I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
H TH LAN
BảO Vệ QUYềN CủA NGƯờI KHUYếT TậT
TRONG PHáP LUậT LAO ĐộNG VIệT NAM -
THựC TRạNG Và GIảI PHáP
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2014
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
H TH LAN
BảO Vệ QUYềN CủA NGƯờI KHUYếT TậT
TRONG PHáP LUậT LAO ĐộNG VIệT NAM -
THựC TRạNG Và GIảI PHáP
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. Lấ TH HOI THU
H NI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hà Thị Lan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 6
1.1. Nhận thức chung về quyền của người khuyết tật 6
1.1.1. Quan niệm về quyền của người khuyết tật 6
1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật 12
1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế 14
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động 19
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật 19
1.2.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền của người khuyết tật 21
1.2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật 27
1.2.4. Ý nghĩa bảo vệ quyền của người khuyết tật 30
1.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động của
một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam 34
1.3.1. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Mỹ 35
1.3.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Australia 37
1.3.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Trung Quốc 38
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 42
2.1. Quá trình phát triển của chế định bảo vệ quyền của người khuyết
tật trong pháp luật lao động Việt Nam 42
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật lao động 43
2.1.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật lao động đến nay 46
2.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong các quy định của pháp
luật lao động Việt Nam hiện hành 51
2.2.1. Bảo vệ quyền lao động của người khuyết tật 51
2.2.2. Bảo vệ đời sống của người khuyết tật 57
2.2.3. Bảo vệ quyền nhân thân của người khuyết tật 60
2.2.4. Quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm quyền của người
khuyết tật 65
2.3. Thực tiễn bảo vệ quyền của người khuyết tật 66
2.3.1. Thành quả đạt được 66
2.3.2. Hạn chế 69
2.3.3. Nguyên nhân 73
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 76
3.1. Yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hiệu quả pháp luật lao động
trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật 76
3.1.1. Về mặt khách quan 76
3.1.2. Về mặt chủ quan 77
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật lao động
trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật 78
3.3. Một số kiến nghị cụ thể 80
3.3.1. Về các quy định của pháp luật lao động 80
3.3.2. Về tổ chức thực hiện 97
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLLĐ: Bộ luật lao động
ILO: Tổ chức lao động quốc tế
NKT: Người khuyết tật
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
UN: Liên hợp quốc
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng
định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân [72, Điều 2, Khoản 1, 2]. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm
bảo sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền về kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội của tất cả mọi tầng lớp dân cư trong xã hội là nhiệm vụ quan trọng
trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết về mặt thể chất
hoặc tinh thần trong một thời gian dài khiến họ không thế thực hiện được các
quyền của mình một cách đầy đủ như những người bình thường khác. Đây được
xem là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương và phải chịu nhiều thiệt thòi
nhất trong xã hội. Do vậy, họ luôn cần nhận được sự quan tâm trợ giúp của gia
đình, Nhà nước và toàn xã hội.
Trước đây, vấn đề người khuyết tật chỉ được tiếp cận dưới góc độ phúc lợi xã
hội, người khuyết tật chỉ được xem là những đối tượng cần nhận được sự hỗ trợ hay
“ban ơn” từ phía cộng đồng. Do vậy, tất cả các hoạt động trợ giúp cho người khuyết
tật đều được xem là hoạt động nhân đạo. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, bằng sự
nỗ lực của người khuyết tật cùng với các tổ chức của họ đã dần thay đổi quan niệm
và nhận thức của xã hội về người khuyết tật. Theo đó, vấn đề người khuyết tật được
xem xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều có
quyền được sống và được thụ hưởng những quyền cơ bản như nhau, người khuyết
tật ngày càng được coi trọng vì họ hoàn toàn có khả năng học tập, lao động sản xuất
và cống hiến cho xã hội [91]. Điều này đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý
quốc tế quan trọng như: Tuyên ngôn toàn thế giới của Liên hợp quốc về Quyền con
người năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
năm 1966, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền dân sự và chính trị năm 1966,
Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật… tạo cơ sở
pháp lý cho việc bảo đảm các quyền bình đẳng của người khuyết tật như mọi cá
nhân khác trong xã hội.
