Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Ứng dụng phương pháp phân tích kỹ thuật phân tích thông tin tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.83 KB, 81 trang )

MỤC LỤC
3.2.1. Số loại cổ phiếu niêm yết 7
3.2.3. Số loại trái phiếu 11
3.2.4. Số lượng tài khoản nhà đầu tư chứng khoán 11
3.4.1. Giá trị vốn hóa thị trường của công ty 16
3.4.2. Tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường 16
3.5.1. Khối lượng giao dịch 19
3.5.2. Giá trị giao dịch 20
3.6.1. Thiếu tính minh bạch 23
3.6.2. Rủi ro chính sách 23
3.6.3.Tình trạng “làm giá” 23
3.6.4. Rủi ro hệ thống 23
3.6.5. Sản phẩm tài chính nghèo nàn 24
3.6.6. Trình độ chuyên môn và nhận thức của các bên liên quan chưa cao 24
2.1. Quan điểm xunh quanh đối tượng phản ánh của giá chứng khoán 25
2.2. Quan điểm xung quanh tốc độ phản ánh thông tin của giá chứng khoán 26
2.3. Quan điểm xung quanh phương pháp đầu tư 26
2.4. Quan điểm xung quanh khả năng dự đoán giá tương lai của chứng khoán28
4.1. PTKT là phương pháp phân tích quan trọng nhất nếu khung thời gian phân
tích ngắn 31
4.2. Những nhà phân tích kỹ thuật là những người có kinh nghiệm, có kiến thức
33
4.3. Công ty nhỏ có xu hướng sử dụng PTKT nhiều hơn công ty lớn 34
4.4. Đa số các nhà quản lý quỹ cho rằng giá bị ảnh hưởng bởi tâm lý 34
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
PHÂN TÍCH THÔNG TIN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM 34
1
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
PHÙ HỢP VỚI VIỆC SỬ DỤNG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT 35
1. Những bất lợi khi sử dụng phương pháp phân tích cơ bản và lý thuyết thị


trường hiệu quả 35
2.1. Giai đoạn thị trường tăng mạnh 55
2.2. Giai đoạn thị trường đi ngang 55
2.3. Giai đoạn thị trường tăng nhẹ 55
2.4. Giai đoạn thị trường giảm mạnh 55
 59
2. Đối với RSI 59
PHỤ LỤC 72
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
1. Danh mục các bảng:
2
Bảng Tên bảng Trang
1
Năm thành lập, tên quốc tế và tên viết tắt của HOSE VÀ HNX 8
2
Năm thành lập và hình thức sở hữu của một số sàn chứng khoán
trên thế giới và khu vực Đông Nam Á
8
3
Số loại cổ phiếu niêm yết của HOSE và một số sàn chứng khoán
trong khu vực năm 2009
10
4
So sánh số tài khoản đầu tư trong năm 2009 giữa HOSE và SET 13
5
Toàn cảnh các thị trường chứng khoán thế giới 2008 15
6
Tổng giá trị vốn hóa thị trường của một số TTCK trên thế giới
năm 2009
21

7
So sánh tổng giá trị vốn hóa thị trường của HOSE và một số sàn
chứng khoán trong khu vực Đông Nam Á năm 2009
21
8
Tổng giá trị giao dịch của HOSE so với một số sàn chứng khoán
trong khu vực Đông Nam Á năm 2009
23
9
Tổng khối lượng giao dịch trên sàn HOSE giai đoạn 2000-2010 24
10
Tổng giá trị giao dịch trên sàn HOSE giai đoạn 2000-2010 25
11
So sánh phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân
tích kỹ thuật
31
12
Định nghĩa, công thức và đặc điểm của MA, RSI và Stochastic 49
13
Thời điểm các chỉ báo MA, RSI và Stochastic đưa ra tín hiệu
mua và bán
53
14
Kết quả phân tích 59
15
Những tín hiệu mua-bán Stochastic (9,3,3) đưa ra không được
giao dịch
72
16
Những tín hiệu mua-bán Stochastic (20,3,3) không được giao

