạy học bằng giải bài tập hóa học, đã giúp
học sinh tích cực chủ động sáng tạo trong việc giải bài tập hóa học, để từ đó tìm kiếm
kiến thức và kĩ năng mới cho học sinh. Những kiến thức kĩ năng không phải do giáo viên
rót vào học sinh, nhồi cho học sinh mà thông qua hoạt động tích cực tư duy, chủ động
,sáng tạo của học sinh mà các em đã tìm kiếm được và đạt được nó. Việc học của học
sinh là một quá trình hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo chính nhờ các bài tập hoá
học được đưa ra đúng lúc, vừa trình độ để học sinh có thể tự giải quyết được. Ngoài ra
bài tập hoá học còn là công cụ hữu hiệu để kiểm tra kiến thức, kĩ năng nắm bắt kiến thức
cơ bản của học sinh. Nó giúp giáo viên phát hiện được trình độ của học sinh, làm bộc lộ
những kiến thức còn thiếu của học sinh trong học tập hoá học, đồng thời có biện pháp
giúp học sinh vượt qua khắc phục những kiến thức còn thiếu, còn hổng của học sinh. Bài
tập hoá học còn giúp học sinh mở mang hiểu biết thực tiễn của mình, giúp giáo dục tư
tưởng đạo đức và rèn luyện phong cách làm việc của người lao động mới, làm việc có kế
hoạch, có phân tích tìm phương hướng trước khi làm việc cụ thể. Rèn cho học sinh tác
phong làm việc tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo trong công việc.
Thông qua các vấn đề nêu trên tôi thấy rất rõ vai trò, tác dụng của bài tập hoá học
đối với học sinh. Chính vì vậy tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, nhằm tìm tòi, lựa chọn
phương pháp giảng dạy phù hợp để giúp học sinh có phương pháp giải bài tập hoá học ở
chương trình hoá học THPT nói chung và chương trình hóa học lớp 10 trường Trung
Tâm GDTX- DN Bá Thước nói riêng.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Giúp học sinh nắm vững kiến thức giải các bài tập hóa học lớp 10.Thông qua việc