2
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam,
đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO), yêu cầu về
nguồn nhân lực trong đó có vấn đề bảo vệ quyền của người lao động nói chung và
người khuyết tật nói riêng ngày càng trở nên cấp thiết. Dạy nghề, tạo điều kiện việc
làm và bảo đảm các quyền của người khuyết tật trong quá trình tham gia lao động là
một trong những chính sách quan trọng mà Đảng và Nhà nước luôn chú ý. Bộ luật
lao động 2012 dành chương XI để quy định về một số loại lao động đặc biệt, trong
đó người lao động khuyết tật được quy định tại mục 4; Luật người khuyết tật 2010
dành Chương V để quy định về việc làm cho người khuyết tật; Chương VII Luật
dạy nghề 2006 quy định về dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật… Các quy định
này là sự kế thừa và phát huy các quy định về quyền của người khuyết tật trong các
văn bản pháp luật trước đó, về cơ bản đã tạo điều kiện cho người khuyết tật tham
gia vào các quan hệ lao động một cách công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên các
quyền của người khuyết tật vẫn chưa được quy định đầy đủ và chi tiết trong pháp
luật lao động cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, bên cạnh đó các chính sách
và pháp luật chưa được thi hành có hiệu quả trên thực tế, người khuyết tật vẫn gặp
nhiều khó khăn trong quá trình tìm việc làm và đảm bảo thu nhập. Tình trạng sử
dụng người khuyết tật vào làm việc bị vi phạm các quyền về nhân thân, về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi… còn xảy ra khá phổ biến. Hơn nữa công tác quản lý
nhà nước, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm cũng như tuyên truyền, giáo dục ý
thức của cộng đồng về vấn đề người khuyết tật còn buông lỏng và chưa triệt để. Vì
những lý do đó, tôi lựa chọn để tài “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình với mong muốn góp phần hoàn thiện một số khía cạnh lý luận và thực tiễn của
pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện tại đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của
quyền của người khuyết tật như vấn đề dạy nghề, việc làm, vấn đề thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi, vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động… Tuy nhiên,
3
việc phân tích các khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo vệ quyền của
người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam một cách hệ thống và chuyên
sâu, qua đó góp phần bảo vệ quyền của một bộ phận không nhỏ người lao động đặc
biệt, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động nói chung trong bối cảnh nền
kinh tế đang phát triển như vũ bão là điểm mới mà luận văn muốn hướng tới.
Một số đề tài nghiên cứu về quyền của người khuyết tật Việt Nam như:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết
tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về Lao động tàn tật ở Việt Nam” của
Phạm Thị Thanh Việt năm 2009;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động
dưới góc độ pháp luật lao động” của Đỗ Minh Nghĩa năm 2012;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật”
của Hồ Thị Trâm năm 2013;
- Giáo trình Luật người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật Hà
Nội do Nguyễn Hữu Chí chủ biên;
- Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người do Nguyễn Đăng
Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên của Khoa Luật – Đại học quốc
gia Hà Nội năm 2009 có đề cập đến khía cạnh lý luận và pháp luật về quyền của
người khuyết tật;
- Báo cáo đánh giá thực hiện các điều khoản của Luật lao động về lao động
là người khuyết tật và Pháp lệnh về người khuyết tật của Nguyễn Thị Diệu Hồng,
tháng 7 năm 2002;
- Báo cáo đánh giá đào tạo nghề phù hợp cho thanh thiếu niên khuyết tật của
Tổ chức Thế giới Quan tâm vì Phát triển tại Hà Nội, Việt Nam tháng 1 năm 2005;
- Báo cáo khảo sát về Đào tạo Nghề và Việc làm cho người khuyết tật tại
Việt Nam của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tháng 8 năm 2008;
- Báo cáo thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật trong dạy nghề,
việc làm năm 2008 của Cục Việc làm – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội;
- Báo cáo tình hình thực hiện các chính sách trợ giúp phụ nữ khuyết tật năm
2008 của TW Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
4
- Báo cáo người khuyết tật ở Việt Nam: Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều
tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA);
- Bài viết “Nhìn lại 5 năm thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật” của Đàm
Hữu Đắc trên tạp chí Lao động và Xã hội số 213 năm 2003;
- Bài viết “Để nâng cao khả năng thực hiện pháp luật về việc làm và dạy
nghề đối với người tàn tật” của Nguyễn Đức Hoán trên Tạp chí Lao động và Xã hội
số 308 năm 2007;
- Bài viết “Những vấn đề đặt ra trong thực hiện dịch vụ xã hội đối với người
khuyết tật và một số khuyến nghị” của Lý Hoàng Mai trên tạp chí Lao động và Xã
hội số 370 năm 2009…
Tất cả những công trình trên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và phân tích một
số khía cạnh quyền của người khuyết tật trong các lĩnh vực khác nhau mà chưa khái
quát toàn bộ nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động một cách
đầy đủ, thêm nữa mới chỉ dừng lại ở quyền mà chưa nghiên cứu các nội dung của
bảo vệ quyền của người khuyết tật trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. Với
việc lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, tác giả rất mong sẽ có những đóng góp tích
cực vào tình hình nghiên cứu chế định bảo vệ quyền của người khuyết tật trong
pháp luật lao động Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra những ưu điểm cũng như
những hạn chế, bất cập của pháp luật lao động Việt Nam và những vướng mắc trên
thực tế để có thể đưa ra những phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
cũng như tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật lao động về bảo vệ quyền của
người khuyết tật trên thực tế.
Việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của người khuyết tật mà
trong đó tập trung vào các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật;
- Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động về bảo vệ quyền
của người khuyết tật và thực tiễn thực hiện;
5
- Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các quy định
của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quyền của người khuyết tật và bảo vệ quyền của
người khuyết tật;
- Phạm vi nghiên cứu: Bảo vệ quyền của người khuyết tật được sự quan tâm
của cả hệ thống pháp luật như: Luật người khuyết tật, Luật bảo hiểm xã hội, Luật
dạy nghề, Luật việc làm, Luật lao động và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến bảo vệ quyền của người khuyết tật
trong pháp luật lao động Việt Nam.