dịch
72
17
Lợi nhuận do phương pháp Stochastic mang lại khi loại bỏ tín
hiệu ngược với xu hướng thị trường
73
2. Danh mục các biểu đồ
3
Biểu
đồ
Tên biểu đồ Trang
1
Số lượng cổ phiếu, trái phiếu, số công ty chứng khoán và số
lượng tài khoản nhà đầu tư sàn HOSE (hình ở trên) và HNX
(hình ở dưới)
11
2 Diễn biến chỉ số VN-Index giai đoạn 1/2001 đến 4/2011 14
3 Diễn biến chỉ số HNX-Index (2005-2010) 17
4 Tổng giá trị vốn hóa thị trường của HOSE giai đoạn 2000-2009 20
5 Phân phối lũy kế mức độ sử dụng của phương pháp PTKT 36
6
Mức độ sử dụng phương pháp PTKT, PTCB và phân tích dòng
tiền qua trong các khung thời gian dự đoán khác nhau
37
7 Tín hiệu sai của phương pháp PTKT 44
8 Mô hình thị trường tăng mạnh, tăng yếu và đi ngang 57
9 Tín hiệu sai của MA 65
10 Tín hiệu sai của RSI 67
11 Tín hiệu sai của Stochastic 69
12

Tín hiệu mua bán Stochastic đưa ra ngược với xu hướng của thị
trường
74
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CAPM (Capital Asset Pricing Model): Mô hình định giá tài sản vốn
CTCK: Công ty chứng khoán
IMF (International Monetary Fund): Quỹ tiền tệ quốc tế
GDP (Gross Dosmestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội
HOSE: Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
HNX: Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội
MA (Moving Average): Trung bình động
NYSE (New York Stock Exchange): Sàn Giao dịch chứng khoán New York
OTC (Over the counter): Thị trường giao dịch qua quầy
PTKT: Phân tích kỹ thuật
PTCB: Phân tích cơ bản
RSI (Relative Strength Index): Chỉ số sức mạnh tương đối
SET (Stock Exchange of Thailand): Sàn Giao dịch chứng khoán Thái Lan
TTCK: Thị trường chứng khoán
TTGDCK: Trung tâm Giao dịch Chứng Khoán
UBCKNN: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
UPCOM (Unlisted Public Company Market) Thị trường giao dịch cổ phiếu của công
ty đại chúng chưa niêm yết
VCCI (The Vietnam Chamber of Commerce &Industry): Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua chặng đường hơn 10 năm phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
bước đầu có những thành công đáng khích lệ và thu hút ngày càng nhiều những nhà

đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó, số lượng nhà đầu tư, nhân viên, chuyên viên sử
dụng các phương pháp phân tích đầu tư cổ phiếu để tiến hành giao dịch cũng ngày một
tăng lên.
Phương pháp phân tích kỹ thuật cùng với phương pháp phân tích cơ bản là
những phương pháp phân tích đầu tư chứng khoán phổ biến trên các thị trường chứng
khoán từ hàng thế kỷ nay. Cả hai trường phái phân tích này đều đang được các nhà đầu
tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam sử dụng. Bên cạnh đó, phương pháp phân
tích kỹ thuật ngày càng được ứng dụng một cách rộng rãi.
Tuy nhiên, tính hiệu quả và tính đúng đắn khi ứng dụng phương pháp phân tích
kỹ thuật trong phân tích đầu tư chứng khoán hiện còn là vấn đề được giới học giả, các
chuyên gia và nhà đầu tư bàn luận. Vì thế, phương pháp phân tích kỹ thuật cần phải
được ứng dụng và nghiên cứu một cách cụ thể nhằm xác định tính hiệu quả của nó khi
sử dụng trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tìm ra những ưu điểm và nhược điểm
của nó. Qua đó, nhà đầu tư, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có thể nhìn nhận
đúng hơn về phương pháp này, về thị trường chứng khoán Việt Nam và đưa ra những
quyết định chính xác hơn.
Và cũng chính vì những lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Ứng dụng phân tích
kỹ thuật trong việc phân tích thông tin tài chính trên thị trường chứng khoán Việt
Nam” nhằm xác định tính hiệu quả của phương pháp phân tích kỹ thuật và đề ra biện
pháp nâng cao tính hiệu quả của phương pháp này.
2. Mục đích nghiên cứu
Với lý do đó, bài khóa luận tập hướng đến đánh giá tính hiệu quả của phân tích
kỹ thuật khi ứng dụng nó với dữ liệu thông tin tài chính trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, tìm ra những nhược điểm của phân tích kỹ thuật sau khi ứng dụng, từ đó đề
ra biện pháp khắc phục các nhược điểm và bổ sung về mặt lý luận cho phương pháp
1
này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu tính hiệu quả của việc ứng dụng phương pháp phân
tích kỹ thuật trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Có 5 nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể

được đưa ra. Thứ nhất, khái quát đặc điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam qua
chặng đường 10 năm phát triển. Thứ hai, khái quát các quan điểm ủng hộ và phản đối
phân tích kỹ thuật. Thứ ba, xây dựng cách thức ứng dụng phân tích kỹ thuật để phân
tích trong bài khóa luận. Thứ tư, ứng dụng phân tích kỹ thuật phân tích thông tin tài
chính trên thị trường một cách khách quan. Thứ năm, đánh giá tính hiệu quả, ưu điểm,
nhược điểm của phân tích kỹ thuật. Và cuối cùng, đề xuất biện pháp khắc phục những
nhược điểm của phân tích kỹ thuật
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu vì thế là đặc điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam
và chỉ số VN-Index thông qua các dữ liệu, số liệu và thông tin thu thập được.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận, phân tích thực trạng, ứng dụng
phân tích trên số liệu thực tế, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp
phân tích kỹ thuật
Về thời gian: Bài khóa luận đã sử dụng dữ liệu về thị trường chứng khoán Việt
Nam từ năm 2000 đến năm 2010 để phân tích thực trạng thị trường; dữ liệu về thị
trường chứng khoán thế giới và trong khu vực từ 2008-2010 để so sánh tương quan với
thị trường chứng khoán Việt Nam, dữ liệu quá khứ của chỉ số Vn-Index từ năm 2006
đến năm 2010 để làm dữ liệu phân tích của phân tích kỹ thuật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận chủ yếu sử dụng 3 phương pháp sau:
Phương pháp thống kê: thu thập số liệu từ các Sở Giao dịch chứng khoán trong
và ngoài nước, Quỹ tiền tệ quốc tế, Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam,
Tổng Cục Thống Kê và trình bày số liệu.
Phương pháp so sánh: so sánh giữa thị trường chứng khoán Việt Nam với các
2
thị trường chứng khoán trong khu vực và trên thế giới, so sánh các quan điểm của
trường phái phân tích kỹ thuật, trường phái phân tích cơ bản và trường phái thị trường
hiệu quả, so sánh các công cụ khác nhau của phân tích kỹ thuật và so sánh phương
pháp sử dụng phân tích kỹ thuật với phương pháp mua và nắm giữ

