Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

các điều kiện về việc nuôi con nuôi hợp pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.35 KB, 10 trang )

BÀI TẬP NHÓM LẦN 1
A. MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và
gia đình, góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Công ước Liên
hiệp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định: “ Để phát triển đầy đủ và hài hòa
nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình,
trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm”
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cùng với những văn bản
hướng dẫn thi hành cũng đã có những quy định về việc nuôi con nuôi và các
điều kiện của việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên có thể thấy, quy định về điều kiện
nuôi con nuôi chưa có sự thống nhất trong các văn bản pháp luật, chưa rõ ràng,
còn quá đơn giản, chưa phản ánh và phù hợp với bản chất của quan hệ cho –
nhận con nuôi. Trong bài luận này, nhóm chúng tôi sẽ phân tích các điều kiện
của việc nuôi con nuôi và trao đổi một số ý kiền về việc cần thiết phải sửa đổi,
bổ sung để hoàn thiện hơn các quy định về điều kiện nuôi con nuôi, nhằm đảm
bảo việc nuôi con nuôi đúng với bản chất của nó.
B. NỘI DUNG
Có thể nhận thấy, việc nuôi con nuôi chỉ thực sự cần thiết khi trẻ em
không thể được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt của mình vì
những lý do nhất định. Chỉ khi đó việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi mới phù
hợp với quyền của trẻ em được sống trong gia đình, phù hợp với nguyên tắc:
“Trẻ em không bị buộc cách ly khỏi cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ, trừ
trường hợp một sự cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em”
( Điều 9 Công ước quốc tế về quyền trẻ em). Các quy định về điều kiện của việc
nuôi con nuôi phải xuất phát từ nguyên tắc cơ bản này.
Khoản 1, Điều 67, Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000 đã quy
định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận
làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo
đức xã hội”. Như vậy, việc nuôi con nuôi phải xuất phát từ lợi ích của người


con nuôi, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi của người nuôi ( cha, mẹ nuôi ). Để
việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực, phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 đã quy định cụ thể về các điều kiện về việc nuôi con nuôi hợp pháp.
I. Các điều kiện của việc nuôi con nuôi
1. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi
Theo quy định tại điều 69, Luật Hôn nhân và gia đình:
“Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên;
3. Có tư cách đạo đức tốt;
4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con nuôi;
5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố
ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược
đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi
dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp;
mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ
em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội.”
Để đảm bảo cho người nhận nuôi con nuôi làm tốt chức năng làm cha,
làm mẹ của mình, người nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ điều kiện liên quan
đến năng lực hành vi, khoảng cách chênh lệch về độ tuổi, tư cách đạo đức và các
điều kiện thực tế khác để được nhận nuôi con nuôi.
2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Điều 68, Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Người được nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống.
Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh,
người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người

già yếu cô đơn.
2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ
chồng”
Người chưa thành niên từ 15 tuổi trở xuống là người chưa có năng lực
hành vi đầy đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi
con nuôi sẽ bảo đảm cho người con được sự giám hộ của cha mẹ. Hơn nữa, trên
thực tế những người trên 15 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nuôi bản thân và
thông thường, người nhận con nuôi cũng mong muốn được bảo trợ cho những
2
em nhỏ, tạo cho các em mái ấm gia đình. Như vậy, nếu nhận người đã thành
niên hoặc người trên 15 tuổi thì mục đích của việc nhận con nuôi ít nhiều không
còn nguyên giá trị.
Quy định một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả
hai người là vợ chồng nhằm bảo đảm cho người con nuôi về nơi ăn chốn ở, về
sự hòa hợp và ổn định, thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục.
3. Điều kiện về ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi
Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ
của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ.
Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý
của trẻ em đó.”
Theo các quy định trên đây, việc nhận nuôi con nuôi phải có sự đồng ý
bằng văn bản của cha mẹ đẻ ( đối với người con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự ); trường hợp cha mẹ đẻ chết, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải có sự đồng ý
bằng văn bản.
- Đối với người được nhận làm con nuôi là người trên 15 tuổi nếu là
thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con

nuôi người già yếu cô đơn thì cần phân biệt:
+ Theo khoản 1 Điều 71 “Việc nhận người chưa thành niên, người đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng
văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn
bản của người giám hộ”.
+ Ngược lại, người được nhận làm con nuôi là người đã thành niên, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì không cần phải có sự đồng ý của cha, mẹ.
- Trường hợp của một bên cha, mẹ đẻ (của người được nhận làm con
nuôi) đã chết hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần sự đồng ý của
người kia ( cha đẻ, mẹ đẻ còn sống và có năng lực hành vi dân sự).
+ Trường hợp cha, mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi đã ly hôn thì
vẫn phải có sự đồng ý bằng văn bản của cả cha và mẹ đẻ trong việc cho con
mình làm con nuôi người khác.
3
Phải lưu ý rằng sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ phải được
thể hiện bằng văn bản dựa trên ý chí tự nguyện, không bị cưỡng ép, không bị lừa
dối.
- Ý chí tự nguyện của người nhận con nuôi phải phù hợp với mục đích
của việc nhận nuôi con nuôi ( khoản 1 Điều 67).
4. Điều kiện về việc đăng kí nuôi con nuôi
Việc đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 72 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000:
“Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và
ghi vào Sổ hộ tịch. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được
thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch”.
Theo quy định của pháp luật về hộ tịch, việc nhận con nuôi giữa công dân
Việt Nam với nhau phải được đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã ( phường, thị
trấn) nơi thường trú của người nuôi hoặc của con nuôi.
Theo Nghị định số 158/2005/NĐ – CP của Chính phủ quy định về đăng

ký việc nhận nuôi con nuôi: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận
con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp trẻ bị bỏ rơi
được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi lập biên bản xác nhận
tình trạng trẻ bị bỏ rơi đăng ký việc nuôi con nuôi; nếu trẻ em đó đã được đưa
vào cơ sở nuôi dưỡng, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi
dưỡng đăng ký việc nuôi con nuôi ( Điều 25).
II. Những điểm bất cập còn tồn tại cần sửa đổi, hoàn thiện về điều kiện nuôi
con nuôi.
Có thể thấy rằng những quy định về việc nuôi con nuôi bên cạnh những
điểm tiến bộ thì vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế. Sau đây chúng em xin
đưa ra một vài tồn tại cần được khắc phục, hoàn thiện như sau:
1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Theo quy định tại Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, người
được nhận làm con nuôi là người từ 15 tuổi trở xuống, trừ trường hợp con nuôi
là người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người
già yếu cô đơn. Tuy nhiên, pháp luật không quy định độ tuổi tối đa của người
làm con nuôi trong những trường hợp này. Có thể thấy, quy định này mặc dù
phản ánh truyền thống đạo đức của dân tộc nhưng có phần không phù hợp với
thực tế, với bản chất của việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi trước hết hướng
tới đối tượng là trẻ em không được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt
nên việc nuôi con nuôi là vì lợi ích của trẻ em được nhận nuôi. Với quy định
4
người trên 15 tuổi cũng có thể được nhận làm con nuôi mà không giới hạn độ
tuổi tối đa là quá mở rộng diện những người có thể được nhận làm con nuôi.
Mặt khác, pháp luật chỉ quy định độ tuổi mà không kèm theo bất cứ điều
kiện nào khác của người được cho làm con nuôi đã dẫn đến nhận thức rằng mọi
trẻ em từ 15 tuổi trở xuống đều có thể được cho làm con nuôi. Điều này là
không phù hợp với bản chất của việc cho – nhận con nuôi. Chỉ cho trẻ em làm
con nuôi khi trẻ em đó không thể được chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình ruột
thịt. Do đó, với quy định này đã dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc cho – nhận

con nuôi nhằm những mục đích trục lợi khác, mà không nhằm xác lập quan hệ
cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Ví dụ,
việc cho trẻ em làm con nuôi của người thương binh, người có công với cách
mạng để được hưởng các chế độ đãi ngộ của nhà nước dành cho thân nhân của
các đối tượng này, nhưng trẻ em được nhận nuôi vẫn sống ở nhà cha mẹ đẻ,
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi không
được xác lập, thực hiện trên thực tế giữa người nhận nuôi và trẻ em được nhận
nuôi.Trong trường hợp trẻ em đang sống tại gia đình mà có quan hệ họ hàng với
người xin nhận con nuôi thì chỉ giải quyết cho làm con nuôi của cô, cậu, dì, chú,
bác (bên nội hoặc bên ngoại) ở nước ngoài, “nếu trẻ em đó bị mồ côi cả cha lẫn
mẹ hoặc bị mồ côi mẹ hoặc cha, còn người kia không có khả năng lao động và
không có điều kiện để nuôi dưỡng trẻ em đó; trường hợp trẻ em còn cha, mẹ
nhưng cả cha và mẹ đều không có khả năng lao động và không có điều kiện để
nuôi dưỡng trẻ em đó, thì trẻ em cũng được giải quyết cho làm con nuôi. Trong
trường hợp trẻ em tuy có quan hệ họ hàng với người xin nhận con nuôi, nhưng
trẻ em đó còn cả cha và mẹ, sức khoẻ của trẻ em và của cha mẹ bình thường, cha
mẹ vẫn có khả năng lao động và có điều kiện để bảo đảm chăm sóc con mình tại
Việt Nam, thì không giải quyết cho làm con nuôi ở nước ngoài”( Thông tư số
08/2006/TT-BTP, ngày 8/12/2006). Có thể thấy, quy định như vậy là cần thiết
và phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi, tuy nhiên điều kiện đó không
chỉ đặt ra trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, mà cần được coi là
một điều kiện chung đối với người được nhận nuôi. Do vậy, theo chúng tôi,
ngoài quy định về tuổi, pháp luật cần quy định về hoàn cảnh cụ thể của trẻ em
được cho làm con nuôi. Trẻ em được cho làm con nuôi là những trẻ em từ 15
tuổi trở xuống có hoàn cảnh sau:
- Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định tại Điều 41 Luật Bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004;
5

×