5. Nội dung nghiên cứu
Luận văn đi sâu phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ quyền của người khuyết tật và đưa
ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật lao động trong
việc bảo vệ quyền của người khuyết tật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể là, phương pháp duy vật biện chứng
và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, phương pháp quan sát… làm cơ sở cho việc
nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền của người khuyết tật và bảo vệ quyền
của người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao
động Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật
lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Nhận thức chung về quyền của người khuyết tật
1.1.1. Quan niệm về quyền của người khuyết tật
Người khuyết tật là nhóm người dễ bị tổn thương, là một bộ phận dân cư và
tồn tại khách quan trong lịch sử loài người. Ngân hàng thế giới ước tính có khoảng
10% dân số thế giới (khoảng 650 triệu người) phải sống chung với những khuyết tật
và có sự khác nhau giữa các vùng, các nước và chủ yếu tập trung ở các nước kém
phát triển. Theo số liệu báo cáo của UNDP, ước tính mỗi năm có thêm gần 10 triệu
người khuyết tật và dự báo đến năm 2035 số người khuyết tật trên thế giới sẽ lên tới
667 triệu người [113, tr.1].
Cách nhìn nhận về người khuyết tật có những thay đổi nhất định qua từng
thời kỳ. Nếu như những năm 1950, người khuyết tật được nhìn nhận theo mô hình
“chăm sóc y tế”, theo đó vấn đề người khuyết tật là vấn đề phúc lợi xã hội và họ là
đối tượng cần được hỗ trợ, chăm sóc, được hưởng trợ giúp chứ không phải là chủ
thể có quyền như công dân bình thường thì những năm 1970 cách nhìn nhận người
khuyết tật đã có sự thay đổi, theo đó những người khuyết tật là những người có khả
năng, có quyền sống và lao động như những người bình thường chứ không phải là
một đối tượng cần nhận sự “ban ơn” của xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
cách hiểu thống nhất về người khuyết tật. Trên thế giới có hai quan điểm chính về
người khuyết tật song song cùng tồn tại, đó là quan điểm khuyết tật cá nhân và quan
điểm khuyết tật xã hội. Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật
dưới góc độ y tế (y học) cho rằng khuyết tật là hạn chế cá nhân, là ở chính con
người đó, mà hầu như không chú ý tới các yếu tố xã hội. Ngược lại, quan điểm
khuyết tật theo mô hình xã hội, những người khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị
xã hội loại trừ và phân biệt [91]. Từ những cách nhìn nhận khác nhau về người
khuyết tật cùng với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử phát triển cũng như kĩ thuật lập
pháp từng quốc gia mà pháp luật quốc tế cũng như quốc gia có định nghĩa khác
nhau về người khuyết tật.
7
Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006 định
nghĩa“Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất,
tâm thần, trí tuệ hay giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có
thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở
bình đẳng với những người khác” [38, Điều 1].
Công ước số 159 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Tái thích ứng nghề
nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm 1983 quy định: “Người khuyết tật dùng để
chỉ người mà khả năng tìm thấy một việc làm phù hợp, gắn bó lâu dài với công việc đó
cũng như triển vọng thăng tiến về nghề nghiệp đều bị giảm sút đáng kể do một sự khiếm
khuyết về thể chất hoặc tâm thần được công nhận rõ ràng”[80, Điều 1, Khoản 1].
Khái niệm người khuyết tật theo quan điểm của Tổ chức quốc tế người
khuyết tật (DPI, 1982): Người khuyết tật trở thành khuyết tật là do thiếu cơ hội để
tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác. Do
vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính
năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật sống [92, tr.5].
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 1999, người khuyết tật
là người bị suy giảm chức năng ở ba mức độ là: khiếm khuyết (impairment), khuyết
tật (disability) và tàn tật (handicap). Trong đó, khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc
không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý. Khuyết tật
chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn
tật đề cập tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động
của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ [91].
Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans
with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về
thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan
trọng trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về
vận động; Khiếm khuyết về thị giác, Khiếm khuyết về nói và nghe, Chậm phát triển
tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, Các bệnh lây và
không lây như Bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, bệnh lao
và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) [74].
8
Hay Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người khuyết
tật năm 1990 ghi nhận:
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát
của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh lý hoặc trong
cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả
năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường. Người khuyết
tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể
chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều
và/hoặc khuyết tật khác [31, Điều 2].