Phương pháp phân tích: phân tích các số liệu về thị trường chứng khoán Việt
Nam, về tình hình ứng dụng phân tích kỹ thuật trên thế giới, sử dụng phân tích kỹ thuật
để phân tích dữ liệu quá khứ của chỉ số VN-Index.
6. Bố cục bài khóa luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục bảng biểu, danh mục các chữ viết tắt, kết luận,
phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam và phương pháp
phân tích kỹ thuật
Chương II: Ứng dụng phân tích kỹ thuật phân tích thông tin tài chính trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
Chương III: Biện pháp nâng cao tính hiệu quả của phương pháp phân tích kỹ
thuật
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: ThS. Lê Thành Công đã chỉ
bảo và giúp đỡ em rất nhiệt tình trong suốt quá trình viết khóa luận tốt nghiệp. Dù đã
cố gắng rất nhiều, song bài khóa luận vẫn không tránh khỏi nhiều sai sót. Kính mong
các thầy cô giáo xem xét và góp ý để bài luận văn được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I:
3
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG
PHÁP PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Định nghĩa thị trường chứng khoán
Trên thế giới, TTCK đã hình thành từ thế kỷ 15 và đã trải qua một chặng đường
dài phát triển. Hầu hết các quốc gia phát triển và đang phát triển đều có các TTCK.
TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính. Hiện nay có nhiều định nghĩa
về thị trường tài chính, nhưng các quan điểm về thị trường tài chính đều thống nhất
rằng “Thị trường tài chính là thị trường mà ở đó diễn ra sự di chuyển vốn từ người có
thừa vốn đến người thiếu vốn”. [16, tr.3] Nếu dựa vào đối tượng được giao dịch, thị
trường tài chính lại chia thành các thị trường nhỏ hơn như thị trường cổ phiếu, thị
trường trái phiếu, thị trường hợp đồng tương lai, thị trường hợp đồng quyền chọn.

Trên thế giới tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về TTCK. Tuy nhiên, quan
điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị trường chứng khoán
hiện nay được viết trong Giáo trình Thị trường chứng khoán của trường Đại học Kinh
tế Quốc dân là: “thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao
đổi các loại chứng khoán”. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút
toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập hoặc tài sản của tổ
chức phát hành hay quyền sở hữu.
Ngoài giao dịch cổ phiếu và trái phiếu, đa số các TTCK trên thế giới và trong
khu vực Đông Nam Á đều cung cấp các dịch vụ chứng khoán phái sinh và thực hiện
trao đổi các loại giấy tờ có giá khác. TTCK Việt Nam là một trong những TTCK ra đời
muộn nhất. Hiện nay, TTCK Việt Nam đã thực hiện các giao dịch cổ phiếu và trái
phiếu, nhưng các giao dịch chứng khoán phái sinh chưa phát triển. Trong đó, Sở giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện các giao dịch cổ phiếu đã niêm
yết và trái phiếu doanh nghiệp. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và sàn UPCOM thực
hiện giao dịch các cổ phiếu đã niêm yết, cổ phiếu đăng ký và trái phiếu Chính Phủ. Bên
cạnh đó, TTCK phi tập trung bao gồm cả thị trường OTC thực hiện giao dịch cổ phiếu
niêm yết, chưa niêm yết, trái phiếu và các chứng khoán khác. Tuy nhiên, các công cụ
4
phái sinh chưa phát triển như ở trên thế giới. Hiện nay, cả nước chỉ có một số sàn giao
dịch kỳ hạn như sàn giao dịch cà phê kỳ hạn, sàn vàng, sàn giao dịch gạo.
2. Vai trò của thị trường chứng khoán
TTCK đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và thịnh vượng của bất kì
một quốc gia nào. Theo Eugene Fama – người có công đầu trong việc xây dựng lý
thuyết thị trường hiệu quả thì “vai trò quan trọng nhất của thị trường vốn là sự phân
bổ sự sở hữu những cổ phiếu trong nền kinh tế. Nói một cách chung nhất là, thị trường
lý tưởng là nơi mà giá cả cung cấp những tín hiệu chính xác để phân bổ nguồn lực:
doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư sản xuất và nhà đầu tư có thể lựa
chọn giữa những cổ phiếu phản ánh sự sở hữu đối với một doanh nghiệp”.[11]
Đối với từng đối tượng tham gia thị trường, TTCK lại có các vai trò khác nhau.
Nhìn chung, TTCK đóng vai trò là kênh huy động vốn trực tiếp của các doanh nghiệp,

là môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư, là nơi mà chính phủ căn cứ để đưa ra các
chính sách, và là phong vũ biểu của nền kinh tế.
Do đó, TTCK có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Những hoạt động trên TTCK có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của nhà đầu tư, hành vi
của người tiêu dùng, hành vi của các doanh nghiệp và các hoạt động mang tính chu kỳ
của nền kinh tế.[16, tr.4]
3. Lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
3.1. Sự ra đời của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội
Quá trình phát triển của TTCK Việt Nam được đánh dấu bởi sự thành lập
UBCKNN vào ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính Phủ. UBCKNN là
đơn vị có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của một cơ quan quản lý nhà nước
về chứng khoán.Việc thành lập UBCKNN là điều cần thiết đối với hoạt động của các
TTCK. Trên thế giới, các Ủy ban Chứng khoán đều đóng vai trò quản lý và điều hành
TTCK mặc dù cơ cấu tổ chức và cách quản lý ở các quốc gia có thể khác nhau. Đó là
Ủy ban Chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ, Cơ quan dịch vụ Tài chính Anh, Ủy ban
Chứng khoán Malaysia, Ủy ban Chứng khoán và Sàn chứng khoán Philipines và trên
5
góc độ quốc tế có Ủy ban của tổ chức quốc tế về Chứng khoán (IOSCO).
Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo
Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức thực hiện phiên giao
dịch đầu tiên và ngày 28/07/2000. Sau đó, trung tâm được đổi tên là Sở Giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) theo Quyết định 599/QĐ-TTg ngày
11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành
lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên
cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội sau 4 năm
hoạt động. Cả hai Sở đều là pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô
hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng; được mở tài khoản bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ tại Kho bạc Nhà nước và
các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước; là đơn vị hạch toán độc lập, tự chủ về

tài chính, thực hiện chế độ tài chính, chế độ báo cáo thống kê, kế toán, kiểm toán và có
nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật; hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật
Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở Giao dịch chứng khoán và các quy định khác của pháp
luật có liên quan. [7], [8]
Bảng 1: Năm thành lập, tên quốc tế và tên viết tắt của HOSE VÀ HNX
Sở/Đặc điểm Sở Giao dịch Tp.Hồ Chí Minh Sở Giao dịch Hà Nội
Năm thành lập 2000 2005
Tên quốc tế Hochiminh stock exchange Hanoi stock exchange
Tên viết tắt HOSE HNX
6
Bảng 2: Năm thành lập và hình thức sở hữu của một số sàn chứng khoán trên thế
giới và khu vực Đông Nam Á
Sàn
Tên viết tắt
Quốc Gia
Năm thành
lập
Hình thức sở
hữu
SGDCK New York NYSE Mỹ 1792 Tư nhân
SGDCK Luân Đôn LSE Anh 1801 Tư nhân
SGDCK Thượng Hải SSE
Trung
Quốc
1866 Nhà nước
SGDCK Tokyo TSE Nhật 1878 Tư nhân
SGDCK Hong Kong HKE
Hồng
Kong
1914 Tư nhân