giải bài tập hoá học giúp học sinh hình thành kĩ năng cơ bản củng cố kiến thức, kĩ năng
về giải bài tập hoá học. Để làm được điều đó, đòi hỏi người dạy phải có phương pháp phù
hợp với đối tượng học sinh, và quan trọng hơn phải có sự chuẩn bị tốt về kiến thức giải
các bài tập để truyền đạt một cách hiệu quả nhất.
B. NỘI DUNG
1. Thực trạng dạy và học môn hóa học ở trung tâm GDTX-DN Bá Thước:
Trung Tâm GDTX- DN Bá Thước là một trường miền núi đang còn nhiều khó
khăn về mọi mặt, đặc biệt là vấn đề đầu vào của học sinh còn quá thấp và sĩ số học sinh
không đảm bảo lớp chỉ có 11 học sinh .đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tinh thần học
tập của học sinh .
Đối với giáo dục học sinh nói chung và truyền đạt kiến thức nói riêng trong các
nhà trường hiện nay, việc lựa chọn phương pháp phù hợp là ưu tiên hàng đầu. Qua quá
trình trực tiếp giảng dạy, điều tra tìm hiểu, thu thập thông tin tôi nhận thấy học sinh còn
mắc nhiều thiếu sót trong khi giải bài tập hoá học và ngay cả giáo viên dù luôn luôn
không ngừng học hỏi và phấn đấu để có những giờ dạy tốt nhất thì vẫn còn một số hạn
chế trong khi dạy. Ở mức độ của đề tài này tôi chỉ xin nêu lên thực trạng trong giải bài
tập hoá học tính theo phương trình hoá học ở lớp 10 trường Trung Tâm GDTX-DN Bá
Thước.
- Về phía học sinh: Do chất lượng không đồng đều, còn rất yếu về kiến thức tự nhiên
nói chung, kiến thức về môn hóa nói riêng. Phương pháp học mới là tự tìm hiểu, tự
nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự làm thí nghiệm,tự nhận xét để
rút ra kết luận là điều hết sức khó khăn đối với học sinh Trung Tâm GDTX- DN Bá
Thước. Đa số học sinh học kém, lười học, không nắm vững kiến thức cơ bản nên rất khó
khăn trong việc vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập lý thuyết và thực hành. Học
sinh thường vận dụng và sử dụng chưa thành thạo các phương pháp suy luận hoặc áp
dụng các phương pháp một cách máy móc thiếu linh hoạt. Do đó bị hạn chế trong việc
rèn luyện năng lực chủ động, sáng tạo trong giải bài tập hoá học cụ thể.
- Về phía giáo viên: Với phương pháp giảng dạy hiện nay cũng còn gặp nhiều khó khăn
cần phải khắc phục : phòng học thì xuống cấp, số lượng học sinh trong lớp lại ít gây bất
lợi cho việc phân nhóm thảo luận nên kết quả thảo luận chưa cao.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn song thầy trò trường Trung Tâm GDTX- DN Bá
Thước. Vẫn ra sức rèn luyện quyết tâm thực hiện tất cả mục tiêu giáo dục của bộ môn
hoá học đề ra, tìm ra các biện pháp phù hợp với tình hình của nhà trường để đạt kết quả
mong muốn. Giúp học sinh nắm vững được kiến thức và hình thành những kĩ năng mới
giải quyết các dạng bài tập hoá học tính theo phương trình hoá học ở lớp 10 một cách
thành thạo.
2. Chuẩn bị thực hiện:
Để hình thành và rèn luyện kỹ năng giải bài tập hoá học nhằm nâng cao chất lượng, nắm
vững kiến thức hoá học, một trong những biện pháp là dạy học sinh tìm kiếm lời giải.
Muốn vậy cần phải hướng dẫn học sinh để các em nắm được phương pháp chung giải
từng dạng bài tập, qua việc hướng dẫn các em giải bài tập theo các dạng bài tập từ đơn
giản đến bài tập khó và nâng cao. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy luyện tập giải bài
tập hoá học nói chung và bài tập tính theo phương trình hoá học nói riêng cần được thực
hiện theo quy trình sau:
- Luyện tập theo mẫu:
Trước khi cho học sinh giải bài tập một cách độc lập, chủ động thì trước hết các
em phải có kĩ năng giải một số dạng bài tập đơn giản, cơ bản .Quá trình luyện tập theo
mẫu giúp các em rèn luyện một số kĩ năng cơ bản và có một định hướng chung để giải
các bài tập hoá học. Việc luyện tập có thể rải rác ở một số bài học riêng đây là giai đoạn
quan trọng trong việc phát triển kĩ năng hoạt động sáng tạo của học sinh sau này.
- Luyện tập không theo mẫu:
Trước khi học sinh nắm được phương pháp chung để giải bài tập tính theo phương
trình hoá học, theo tôi cần phải cho các em luyện tập trong những tình huống có biến đổi,
những điều kiện và yêu cầu của bài tập đề ra, có thể biến đổi từ dạng bài tập đơn giản đến
dạng bài tập phức tạp cùng với sự phát triển của kiến thức hoá học. Đây chính là giai
đoạn học sinh tự tập giải các bài tập ở mức độ khó hơn, để các em phát triển kĩ năng tư
duy cao hơn , qua đó tôi đã lựa chọn và sắp xếp các bài tập từ mức độ dễ đến mức độ
khó.
- Luyện tập thường xuyên :
Để củng cố và phát triển kĩ năng giải bài tập một cách nhuần nhuyễn, mềm dẻo,

linh hoạt và sáng tạo giáo viên cần giúp cho các em học sinh vận dụng các kĩ năng giải
bài tập với yêu cầu của bài tập với mức độ khó dần . Mặc dù kĩ năng đã thành thạo nếu
không được thường xuyên luyện tập thì kĩ năng đó sẽ không được củng cố và phát triển.
- Luyện tập theo nhiều hình thức giải bài tập khác nhau:
Sau khi học sinh đã có kỹ năng giải các bài tập cơ bản thì cần cho các em làm đa
dạng các bài tập,cần phối hợp nhiều hình thức giải bài tập, học sinh không những giải bài
tập ở giờ chính khoá mà còn giải bài tập ở giờ ngoại khoá, tự học ở nhà.
Với những yêu cầu đặt ra như vậy trong quá trình dạy học tôi đã tiến hành thực
hiện hướng dẫn học sinh lớp 10 giải bài tập hoá học tính theo phương trình hoá học gồm
các dạng như sau:
a- Tính khối lượng hoặc thể tích hoặc số mol của một chất khi biết khối lượng hoặc số
mol hoặc thể tích của một chất khác trong PTHH mà các em đó được làm quen ở chương
trình hóa học THCS:
- Hướng dẫn HS giải bài tập tính theo PTHH,tìm số mol của chất A theo số mol xác
định của chất bất kỳ trong PTHH.
Ở dạng bài tập này trước tiên đưa ra các bài tập mẫu hướng dẫn các em giải bài tập
một cách chi tiết.
3. Ví dụ thử nghiệm giải một số bài tập trong chương trình lớp 10
Ví dụ:Tính số mol của kalioxit(K
2
O) tạo thành nếu có 0,4 mol kali bị đốt cháy hoàn toàn.
Giáo viên yêu cầu học sinh
nghiên cứu đề bài
Giáo viên hướng dẫn học
sinh xác định hướng giải.
Bước 1: Viết PTHH xảy ra.
Bước 2:Xác định tỷ lệ số mol
giữa chất cho(K) và chất cần
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định
được:

Tính số mol K
2
O dựa vào tỷ lệ số mol
giữa K và K
2
O trong PTHH.
Học sinh trình bày lời giải :
PTHH : 4K + O
2

2K
2
O
tìm(K
2
O)
Bước 3: thiết lập quan hệ
bằng cách theo điều kiện đầu
bài .
Bước 4: Trả lời
Theo PTHH: 4mol
2mol
Theo đề: 0,4mol
xmol


x=
=
4
2.4,0

0,2 (mol)
Có 0,2 mol K
2
O tạo thành .
- Hướng dẫn học sinh giải bài tập tính khối lượng chất A theo số mol chất khác trong
PTHH.
Ví dụ :Tính khối lượng của Kali tác dụng vừa đủ với 0,2 mol khí oxi để tạo thành
Kalioxit .
Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên
cứu đầu bài.
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác
định hướng giải.
Bước 1: Viết PTHH xảy ra.
Bước 2:Xác định tỷ lệ số mol giữa
chất cho(O
2
) và chất cần tìm(K)
Bước 3: Thiết lập quan hệ bằng
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định
được:
Tính số mol K dựa vào tỷ lệ số mol
giữa K và O
2
trong PTHH.
Học sinh trình bày lời giải :
PTHH : 4K + O
2
→ 2K
2
O

Theo PTHH: 4mol 1mol
Theođề: xmol 0,2mol
cách theo điều kiện đầu bài .
Tính số mol chất cần tìm
Bước 4:Đổi mol ra đơn vị mà đầu
bài yêu cầu.
Bước 5: Trả lời


x=
0,2.4
1
= 0,8mol
Biết M
K
=39g
Vậy khối lượng của kali là:
m
K
= n.M = 0,8.39 = 31,2g
Vậy cần 31,2g K
- Hướng dẫn học sinh giải bài tập tính thể tích khí tham gia hoặc tạo thành sau phản ứng:
Ví dụ: Tính thể tích khí H
2
tạo thành ở( đktc), khi cho 2,7g Al tác dụng với dung dịch
HCl dư.
Giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu đầu
bài.
Giáo viên hướng dẫn

học sinh xác định
hướng giải theo 2 cách.
Bước 1: Đổi ra số mol
Al
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định được:
Tính số mol H
2
,suy ra thể tích H
2
ở điều
kiện tiêu chuẩn.
- Cách 1:
Học sinh trình bày lời giải .
M
Al
= 27g
Số mol của Al là:
Bước 2:Tính chất mol
H
2
- Viết PTHH
-Xác định số mol Al và
H
2
theo PTHH
- Tìm số mol H
2
theo
đầu bài
Bước 3: Đổi ra đơn vị

đầu bài yêu cầu .
Thể tích của 0,15 mol
H
2
(đktc).
Bước 4:Trả lời:
n =
=
M
m
27
7,2
=0,1 mol
PTHH 2Al + 6H Cl → 2 AlCl
3
+
3H
2
TheoPTHH: 2mol
3mol
Theođề: 0,1mol → x mol

x =
2
3.1,0
= 0.15 (mol)
Vậy thể tích khí của H
2



(đktc) là :
V= n .22,4= 0,15.22,4 =3,36 (lít)
Thể tích khí hiđrô tạo thành là 3,36 (lít) ở
đktc
- Cách 2:
PTHH 2Al + 6HCl → 2 AlCl
3
+ 3H
2
Theo dữ kiện bài ra ta tính được số mol của
Al
n =
=
M
m
27
7,2
=0,1 (mol)
Theo PTHH ta có: n
H
=
2
3
n
Al
=
2
3
15,01,0 =×


(mol)
Vậy thể tích khí của H
2


(đktc) :
V= n .22,4= 0,15.22,4 =3,36 (lít)
Thể tích khí hiđrô tạo thành là 3,36 (lít) ở
đktc

Sau khi giáo viên hướng dẫn các bài tập trên, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra phương
pháp chung để giải các bài tập đó
Bước 1: Đổi ra số mol (nếu đề tài cho khối lượng hoặc thể tích của chất khí)
Bước 2: Viết và cân bằng PTHH.
Tìm tỉ lệ số mol giữa chất cho và chất tìm.
Bước 3: Lập quan hệ tỉ lệ giữa chất cho và chất tìm. Tính số mol chất tìm
Bước 4: Tính ra đơn vị mà đầu bài yêu cầu.
Bước 5: Trả lời.
Vậy quá trình giải bài tập học sinh đã xác định được phương pháp giải chung, có
tác dụng giúp học sinh nắm vững kỹ năng giải bài tập tính theo PTHH.Khi học sinh đã
nắm vững phương pháp giải chung giáo viên còn cung cấp một số bài tập tương tự để
học sinh tự giải ngay tại lớp và sau đó giáo viên ra bài tập về nhà để học sinh tự rèn luyện
các dạng bài tập đó.
Ví dụ: Tính thể tích khí H
2
và khí Cl
2
tham gia phản ứng biết rằng người ta thu được
5,6(l) khí hiđroclorua. Các khí đo ở (đktc) và tác dụng với nhau vừa đủ.
Giáo viên yêu cầu học sinh

tự giải bài tập theo2 cách
mà giáo viên đã hướng dẫn
ở phần trước.
Giáo viên theo dõi học
sinh giải bài tập để uốn
nắn nếu cần thiết.
Học sinh trình bày lời giải :
- Cách 1:
Số mol của HCl (đktc)
n=
5,6
0,25( )
22,4 22,4
V
mol= =
PTHH:
H
2
+ Cl
2
→ 2 HCl
Theo PT :1mol 1mol 2mol
Theođề: x(mol) y(mol) →
0,25(mol )


Số mol H
2
: x=
)(125,0

2
1.25,0
mol=
Giáo viên yêu cầu học sinh
nhận xét đánh giá


Số mol Cl
2
: x=
0,25.1
0,125( )
2
mol=
Thể tích H
2
và Cl
2
(đktc) cần dùng là :
Thể tích khí H
2
: V= n .22,4
V= 0,125
×
22,4 = 2,8
(lít)
Thể tích khí Cl
2
: V= n .22,4
V= 0,125.22,4 = 2,8 (lít)

Vậy : Thể tích H
2
cần là :2,8 (lít)
và thể tích Cl
2
cần là :2,8 (lít)
HS nhận xét:
V
H
= V
Cl

- Cách 2:
PTHH:
H
2
Cl
2
→ 2 HCl
Theo bài ra ta có số mol của HCl (đktc)
n=
5,6
0,25( )
22,4 22,4
V
mol= =
Theo PTHH ta có :
n
H
= n

Cl
=
2
1
n
HCl
=
2
1
×
0,25 = 0,125
(mol)
Thể tích H
2
và Cl
2
(đktc) cần dùng là :
Thể tích khí H
2
: V= n .22,4
V= 0,125
×
22,4 = 2,8
(lít)
Thể tích khí Cl
2
: V= n .22,4
V= 0,125.22,4 = 2,8 (lít)
Vậy : Thể tích H
2

cần là :2,8 (lít)
và thể tích Cl
2
cần là :2,8 (lít)

Giáo viên có thể đưa ra các bài tập về nhà như sau:
Bài 1: Tính khối lượng của Nhôm oxit được tạo thành khi đốt cháy hoàn toàn 2,7gAl.
Bài 2: Đốt cháy hoàn toàn 6,4 g S. Tính thể tích ở(đktc) của khí sunfurơ tạo thành.
Sau khi học sinh nắm vững được phương pháp giải bài tập tính theo PTHH đơn
giản, tôi tiếp tục đưa thêm bài tập dạng này có biến đổi và nâng cao nhằm kích thích lòng
say mê học hỏi, tạo hứng thú cho học sinh phát triển năng lực làm việc độc lập, chủ động
trong việc giải bài tập hoá học theo PTHH.
b Bài toán cho biết lượng của cả hai chất phản ứng và yêu cầu tính lượng chất mới sinh
ra. Tìm lượng chất dư
Giáo viên đưa ra bài tập mẫu , hướng dẫn các em giải bài tập một cách cụ thể.
Ví dụ: Cho 50g dung dịch NaOH tác dụng với 36,5g dung dịch HCl.
a. Chất nào còn dư và có khối lượng bằng bao nhiêu.
b. Tính khối lượng muối tạo thành sau phản ứng.
Biết sơ đồ phản ứng như sau:
NaOH + HCl -→ NaCl + H
2
O
Giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu đề bài.
Giáo viên hướng dẫn
học sinh xác định
hướng giải.
Bước 1:Xác định số
mol các chất đề cho
( NaOH,HCl)

Học sinh nghiên cứu đề bài xác định được:
NaOH + HCl → NaCl + H
2
O
50(g) 36,5(g) m=?
Dư NaOH hoặc HCl
Học sinh trình bày lời giải:
Theo bài ra ta có số mol của NaOH:
Bước 2: Viết PTHH
Tỉ lệ số mol của NaOH
và HCl theo PTHH.
Tỉ lệ số mol của NaOH
và HCl theo đề bài
Bước 3: Lập tỉ số
So sánh tỉ lệ số mol
giữa hai chất đề cho
(NaOHvà HCl) theo
PTHH và theo đề bài.
Tìm chất dư
Bước 4: Tìm khối
lượng chất còn
dư(NaOH),theo chất
phản ứng hết(HCl).
Bước5: Tính khối
lượng của muối
natriclorua (NaCl) tạo
thành theo chất phản
ứng hết (HCl)
n=
50

1,25( )
40
m
mol
M
= =
Theo bài ra ta có số mol của HCl:
n=
36,5
1( )
36,5
m
mol
M
= =
PTHH: NaOH + HCl → NaCl +
H
2
O
Theo PTHH: 1mol 1mol
1mol
Theo đề bài: 1,25mol 1mol
Theo PTHH và đề ra ta thấy số mol của
NaOH dư .
Số mol NaOH còn dư là:
n
NaOH dư
= n
NaOH ban đầu
- n

NaOH phản ứng
n
NaOH d
= 1,25 –1 = 0,25(mol)
Vậy khối lượng NaOH dư là :
M = n.M = 0,25.40 = 10(g)
Theo PTHH thì số n
NaCl
= n
HCl
= 1 (mol)
Vậy khối lượng NaCl tạo thành là :
m = n.M = 1.58,5 = 58,5(g)

Qua bài tập mẫu giáo viên yêu cầu học sinh rút ra phương pháp chung:
Bước 1: Tìm số mol của các chất đề cho
Bước 2: Viết và cân bằng PTHH.
Bước 3: Tìm chất tham gia phản ứng hết và chất còn dư hết.
Bước 4: Tính toán (theo yêu cầu của đề bài) theo chất phản ứng hết.
Sau đó giáo viên cung cấp thêm cho học sinh bài tập tương tự yêu cầu học
sinh tự giải.
Ví dụ: Đốt cháy 6,2(g) photpho trong bình chứa 6,72 (l) khí oxi ở (đktc). Hãy cho biết
sau khi cháy.
Photpho hay oxi dư và khối lượng là bao nhiêu?
Chất nào được tạo thành và khối lượng là bao nhiêu?
Giáo viên yêu cầu học
sinh nghiên cứu đề
bài
Học sinh nghiên cứu đề bài xác định được.
PTHH: 4P + 5O

2
→ 2P
2
O
5
6,2g 6,72(l) m= ?
Giáo viên yêu cầu học
sinh thảo luận giải bài
tập.
Giáo viên yêu cầu học
sinh nhận xét
Dư phot pho hay oxi.
Học sinh thảo luận tìm cách giải bài tập.
Học sinh trình bày lời giải.
Số mol photpho
n=
6,2
0,2( )
31
m
mol
M
= =
Số mol oxi:
n=
6,72
0,3( )
22,4 22,4
V
mol= =

PTHH: 4P + 5O
2
→ 2P
2
O
5
Theo PT: 4mol 5mol
Theo đề : 0,2mol 0,3mol
Theo PTHH và đề ra ta thấy số mol của oxi dư .
Ta có số mol của oxi phản ứng là:
n
O phản ứng
=
)(25,0
4
5.2,0
mol=
Vậy số mol oxi dư là:
n
Odư
= n
O ban đầu
– n
O phản ứng
= 0,3- 0,25 =0,05mol
Vậy khối lượng oxi dư:
m = n.M = 0,05 . 32 =1,6(g)

Theo PTHH thì số n
P O

=
4
2
n
P
=
4
2
×
0,2 = 0,1 (mol)
Vậy khối lượng của P
2
O
5
tạo thành :
m = n.M = 0,1.142 = 14,2g
HS nhận xét
Học sinh nắm vững phương pháp giải bài tập tính theo PTHH tìm chất dư, giáo viên đưa
thêm một số bài tập về nhà giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức và kỹ năng.
Ví dụ:
Bài 1: Cho 5,6(g) kim loại sắt tác dụng với 12,25(g) axitsunfuric. Hãy tính khối lượng
muối sắt( II) sunfat và thể tích khí hiđrô ở (đktc) được tạo thành.
Bài 2.Cho 5,4 (g) nhôm vào dung dịch có chứa 49(g) axitsunfuric thì thể tích khí hiđrô ở
(đktc )và khối lượng muối nhôm sunfat thu được là bao nhiêu?
Còn rất nhiều dạng bài tập liên quan đến PTHH nhưng trong chương trình lớp 10 tôi
chủ yếu rèn luyện cho các em những dạng bài tập cơ bản trên. Qua đó các em có nền
tảng để học tập và tiếp thu kiến thức bộ môn hoá ở các lớp trên một cách dễ dàng và
thuận lợi hơn.
4. Kết quả đạt được:
Sau khi hướng dẫn các em phương pháp giải một số dạng bài tập tính theo PTHH như

trên tôi nhận thấy đa số học sinh nắm vững phương pháp chung để vận dụng giải tốt các
dạng bài tập đó.
Kết quả khảo sát trên lớp 10A mà tôi trực tiếp giảng dạy ở trường Trung Tâm GDTX-
DN Bá Thước như sau:
Kết quả khảo sát ban đầu:
Kết quả đánh
giá
Loại
giỏi
Loại
khá
Loại trung
bình
Loại yếu
SL % SL % SL % SL %
10 A 0 0 0 0 5 45,5 6 54,5

Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy đã đạt được như sau:
Kết quả đánh
giá
Loại giỏi Loại khá Loại trung
bình
Loại
yếu
SL % SL % SL % S
L
%
10A(11 HS) 2 18,1 4 36,3 4 36,36 1 9,1
8 6
Vậy qua kết quả bảng số liệu như trên tôi nhận thấy việc giáo viên tìm tòi hướng dẫn học

sinh giải các dạng bài tập hoá học tình theo PTHH đem lại hiệu quả cao so với kết quả
khảo sát trước khi áp dụng phương pháp hướng dẫn học sinh giải bài tập tình theo PTHH
như trên.

C. KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Trong quá trình áp dụng phương pháp hướng dẫn học sinh giải bài tập tính theo PTHH
đạt kết quả như trên, bản thân tôi đã rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm quý giá.
Muốn học sinh làm tốt các dạng bài tập thì đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên
tìm tòi nghiên cứu và học hỏi đồng nghiệp các phương pháp truyền thụ cho học sinh, lựa
chọn bài tập phù hợp với mọi đối tượng học sinh, đặc biệt chú ý đến học sinh yếu kém.
Các bài tập đưa ra phải phù hợp với các đối tượng học sinh đi từ dễ đến khó, giáo viên
cần phải giúp học sinh luyện tập thường xuyên trong các giờ học trên lớp sau mỗi tiết học
và kết hợp với các tiết luyện tâp, tiết thực hành , các buối học phù đạo thêm ngoại khoá.
Sau mỗi buổi học giáo viên cần giao những bài tập phù hợp với khả năng của học sinh về
nhà làm nhằm kích thích niềm đam mê nghiên cứu và học bài, làm bài của học sinh. Từ
đó giúp các em có vốn kiến thức vững vàng, tự tin và yêu thích môn học, giúp các em
giỏi hơn và các em có học lực trung bình, yếu kém cũng có khả năng biết được định
hướng giải bài tập của giáo viên đề ra. Từ đó giúp các em có động lực học tốt môn hóa và
các em đó nhận thức đúng đắn ý nghĩa của việc học và đang có thái độ học học tập rất tốt.
Chính vì vậy việc viết sáng kiến kinh nghiệm là một việc làm hết sức cần thiết và
hữu ích nhằm mục đích phục vụ quá trình giảng dạy của giáo viên đạt kết quả cao hơn.
Qua đây tôi rất mong có sự góp ý chân thành của người đọc để tôi hoàn thành giải
pháp hơn.
II. KIẾN NGHỊ:

×