Luật Người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 17 tháng 06 năm 2010 đưa ra định nghĩa về người khuyết tật:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp khó khăn” [70, Điều 2, Khoản 1]. Theo đó, đối tượng xác định là người
khuyết tật dựa vào việc bộ phận cơ thể bị suy giảm chức năng biểu hiện dưới dạng tật
(khiếm thính, khiếm thị, tật nguyền, người bị tâm thần, thiểu năng trí tuệ…) và gây
khó khăn cho việc lao động, học tập, sinh hoạt bao gồm cả những người bị khuyết tật
bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh…
Như vậy, tùy thuộc vào việc ủng hộ quan điểm khuyết tật cá nhân hay khuyết
tật xã hội mà mỗi quốc gia có nhìn nhận không giống nhau về người khuyết tật. Tuy
vậy, dù có ủng hộ quan điểm nào đi chăng nữa thì khi định nghĩa về người khuyết
tật cũng phải phản ánh thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố
xã hội, môi trường hoặc con người khi họ tham gia vào các hoạt động của đời sống
xã hội. Người khuyết tật có một số những đặc điểm riêng về tâm, sinh lý và sức
khỏe so với người bình thường cộng thêm nhận thức và thái độ kì thị của xã hội
khiến họ dễ cảm thấy tự ti và mặc cảm về bản thân. Chính vì vậy, người khuyết tật
cần được nhà nước, gia đình và xã hội trợ giúp, tạo điều kiện, cơ hội bình đẳng để
tiếp cận và hưởng thụ các quyền bình đẳng với mọi công dân khác, vươn lên làm
chủ cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
9
Người khuyết tật trước hết là con người trong xã hội nên họ cũng có các
quyền cơ bản của một con người nhưng do bị khiếm khuyết về mặt thể chất hay tâm
thần nên họ có một số các quyền đặc thù theo luật định. Quan niệm về quyền của
người khuyết tật có sự thay đổi cách tiếp cận trong pháp luật quốc tế cũng như pháp
luật quốc gia. Ngay từ khi ban hành những văn bản pháp lý đầu tiên, Liên hợp quốc
(UN) luôn khẳng định sự thiết yếu của việc tôn trọng và thực hiện các quyền và tự
do cơ bản của tất cả mọi người và không phân biệt thành phần, giới tính, tôn giáo
hay tín ngưỡng [33, Điều 1]… Các quyền của người khuyết tật được đặt trên cơ sở
các quy định phổ quát đó.
Trong những năm 1940 và 1950, UN mới chỉ tập trung vào việc thúc đẩy các
quyền của người khuyết tật về thể chất thông qua các phương pháp tiếp cận an sinh
xã hội [115]. Hiến chương và các công ước về quyền con người được các nước phê
chuẩn từ giữa những năm 1940 cho đến cuối những năm 1960 (ví dụ Tuyên ngôn
Quốc tế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền năm 1948, Công ước của Liên Hợp
Quốc về Quyền Kinh tế, Văn hóa, Xã hội năm 1966, và Công ước của Liên Hợp
Quốc về Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966…) chưa có các quy định riêng đề
cập đến người khuyết tật. Tuy nhiên, Tuyên ngôn quốc tế của Liên hợp quốc về
nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và
bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí
và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu” [34, Điều 1]. Tuyên
ngôn này cũng liệt kê tất cả các quyền mà con người được hưởng bao gồm các
quyền trong các lĩnh vực dân sự, chính trị; quyền kinh tế, văn hóa và xã hội.Theo
quy định này thì người khuyết tật cũng phải được hưởng những quyền lợi cơ bản
mà mọi người trong xã hội được hưởng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, người
khuyết tật vẫn phải đối mặt với nhiều bất lợi, tình trạng họ bị tách biệt khỏi xã hội,
cũng như tình trạng họ bị phân biệt đối xử mới được nhận thức rõ ràng hơn và đã
được nêu thành một vấn đề về quyền của người khuyết tật. Việc dần thay đổi từ
cách tiếp cận phúc lợi xã hội sang cách tiếp cận dựa vào quyền con người được thể
hiện thông qua việc đề cập một cách cụ thể về người khuyết tật trong các Hiến
10
chương, các Công ước và các sáng kiến về quyền con người được phê chuẩn từ
những năm 1980 và trong ngày càng nhiều các văn bản luật pháp quốc tế (thường
không mang tính bắt buộc) được các tổ chức như Liên Hợp Quốc và Ủy ban Châu
Âu thông qua [107, tr.566].
Ngày 13/12/2006 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 61 đã thông qua Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và chính thức có hiệu lực từ tháng
5/2008 sau khi có 20 quốc gia phê chuẩn. Công ước là văn bản luật mang tính toàn
cầu đầu tiên trong lịch sử nhân loại khẳng định quyền của người khuyết tật. Theo
đó, người khuyết tật được công nhận là đối tượng có đầy đủ các quyền và nhân
phẩm như những thành viên khác trong cộng đồng, được bình đẳng về cơ hội trong
xã hội. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật xác định các quyền của
người khuyết tật và nghĩa vụ của các quốc gia tham gia. Mặc dù không thiết lập các
nhân quyền mới nhưng đây là công ước quốc tế về nhân quyền đầu tiên của thế kỷ
21, đồng thời cũng là công cụ luật pháp đầu tiên bảo vệ toàn diện quyền của người
khuyết tật. Công ước này còn có ý nghĩa đặc biệt khi thay đổi cách nhìn đối với tình
trạng khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không phải chỉ là vấn đề y tế, và xác lập
sự dịch chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng nhân đạo sang hướng nhân
quyền [92, tr.152-153].