SGDCK Philipines PSE Philipines 1927 Tư nhân
SGDCK Hàn Quốc KLX Hàn Quốc 1956 Tư nhân
Burse Malaysia MYX Malaysia 1960 Tư nhân
SGDCK Băng Cốc SET Thái Lan 1962 Tư nhân
SGDCK Hồ Chí Minh HOSE Việt Nam 2000 Nhà nước
SGDCK Lào LSX Lào 2011 Tư nhân
Nguồn: Website của các sàn chứng khoán
Chú thích: Các SGDCK được chọn là các sàn ra đời sớm nhất tại các nước
3.2. Sự phát triển về số loại cổ phiếu niêm yết, số loại trái phiếu, số công ty chứng
khoán và số lượng tài khoản nhà đầu tư
3.2.1. Số loại cổ phiếu niêm yết
Qua quá trình phát triển hơn 10 năm, số loại cổ phiếu niêm yết ngày càng tăng lên.
Theo Báo cáo thường niên năm 2009 của HOSE, tính đến thời điểm cuối các năm
2007, 2008 và 2009, sàn HOSE có lần lượt 138, 170 và 196 loại cổ phiếu niêm yết. [3,
tr. 23] Nhưng chỉ sau đó một năm, tức là năm 2010, con số trên đã tăng lên đến 284
7
loại cổ phiếu. [7] Từ đó có thể thấy, số loại cổ phiếu đã tăng đột biến trong năm 2010
(Biểu đồ 1). Nếu tính tỉ lệ giữa tổng số loại cổ phiếu niêm yết trên TTCK Việt Nam
năm 2009 (gồm 196 cổ phiếu tại sàn HOSE và 300 cổ phiếu tại sàn HNX) so với tổng
số 205620 doanh nghiệp Việt Nam (số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động) tại thời
điểm cuối năm 2009 thì có thể thấy, tỉ lệ trên chỉ vào khoảng 0,24%. Do đó, tiềm năng
phát triển về mặt số loại cổ phiếu niêm yết là khá lớn.[4, tr.9]
So với thế giới, số loại cổ phiếu niêm yết trên HOSE và HNX còn ở mức khá khiêm
tốn so với các sàn khác trong khu vực trên thế giới. Số liệu về số loại cổ phiếu niêm yết
của HOSE, SET và Burse Malaysia (Bảng 3) cho thấy số loại cổ phiếu niêm yết ở sàn
HOSE vẫn ít hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Mặt khác, HOSE và HNX mới
chỉ có cổ phiếu của các công ty Việt Nam niêm yết, trong khi đó, các sàn mạnh thường
niêm yết cả cổ phiếu của các công ty nước ngoài và thường có các chi nhánh của sàn
trên nhiều quốc gia khác nhau.
Bảng 3: Số loại cổ phiếu niêm yết của HOSE và một số sàn trong khu vực năm

2009
Sàn Số cổ phiếu niêm yết (2009)
SET 642
Burse Malaysia 960
HOSE 196
Nguồn: [3, tr.23], [20, tr.27], [9, tr.8]
8
Biểu đồ 1: Số lượng cổ phiếu, trái phiếu, số CTCK và số lượng tài khoản nhà đầu tư sàn HOSE
9
(Nguồn: [3], [5], [7], [8])
Chú thích: Số liệu năm 2000 là số liệu lúc HOSE mới thành lập, các năm còn lại là số liệu tại thời điểm đầu năm
10
3.2.2. Số lượng công ty chứng khoán
Số lượng công ty chứng khoán cũng tăng khá nhanh (Biểu đồ 1). Thậm chí trong
giai đoạn gần đây (2007- 2010) còn tăng nhanh hơn quy mô tăng của thị trường. Nếu
như cuối năm 2007 số công ty chứng khoán ở sàn HOSE là 62 công ty thì cuối năm
2009 là 99. Tốc độ tăng giữa năm 2009 và 2007 là 160%. Trong khi đó, tốc độ tăng của
tổng mức vốn hóa thị trường cũng trong giai đoạn đó là 135%, từ 364425 triệu VND
đến 494072 triệu VND. [3, tr.57] Thêm vào đó, mức vốn hóa toàn thị trường năm 2010
lại giảm trong khi số lượng công ty chứng khoán lại tăng lên thành 102 công ty.
3.2.3. Số loại trái phiếu
Từ năm 2000 đến năm 2008, số lượng trái phiếu cũng tăng lên. Trong đó thành
phần trái phiếu chính phủ chiếm tỉ trọng lớn. Chính vì vậy khi tháng 5 năm 2008 theo
Quyết định 352/QĐ- UBCKNN về việc chuyển trái phiếu chính phủ niêm yết tại
HOSE giao dịch trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thì lượng trái phiếu
giao dịch trên sàn HOSE giảm mạnh (Biểu đồ 1). Cho đến thời điểm đầu năm 2011,
trên sàn HOSE chỉ còn 49 trái phiếu doanh nghiệp. Giống như các thị trường khác trên
thế giới, quy mô thị trường trái phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam lớn hơn
rất nhiều so với quy mô của thị trường cổ phiếu. [8]
3.2.4. Số lượng tài khoản nhà đầu tư chứng khoán

Tăng đáng kể nhất vẫn là số lượng tài khoản của nhà đầu tư (Biểu đồ 1). Nếu
như vào năm 2000 cả nước chỉ có khoảng 3000 tài khoản nhà đầu tư thì con số này
năm 2009 vào khoảng 760000 tài khoản. Trong khi năm 2009, Sàn SET của Thái Lan
(thành lập từ năm 1962) mới chỉ có 570548 tài khoản (Bảng 4).
Bảng 4: So sánh số tài khoản đầu tư trong năm 2009 giữa HOSE và SET
HOSE SET
Số Tài khoản đầu tư 760000 570548
Số Tài khoản thực giao dịch 20%-35% 21,5%
11
Năm thành lập 2000 1962
(Nguồn: [20, tr. 24], [6])
Cuối năm 2010, số tài khoản nhà đầu tư chứng khoán tại Việt Nam đã vào
khoảng hơn 1 triệu tài khoản (tăng 333 lần so với năm 2000). Tuy nhiên, điều cần phải
bàn đến là chỉ có khoảng 20-35% số tài khoản này là tài khoản thực giao dịch. Như số
liệu ở Bảng 4, sàn SET của Thái Lan cũng chỉ có 21,5% tổng số tài khoản là tài khoản
thực giao dịch. Một điều đặc biệt là, tại TTCK Việt Nam, mỗi nhà đầu tư chỉ được
phép lập 1 tài khoản duy nhất nên nhiều người đã lách luật bằng cách mượn chứng
minh thư của người thân, bạn bè để lập tài khoản. [2] Vì vậy, số lượng nhà đầu tư trên
thực tế thậm chí còn ít hơn số lượng tài khoản thực giao dịch như đã thống kê.
3.3. Diễn biến chỉ số VN-Index và HNX- Index giai đoạn 2001-2010
VN-Index có những biến động tăng giảm trong hơn 10 năm qua, đặc biệt là Vn-
Index có biên độ dao động mạnh trong những năm 2006, 2007 và 2008 (Biểu đồ 2).
Biểu đồ thể hiện diễn biến của VN- Index có thể chia làm 4 giai đoạn chính. Giai đoạn
1 từ đầu năm 2001 đến cuối năm 2001. Đây là giai đoạn thị trường biến động theo xu
hướng giảm tương đối mạnh từ 600 điểm xuống còn 250 điểm (gần 60%) chỉ trong
vòng 1 năm. Tuy nhiên khối lượng giao dịch trong giai đoạn này không đáng kể.
Biểu đồ 2: Diễn biến chỉ số VN-Index giai đoạn 1/2001 đến 4/2011
12
Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp
Chú thích:

- đường màu đen: đường biểu diễn HNX-Index
-đường màu xanh: lượng giao dịch các ngày tương ứng
Giai đoạn 2 từ đầu năm 2002 đến cuối năm 2005, thị trường có xu hướng tăng
nhẹ. Sau 4 năm thị trường đã đạt mức 300 điểm, tăng 50% so với 4 năm trước đó. Mặc
dù vậy, VN-Index chưa cho thấy sự tiến triển rõ rệt về lượng giao dịch trong thời điểm
này. Đây là giai đoạn mà thị trường vừa mới được thành lập, số lượng cổ phiếu niêm
yết còn chưa nhiều, chưa chất lượng và chưa đang dạng, các chuyên gia, nhân viên môi
giới và cả nhà đầu tư còn chưa đủ về kiến thức và kinh nghiệm.
Tiếp theo là giai đoạn 3 bao gồm 3 năm tiếp theo (2006,2007 và 2008), giai
đoạn này chứng kiến một sự dao động tăng và giảm rất mạnh của VN-Index. Từ đầu
năm 2006 đến hết quý I năm 2007 thị trường gần như tăng với tốc độ chóng mặt từ 300
điểm lên đến và đạt đỉnh tại 1170,6 điểm (gấp gần 4 lần). Năm 2006, là năm mà hầu
hết các TTCK thế giới chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt bao gồm cả
tăng chỉ số chứng khoán. Ngưỡng 1170,6 cũng là mức đỉnh của VN-Index trong hơn
10 năm. Hai quý II và III của năm 2007 VN-Index đi ngang với biên độ khá lớn. Từ
13
quý 4 năm 2007, thị trường tụt giảm mạnh. Chỉ trong hơn một năm, đến cuối năm
2008, thị trường lại trở về thậm chí thấp hơn mức ban đầu năm 2006, vào khoảng dưới
300 điểm. Tuy nhiên, lượng giao dịch trong giai đoạn này đã tăng lên.
Việc so sánh mức biến động giảm của VN-Index so với các chỉ số khác trên thế
giới sẽ làm rõ hơn tình trạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm khủng hoảng
2008 (Bảng 5). Theo đó, mức giảm của VN-Index là lớn nhất giảm 65,9%) so với tất cả
các nước được so sánh thậm chí là giảm gấp khoảng 1,5 lần Mỹ- là nước khởi đầu cho
cuộc đại khủng hoảng.
Bảng 5: Toàn cảnh các thị trường chứng khoán thế giới 2008
Thị trường Chỉ số
Giá đóng
cửa 30/12
Tăng, giảm so với
2007 (%)

Mỹ
Dow Jones 8668,39 -34,6%
NasDaq 1550,7 -41,5%
S&P 500 890,64 -39,3%
Anh FTSE 100 4392,68 -31,5%
Đức DAX 4810,20 -39,5%
Pháp CAC 40 3217,13 -42%
Đài Loan Taiwan weighted 4589,04 -44,8%
Nhật Nikkei 225 8859,56 -42,1%
Hồng Kong Hang Seng 14235,50 -48,8%
Hàn Quốc KOSPI Composite 1124,47 -40,7%
Singapore Straits Times 1770,65 -49%
Trung Quốc Shanghai Composite 1832,91 -65,2%
Ấn Độ BSE 30 9716,16 -52,2%
Australia ASX 3591,40 -44,1%
Việt Nam VN-Index 316,32 -65,9%
(Nguồn: [21, tr.115])
Giai đoạn 4 gồm năm 2009 và năm 2010 là hai năm sau khủng hoảng tài chính.
Năm 2009, thị trường chứng khoán đã phục hồi và tăng trở lại, tuy nhiên tốc độ tăng
của chỉ số VN-Index không mạnh như vào thời kỳ các năm 2006 và 2007. Cuối cùng,
năm 2010 lại chứng kiến giai đoạn thị trường khá ổn định.
14
Chỉ số HNX-Index có xu hướng biến động khá giống với chỉ số VN-Index từ
năm 2005 đến hết năm 2009 (Biểu đồ 3). Năm 2005, HNX-Index có xu hướng đi ngang
và hai năm tiếp theo HNX-Index biến động tăng mạnh, rồi giảm mạnh kể từ tháng 11
năm 2007 đến cuối năm 2008. Giai đoạn này, HNX-Index đạt đỉnh vào khoảng 455
điểm vào tháng 3 năm 2007. Năm 2009, tương tự như Vn-Index, HNX-Index đi lên
nhẹ. Tuy nhiên, khác với diễn biến của VN-Index, HNX-Index có xu hướng giảm nhẹ
trong năm 2010.
Biểu đồ 3: Diễn biến chỉ số HNX-Index (2005-2010)

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp
Chú thích:
- đường màu đen: đường biểu diễn HNX-Index
-đường màu xanh: lượng giao dịch các ngày tương ứng
15
3.4. Giá trị vốn hóa thị trường
3.4.1. Giá trị vốn hóa thị trường của công ty
Giá trị vốn hoá thị trường là thước đo qui mô của một công ty, là tổng giá trị thị
trường của một công ty, được xác định bằng số tiền bỏ ra để mua lại toàn bộ công ty
này trong điều kiện hiện tại. (Nguồn)
Đa số các công ty niêm yết trên thị trường Việt Nam chưa có giá trị vốn hóa
cao. Trong năm 2009, sàn HOSE có 91 công ty trên tổng số 196 công ty niêm yết có
mức vốn hóa dưới 500 tