Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Sự thiếu hụt lao động nông nghiệp mùa vụ và hợp tác xã của người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.43 KB, 5 trang )

SỰ THIẾU HỤT LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP MÙA VỤ
VÀ HỢP TÁC XÃ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
NCS. VÕ THỊ KIM SA
tưởng viết bài báo này được hình
thành rất tình cờ, từ một hiện tượng
quan sát trong thực tế. Trong một chuyến
nghiên cứu thực tiễn, tác giả gặp và trò
chuyện với một số người trong “vạn cấy”
của trùm “vạn” Chín Táo. Linh động đáp
ứng nhu cầu thiếu hụt lao động nông
nghiệp vào lúc cao điểm, ông Chín Táo
(Song Lộc, Châu Thành, Trà Vinh) đã tập
hợp hơn 40 nông dân trong vùng và thành
lập “vạn cấy”. Từ câu chuyện “vạn cấy”
của ông trùm “vạn” Chín Táo, tác giả
nhìn bao quát hơn trong nông thôn Nam
Bộ và nhận thấy rằng đây không phải là
một hiện tượng cá biệt. Trong thực tế tại
nhiều vùng nông thôn ở đồng bằng sông
Cửu Long, hình thức tổ chức tương tự
như “vạn” ngày xưa đã tái xuất hiện rải
rác và ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Phải chăng nghề trùm “vạn” trong những
câu chuyện kể về cuộc sống vùng nông
thôn Nam Bộ ngày xưa, tưởng chừng đã
biến mất, giờ đây lại khôi phục nhằm
thích ứng với tình trạng khan hiếm lao
động nông nghiệp mùa vụ hiện nay? Nếu
đúng như vậy, “vạn” ngày nay có gì
tương đồng với khái niệm rất mới: “Hợp
tác xã của người lao động” trong dự


thảo Luật Hợp tác xã (HTX) do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư biên soạn, đã được trình
Quốc hội để thảo luận và thông qua vào
năm 2011 tới đây?
Ý
“Vạn” ngày xưa
Ở Nam Bộ trong thời gian kháng
chiến, “vạn” được hình thành từ nhu cầu
của người chủ đất, lẫn nhu cầu của
người làm thuê. Lúc bấy giờ, một chủ
đất có từ vài héc ta đến hàng trăm héc ta
đất. Chủ đất rất khó khăn tìm đủ nhân
lực để gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch
cho kịp thời vụ. Thời đó, chủ đất trả
công cho người làm thuê chủ yếu bằng
nông sản vào mùa thu hoạch, chẳng hạn
một công cấy sẽ được chủ đất trả công
bằng một giạ
1
lúa. Về phía người làm
thuê, nếu đầu mùa cấy thuê cho 10 chủ
đất khác nhau thì khi thu hoạch sẽ nhận
lúa từ 10 chủ ruộng khác nhau vào
những thời điểm khác nhau vì thường
họ không thu hoạch cùng một lúc.
Xuất phát từ những phiền toái thực
tế vừa của người chủ đất, vừa của người
làm thuê, một người có địa vị trong xã
hội, có mối quan hệ quen biết rộng, có uy
tín trong làng đứng ra khởi xướng thành

lập “vạn”. Người này được gọi là “trùm
vạn”, “bầu vạn” hay “lãnh công”… Họ
làm trung gian giữa người làm thuê và
chủ ruộng và nhận tiền công bằng cách
nhận tiền chiết khấu của chủ ruộng (dân
gian gọi là “ăn cò”). “Vạn” được hình
thành nhằm giản tiện cho việc thuê mướn
lao động, nên nhanh chóng được phổ biến
rộng rãi khắp vùng quê Nam Bộ.
20
Trải qua thời gian, “vạn” có
những biến đổi nhiều mặt cả về hình
thức tổ chức lẫn vai trò. Có những lúc,
“vạn” đã phát triển mạnh và có ý nghĩa
lớn trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng
có thời gian, hình thức tổ chức này hầu
như biến mất khỏi cuộc sống của người
dân nông thôn. Và gần đây, “vạn” được
hồi sinh và tái xuất hiện nhưng với diện
mạo khác hơn, tính chuyên môn cao hơn
và phạm vi hoạt động rộng hơn.
Diện mạo mới của “vạn”
Quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đô thị hoá đã và đang làm cho
một lượng lớn lao động dịch chuyển từ
ngành nông nghiệp sang ngành phi nông
nghiệp và từ nông thôn ra thành thị. Một
mặt, sự chuyển dịch lao động là một
hiện tượng tất yếu của tiến trình phát
triển, là một nhân tố quan trọng phân bố

lại nguồn lực giữa các ngành, các vùng,
các thành phần kinh tế dưới sự tác động
của các quy luật kinh tế thị trường.
Mặt khác, một trong những hậu quả
của quá trình này là hiện tượng khan hiếm
lao động nông nghiệp cục bộ, theo thời vụ,
giá thuê lao động tăng cao do tình trạng
mất cân đối cung và cầu trong thị trường
lao động tại chỗ ở vùng nông thôn. Đặc
điểm sinh học của sản xuất nông nghiệp
đòi hỏi người nông dân tác động đúng lúc,
đúng cách theo nguyên tắc “nhất thì, nhì
thục” đến quá trình sinh trưởng, phát triển
của cây trồng, vật nuôi để đạt năng suất và
hiệu quả cao nhất. Sản xuất nông nghiệp
mang tính thời vụ cao dẫn đến tình trạng
căng thẳng về lao động nông nghiệp trong
những thời điểm nhất định. Điều này đặc
biệt nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long, nơi mà mật độ dân cư thấp,
diện tích đất nông nghiệp bình quân trên
lao động tương đối cao so với mức bình
quân chung của cả nước.
Trước tình hình thiếu hụt lao động
nông nghiệp thời vụ, nhóm hộ thiếu đất,
thừa lao động bán “sức lao động” qua
một thị trường không chính thức, hình
thành nên những nhóm người lao động,
có tổ chức, có người đứng đầu, nhưng
không có chứng thực hợp đồng hợp tác

hoặc tư cách pháp nhân… Một cách tự
phát nhiều tổ, nhóm của người lao động
làm thuê được hình thành và ngày càng
trở nên phổ biến. Các tổ, nhóm này dần
dần xóa bỏ mối quan hệ sử dụng lao động
theo phương thức truyền thống là "vần
công - đổi công" và thay thế bằng phương
thức mang tính chất trao đổi kinh tế
(người thuê - người làm thuê). Đây là xu
hướng thích ứng thể hiện sự năng động
của nông dân, vừa giải quyết thiếu hụt lao
động nông nghiệp ở những hộ khá, giàu;
vừa tăng thu nhập cho nhóm nông dân ít
đất hoặc không có đất sản xuất. Trong
một chừng mực nào đó, các hình thức tổ
chức hình thành tự phát này mang dáng
dấp của “vạn” ngày xưa nên ngày nay nó
cũng được dân gian gọi nôm na là “vạn”.
HTX của người lao động
Diện mạo mới của hình thức
“vạn” mang dáng dấp của hình thức
HTX của người lao động (worker
cooperative), một hình thức khá quen
thuộc ở những nước có phong trào HTX
phát triển mạnh như Canada, Đức, Mỹ…
nhưng lại vô cùng mới mẻ ở Việt Nam.
21
Trong lịch sử, mầm mống của
HTX của người lao động được hình
thành từ cuộc cách mạng công nghiệp

như là sự phản ứng lại chủ nghĩa tư bản
công nghiệp và sự thái quá của cuộc
cách mạng công nghiệp và là một phần
kết quả của phong trào chuyển dịch lao
động. Khi di chuyển đến làm việc tại
các khu vực công nghiệp và nhất là
trong các lĩnh vực công việc độc hại,
những người công nhân đã hình thành tổ
chức của riêng mình và tự kiểm soát
hoạt động kinh doanh của tổ chức. Tiền
thân của HTX của người lao động,
chẳng hạn như Lời hiệu triệu linh thiêng
của các Hiệp sĩ lao động (Noble and
Holy Order of the Knights of Labor) ở
Mỹ vào thế kỷ XIX, được định hình
trong xã hội nhằm "đối phó với những
tệ nạn của chủ nghĩa tư bản và sự thiếu
bảo hiểm trong tiền lương của công
nhân"
2
. Thông điệp năm 2010 mà Liên
hiệp các HTX của người lao động tại
Hoa Kỳ muốn chuyển đến cho toàn xã
hội là công việc chúng tôi làm là giải
pháp (the work we do is the solution).
Dựa vào định nghĩa, các giá trị và
nguyên tắc HTX do Liên Minh HTX
Quốc tế (ICA) đưa ra vào năm 1995 và
nghị quyết về thúc đẩy phát triển HTX
của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO),

tháng 9 năm 2005, Tổ chức Quốc tế của
những người lao động trong lĩnh vực
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ (CICOPA) đưa ra bản Tuyên
ngôn chung của thế giới về HTX của
người lao động. Lần đầu tiên các đặc
trưng cơ bản của HTX của người lao
động được trình bày một cách chính thức
và được công bố rộng rãi. Sau đây là 6
đặc trưng cơ bản của HTX của người lao
động được thống nhất và thông qua tại
bản Tuyên ngôn chung của thế giới về
HTX của người lao động
3
.
1. HTX của người lao động có
mục đích chủ yếu là tạo ra và duy trì
việc làm hoặc các hoạt động tạo thu
nhập bền vững nhằm cải thiện chất
lượng sống của các xã viên đồng thời
cũng là người lao động trong HTX,
hướng đến quản lý dân chủ, phát triển
cộng đồng và xã hội nhân văn tốt đẹp.
2. Sự tự nguyện tham gia của các
xã viên nhằm đóng góp nguồn lực vật
chất và sức lao động cá nhân là điều
kiện tiên quyết cho sự tồn tại của HTX
của người lao động.
3. Như một quy luật chung, công
việc của HTX được các xã viên đảm

nhận thực hiện. Điều này có nghĩa là đa
số người lao động trong HTX phải là xã
viên và tất cả xã viên của HTX phải là
người lao động trong HTX.
4. Quan hệ đặc biệt xã viên –
người lao động (một người vừa đóng vai
trò là xã viên, vừa là người lao động
trong HTX), làm cho xã viên trong HTX
của người lao động hoàn toàn khác biệt
với công nhân làm công, ăn lương hoặc
người lao động tự làm cho chính mình.
5. Điều lệ và quy chế nội bộ của
HTX là sản phẩm tập thể do các xã viên
thảo luận và thông qua một cách dân chủ.
6. Đối với Nhà nước hoặc các
bên thứ ba, HTX của người lao động là
tổ chức tự trị và độc lập trong quản lý
22
lao động, sử dụng và quản lý các nguồn
lực.
Tại Việt Nam, HTX của người
lao động là khái niệm mới được đưa vào
dự thảo luật HTX sửa đổi. Theo đó,
HTX của người lao động được định
nghĩa là HTX được thành lập nhằm mục
đích tạo việc làm cho thành viên
4
.
Như vậy, mục đích tối thượng của
HTX của người lao động là tạo ra và

duy trì việc làm hoặc các hoạt động tạo
thu nhập bền vững nhằm cải thiện chất
lượng sống của các xã viên đồng thời
cũng là người lao động trong HTX,
hướng đến phát triển cộng đồng và xã
hội nhân văn tốt đẹp.
Kết luận
Sự hình thành các hình thức tổ
chức tự phát và phi chính thức của
người lao động làm thuê thể hiện sự
năng động của nông dân thích ứng với
tình trạng thiếu hụt lao động nông
nghiệp cục bộ, theo mùa vụ. Tuy nhiên,
vì hoạt động trong thị trường lao động
không chính thức, dưới hình thức tổ
chức không có tư cách pháp nhân nên
lợi ích (phúc lợi xã hội, bảo hiểm, tiền
thưởng…) của người lao động không
được pháp luật bảo vệ.
Về mặt lý thuyết, HTX của người
lao động có tính ưu việt hơn các hình thức
liên kết tự phát, phi chính thức như hiện
nay. HTX của người lao động có thể được
xem là lựa chọn tốt để thích ứng với trình
trạng thiếu hụt lao động nông nghiệp. Mặc
dù vậy, trong thực tế việc hình thành và tổ
chức các HTX của người lao động hiện
nay còn gặp nhiều khó khăn. Khó khăn
lớn nhất và mang tính bao quát nhất là
khuôn khổ pháp lý. Khái niệm HTX của

người lao động chưa được thể chế hóa
trong Luật HTX hiện hành (2003) và các
văn bản liên quan đến HTX. Khái niệm
này chỉ mới được đưa vào dự thảo Luật
HTX sửa đổi, chưa được thông qua. Khó
khăn thứ hai xuất phát từ tâm lý và nhận
thức của những người lao động làm thuê -
xã viên tiềm năng về HTX nói chung và
HTX của người lao động nói riêng. Hơn
thế, những thất bại của mô hình HTX thời
bao cấp đã làm đổ vỡ lòng tin của nông
dân vào các hình thức kinh tế tập thể.
Đưa ra những khó khăn nêu trên,
tác giả không muốn và không thể phủ
định tính ưu việt của mô hình HTX của
người lao động. Điều mà tác giả muốn
nhấn mạnh ở đây là chuyển từ mô hình
lý thuyết thành mô hình thực tiễn,
không những cần những luận cứ khoa
học, sự thấu hiểu bản chất của nó mà
quan trọng hơn là cần những quyết tâm
và nỗ lực của những người thực thi. Nếu
thiếu những yếu tố này thì mô hình lý
thuyết sẽ mãi mãi là lý thuyết suông.
23
1
Giạ - đơn vị đo lường. Một giạ bằng hai thùng. Mỗi thùng có dung tích là 20 lít.
2
William F.W., Kathleen K.W (1988), The Growth and Dynamics of the worker cooperative complex, ILR
press, United states of America

3
International Organisation of Industrial, Artisanal and Service Producers’ Cooperatives (CICOPA) (23
September 2005), World declaration on worker cooperatives
4
Điều 10, dự thảo Luật Hợp tác xã sửa đổi do Bộ Kế hoạch và Đầu tư biên soạn.

×