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) là một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp
Quốc có nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao động bình đẳng và phù hợp trên toàn
thế giới [80, tr.12]. ILO thực hiện sứ mệnh của mình thông qua việc soạn thảo các
tiêu chuẩn để các quốc gia phê chuẩn dưới hình thức công ước và khuyến nghị về
lao động quốc tế. Từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mục tiêu chính của tổ
chức ILO là tăng cường các cơ hội việc làm bình đẳng [81, tr.2]. Quan niệm về
quyền của người khuyết tật của ILO cũng xuất phát từ hạt nhân quyền con người thể
hiện trong “Tuyên bố Philadelphia” được thông qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế
tổ chức năm 1944, trong đó chỉ rõ: “Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc,
tín ngưỡng, hoặc giới tính đều có quyền được mưu cầu một cuộc sống vật chất đầy
đủ, được phát triển tinh thần trong điều kiện tự do và đảm bảo nhân phẩm, trong
điều kiện an ninh kinh tế và cơ hội bình đẳng”… [81, tr.3].
11
Năm 1944, với bản khuyến nghị đầu liên quan đến các dịch vụ việc làm, bao
gồm cả đào tạo nghề và định hướng việc làm (Khuyến nghị Số 71, 1944 về Việc
làm), ILO đã dành một phần đáng kể (phần X, từ đoạn 39 đến đoạn 44) để trình bày
về vấn đề việc làm của người khuyết tật. ILO có đề xuất rằng, bất kỳ khi nào có thể,
người khuyết tật cần được đào tạo cùng với những người khác, được làm việc trong
cùng điều kiện và được trả cùng mức lương; đồng thời cần tiếp tục việc đào tạo cho
đến khi người khuyết tật có đủ khả năng kiếm được việc làm trong lĩnh vực hoặc
các ngành nghề mà họ đã được đào tạo. ILO kêu gọi sự bình đẳng về cơ hội nghề
nghiệp cho người lao động khuyết tật và khuyến khích áp dụng các chính sách việc
làm ưu tiên nhằm tăng cường việc làm cho người khuyết tật nặng [91].
Năm 1983, một năm sau khi thực thi Chương trình hành động toàn cầu liên
quan đến người khuyết tật và hai năm sau Năm quốc tế về Người khuyết tật, ILO đã
thông qua Công ước số 159 và Khuyến nghị số 168 về Tái thích ứng nghề nghiệp và
việc làm của người khuyết tật. Công ước số 159 yêu cầu các nước đã phê chuẩn
công ước này phải xây dựng các chính sách quốc gia dựa trên nguyên tắc cơ hội
bình đẳng giữa người lao động khuyết tật và người lao động nói chung, tôn trọng sự
bình đẳng về cơ hội và đối xử bình đẳng giữa người khuyết tật nam và nữ, đồng thời
thực thi các biện pháp tích cực nhằm thực hiện hiệu quả các nguyên tắc này. Việc
đề cao sự tham gia toàn diện của người khuyết tật được thể hiện thông qua khái
niệm về phục hồi chức năng gắn với việc làm: “Giúp người khuyết tật tìm được việc
phù hợp, được duy trì và thăng tiến trong công việc đó và qua đó được hòa nhập
hoặc tái hòa nhập xã hội tốt hơn” [80, Điều 1-2].
Như vậy có thể thấy quan niệm về quyền của người khuyết tật trong pháp
luật quốc tế có sự thay đổi qua các thời kì khác nhau nhưng xu hướng chung là dịch
chuyển hướng tiếp cận quyền của người khuyết tật từ nhân đạo chuyển sang nhân
quyền. Theo đó, người khuyết tật cũng có cơ hội bình đẳng và được hưởng các
quyền cơ bản của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng xã hội, ngoài
ra họ còn có các quyền được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt với tư cách là nhóm
người đặc biệt dễ bị tổn thương, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế
cũng như pháp luật quốc gia.
12
1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật
Vấn đề người khuyết tật đã đang trở thành chủ đề được đặc biệt quan tâm bởi
cả cộng đồng quốc tế. Sau một thời gian dài, thế giới mới bắt thừa nhận người
khuyết tật như một chủ thể của các quyền như mọi thành viên khác trong xã hội và
đã được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Quyền của người khuyết
tật đã trở thành một chế định quan trọng trong luật quốc tế hiện đại. Liên hợp quốc
đang nỗ lực kêu gọi các quốc gia phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở
pháp lý tôn trọng, quan tâm thúc đẩy việc thực hiện các quyền cơ bản của người
khuyết tật. Vậy vị trí và vai trò quyền của người khuyết tật là gì?
Thứ nhất, việc công nhận quyền của người khuyết tật thể hiện một quan điểm
nhân văn và tiến bộ của nhân loại, khẳng định rằng với tư cách là một con người,
người khuyết tật có các quyền cơ bản như mọi thành viên khác trong xã hội. Tuyên
ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 đã khẳng định mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng, đều có quyền sống, quyền hưởng phúc lợi, quyền
được giáo dục và có việc làm, quyền sống một cách độc lập và được tham gia tích
cực vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc phân
biệt đối xử tiêu cực khác đối với người khuyết tật đều vi phạm các quyền của người
đó. Do đó, quyền của người khuyết tật bao hàm tất cả nội hàm cũng như đặc điểm
của quyền con người. Ngoài ra, do đặc thù là nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, dễ
bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con
người cho nên quyền của người khuyết tật có các đặc điểm riêng nhất định.
Việc công nhận quyền của người khuyết tật cũng là điều kiện để đảm bảo sự
hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn
quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc có khẳng định:
Việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, các quyền bình đẳng và không
thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự
do, công bằng và hòa bình trên thế giới và Nhân quyền phải được pháp
luật bảo vệ để mỗi người không buộc phải nổi loạn như là biện pháp cuối
cùng để chống lại chế độ cường quyền và áp bức [34].
13
Việc thừa nhận người khuyết tật như là một chủ thể của các quyền, có khả
năng tự nuôi sống bản thân và làm chủ cuộc sống của mình giúp cho mỗi quốc gia
giảm bớt được gánh nặng về phúc lợi xã hội cho người khuyết tật vì lý do phụ thuộc
và không sinh lợi. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của bản thân người khuyết tật nói
riêng cũng như xã hội nói chung.
Thứ hai, quyền của người khuyết tật là cơ sở và nền tảng cho việc thể chế hóa
thành các chính sách và quy định của pháp luật để bảo vệ và phát huy tối đa mọi
nguồn lực xã hội. Luật pháp quốc tế và quốc gia đã và đang thông qua hoặc điều
chỉnh để đảm bảo các quyền của người khuyết tật. Người khuyết tật do đó được đảm
bảo có cơ hội đồng đều thông qua việc xóa bỏ tất cả các trở ngại, định kiến của xã hội
về mặt thể chất, tài chính, xã hội hoặc tâm lý mà đã loại trừ hoặc hạn chế sự tham gia
hoàn toàn của họ vào đời sống xã hội, đồng thời có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng khi chúng bị xâm phạm trên phạm vi toàn cầu. Nhiệm vụ nội luật hóa các
quy định của pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia được quy định trong Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006: “Nghĩa vụ chung: Các quốc
gia thành viên cam kết đảm bảo và thúc đẩy sự hiện thực hóa đầy đủ tất cả các
quyền và tự do cơ bản của toàn bộ những người khuyết tật mà không có bất cứ sự
phân biệt đối xử nào dựa trên cơ sở khuyết tật…” [96, Điều 4].
Thứ ba, việc thừa nhận quyền của người khuyết tật là phù hợp với xu thế
chung của quốc tế. Trong xu thế hội nhập, vấn đề quyền của người khuyết tật không
còn là vấn đề của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà trở thành mối quan
tâm chung của nhân loại. Do đó, thừa nhận người khuyết tật là chủ thể của các
quyền giúp cho mỗi quốc gia theo kịp với thế giới. Cộng đồng quốc tế nói chung
luôn yêu chuộng hòa bình và nhân đạo. Việc thể chế hóa quyền của người khuyết
tật trong hệ thống pháp luật giúp cải thiện cái nhìn và tranh thủ sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với vấn đề nhân quyền của mỗi quốc gia, giúp tiếng nói của mỗi
quốc gia trên trường quốc tế trở lên có uy tín và sức mạnh.
14
Ngày nay loài người đang phải đương đầu với những thách thức to lớn là đấu
tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, đói nghèo… là những nguyên nhân làm gia tăng số lượng
người khuyết tật. Do đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì
mục tiêu tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho con người phát triển toàn diện.
Cũng vì lẽ đó, Liên hợp quốc đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự
do của con người trong đó có người khuyết tật. Liên hợp quốc cũng khuyến nghị và
yêu cầu các quốc gia phải có nghĩa vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia phù
hợp với pháp luật quốc tế; nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế đã nêu trong
các Công ước quốc tế mà quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia. Và một khi pháp
luật quốc gia đã phù hợp với pháp luật quốc tế, sẽ trở thành phương tiện quan trọng
trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật trong phạm vi quốc gia và tranh thủ
sự trợ giúp của các nguồn lực quốc tế để đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của
người khuyết tật.
1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế
Người khuyết tật có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, trong đó có các
quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Công ước quốc tế về quyền của
người khuyết tật năm 2006 từ Điều 5 đến Điều 30 đã ghi nhận các quyền cơ bản của
người khuyết tật như quyền được sống; quyền được thừa nhận bình đẳng; quyền tự
do và an toàn cá nhân; quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; quyền được tôn
trọng gia đình và tổ ấm; quyền tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch; quyền tự
do biểu đạt chính kiến và tiếp cận thông tin; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị
đối xử, áp dụng các hình phạt tàn nhẫn; quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm
dụng; quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng; quyền tham gia các
hoạt động văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao; quyền hưởng các dịch vụ y tế,
quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; quyền có mức sống thích đáng
và bảo trợ xã hội đầy đủ; quyền được tiếp cận giáo dục; quyền có cơ hội công việc
và việc làm. Theo đó, Công ước quy định:
Quốc gia thành viên công nhận rằng mọi người đều bình đẳng
15
trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, quyền được hưởng
lợi ích của pháp luật một cách bình đẳng, không có sự phân biệt nào;
Quốc gia thành viên cấm phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật và bảo
đảm cho người khuyết tật sự bảo vệ pháp lý hữu hiệu và bình đẳng chống
lại sự phân biệt đối xử trên bất kỳ cơ sở nào [38, Điều 5-1, 5-2].
Do vậy, người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền lợi như mọi thành
viên khác trong xã hội và ngay cả những người khuyết tật cũng được hưởng các
quyền lợi bình đẳng như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì lý do
khuyết tật của họ. Trách nhiệm của các quốc gia thành viên Công ước là phải thể
chế hóa, nội luật hóa các quy định của Công ước vào pháp luật quốc gia và thực thi
nghiêm chỉnh các quy định đó.
Bên cạnh các quyền lợi cơ bản nêu trên, do đặc thù là nhóm người chịu
nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các
quyền cơ bản của con người, cho nên quyền của người khuyết tật có những đặc
điểm riêng bao gồm:
Trong lĩnh vực dân sự, chính trị, người khuyết tật có các quyền dân sự, chính
trị với tư cách là một con người. Tuy nhiên đối với những người khuyết tật tâm thần
nặng, là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất năng lực hành
vi dân sự; những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi
dân sự một phần (người mắc bệnh tâm thần, thiểu năng trí tuệ) phải thực hiện các
quyền dân sự (ví dụ tham gia các giao dịch dân sự) thông qua người giám hộ hoặc
được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Những người bị khuyết tật tâm
thần nặng không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử do không có năng lực hành vi
dân sự [36, Điều 5]. Một số quyền của người khuyết tật về tâm thần cần được ưu
tiên theo luật định, chẳng hạn quyền không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
những người tâm thần nặng phạm tội hình sự bởi vì họ không có năng lực trách
nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi phải có các quy định chặt chẽ của pháp luật về
những điều kiện, cách thức để xác định những trường hợp người khuyết tật không
phải chịu trách nhiệm pháp lý nhằm tránh oan sai hoặc bỏ sót tội phạm. Như vậy,
16
người khuyết tật tâm thần, người thiểu năng trí tuệ có các quyền dân sự, chính trị
không đầy đủ, họ không thể tự thực hiện một số quyền và không có khả năng bảo vệ
quyền của mình mà phải thông qua người giám hộ hoặc người đại diện. Đặc điểm
này cho thấy trách nhiệm của nhà nước là phải có các quy định cụ thể bằng pháp
luật để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền của người khuyết tật tâm thần
nặng và những người thiểu năng trí tuệ, tránh lạm dụng và vi phạm quyền của người
khuyết tật trong thực tế.
Trong lĩnh vực quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, người khuyết tật có những
đặc quyền đó là quyền được chăm sóc, chỉnh hình và phục hồi chức năng. “Người
khuyết tật về tâm thần có quyền được chăm sóc sức khỏe và vật lý trị liệu phù hợp,
đồng thời có các quyền về giáo dục, đào tạo, phục hồi chức năng và hướng dẫn để
họ có thể phát triển khả năng và tiềm năng của mình tới mức tối đa” [36, Điều 2].
Những người khuyết tật vận động bị hạn chế khả năng thực hiện đầy đủ quyền được
tiếp cận các công trình công cộng, hòa nhập cộng đồng; người khuyết tật nghe, nhìn
bị hạn chế khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin, truyền thông… Đây là
những đặc điểm riêng biệt cần phải quan tâm trong khi thực hiện quyền con người
của người khuyết tật, cần phải có chính sách hỗ trợ đặc biệt tạo điều kiện cho họ
thực hiện đầy đủ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Trong lĩnh vực lao động, người khuyết tật cũng có các quyền cơ bản như
những lao động bình thường khác chẳng hạn như: quyền được đào tạo dạy nghề và
việc làm, quyền về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh
lao động, quyền được hưởng trợ cấp xã hội và khiếu nại khi quyền lợi của mình bị
xâm phạm… Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 quy
định về việc thừa nhận quyền mà mọi người được hưởng những điều kiện làm việc
công bằng và thuận lợi như sau:
Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi
người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc
biệt đảm bảo:
a. Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo:
17
(i) Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công
việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ
nữ phải được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn
ông, được trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau;
(ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù
hợp với các quy định của Công ước này.
b) Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh;
c) Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức
vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc;
d) Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm
việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao
cho những ngày nghỉ lễ [35, Điều 7].
Tuy nhiên, cũng do đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, người khuyết tật được
pháp luật quy định được hưởng các quyền bình đẳng với những người khác về điều
kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng kể cả trong
lĩnh vực công, thăng tiến nghề nghiệp, được trả lương ngang nhau cho công việc có
giá trị ngang nhau và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe…, nghiêm
cấm mọi sự phân biệt đối xử để đảm bảo cho họ bình đẳng với những lao động bình
thường khác, tạo động lực thúc đẩy họ phấn đấu, làm tốt công việc của mình. Điều
này được thể hiện trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật:
Quốc gia thành viên công nhận quyền lao động của người khuyết
tật trên cơ sở bình đẳng với những người khác; quyền này bao gồm cả
quyền có cơ hội tự kiếm sống bằng hình thức lao động do người lao động
chọn hoặc chấp nhận trên thị trường lao động và trong môi trường lao
động mở, dễ tiếp cận đối với người khuyết tật… [38, Điều 27].
Công ước số 159 (1983) về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người
khuyết tật ILO cũng quy định: “Mọi nước thành viên phải coi mục đích tái thích
ứng nghề nghiệp và làm cho mọi người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được
một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về nghề nghiệp, và do đó dễ dàng trong
việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội” [80, Điều 1-2].
18
Trên cơ sở giới tính, tuổi tác, nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật
được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau, do đó cần phải có các biện pháp bảo vệ
quyền phù hợp với từng đối tượng. Xét dưới góc độ giới tính, phụ nữ khuyết tật là
những người bị tổn thương kép, vì vậy, cần phải lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, có
chính sách ưu tiên đặc biệt trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật là phụ nữ.
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 quy định: “Quốc gia thành
viên thừa nhận rằng phụ nữ và các bé gái khuyết tật dễ bị phân biệt đối xử, do vậy
quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp bảo đảm cho họ được hưởng trọn
vẹn và bình đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người” [38, Điều 6]. Dưới góc
độ tuổi tác, trẻ em khuyết tật là những công dân đặc biệt, bởi các em còn non nớt cả
về thể chất và trí tuệ, lại thêm bất hạnh bởi khuyết tật nên các em không thể thực
hiện các quyền của mình một cách đầy và không tự bảo vệ được chính mình, cho
nên các em là đối tượng đặc biệt cần được ưu tiên. Do đó, trẻ em khuyết tật có các
quyền đặc thù như: quyền được nhận làm con nuôi, quyền được học tập bình
thường như mọi đứa trẻ khác và được chữa bệnh miễn phí… Công ước quốc tế về
quyền của người khuyết tật yêu cầu:
Các quốc gia thành viên bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật có quyền
bày tỏ ý kiến một cách tự do về mọi vấn đề ảnh hưởng tới các em, ý kiến
của trẻ em phải được cân nhắc thích đáng phù hợp với độ tuổi và sự
trưởng thành của các em, trên cơ sở bình đẳng với các trẻ em khác, bảo
đảm cung cấp cho các em sự trợ giúp phù hợp với lứa tuổi và với tình
trạng khuyết tật để các em thực hiện quyền đó [38, Điều 7-3].
Dưới góc độ nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật đặc biệt như
những thương, bệnh binh, những người có công với đất nước nên họ có những
quyền được ưu tiên đặc biệt như: quyền được hưởng chế độ trợ cấp đặc biệt; quyền
được ưu tiên đặc biệt khi thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền học tập,
lao động và tìm kiếm việc làm…
Từ những đặc điểm riêng về quyền của người khuyết tật nêu trên cho thấy
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật cần phải chú
19
trọng ghi nhận và có biện pháp đặc biệt để đảm bảo thực hiện các quyền đặc thù của
người khuyết tật nhằm hạn chế tiến tới xóa bỏ rào cản đối với người khuyết tật về
mặt xã hội. Nói cách khác, cơ hội tiếp cận và khả năng thụ hưởng quyền của người
khuyết tật nếu không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý sẽ dẫn đến tình trạng phụ
thuộc vào nhận thức của xã hội về vị thế và các quyền con người cơ bản của họ.
Thực tế cho thấy do nhận thức của xã hội còn hạn chế nên người khuyết tật vẫn phải
chịu sự kì thị và phân biệt đối xử. Họ bị ghẻ lạnh, bị coi là gánh nặng của gia đình
và xã hội. Những hạn chế này đã tạo ra rào cản đối với việc tiếp cận và hưởng thụ
quyền của người khuyết tật.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật
Bảo có nghĩa là giữ, vệ có nghĩa là chống lại. Bảo vệ có nghĩa là “chống lại
mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” [101, tr.34]. Theo đó có
thể hiểu bảo vệ quyền của người khuyết tật tức là chống lại các hành vi xâm phạm
đến quyền của người khuyết tật để giữ cho họ được tham gia vào các quan hệ xã hội
và được hưởng các quyền lợi hợp pháp.
Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật không được định nghĩa cụ thể
trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như luật pháp một số quốc gia như: Mỹ,
Anh, Trung Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam. Tuy nhiên, các văn kiện pháp lý quốc
tế và các quốc gia có đề cập đến trách nhiệm của các quốc gia phải thực hiện các
biện pháp hữu hiệu nhất nhằm mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
người khuyết tật, giúp cho họ có cơ hội được tiếp cận và thụ hưởng các quyền bình
đẳng như mọi thành viên khác trong xã hội. Chẳng hạn, Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật 2006 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm
và thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do của tất cả
người khuyết tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào do bị khuyết
tật” [38, Điều 4, Khoản 1]. Ngoài ra, Công ước còn quy định các biện pháp bảo vệ
quyền của người khuyết tật mà các quốc gia thành viên phải cam kết thực hiện như: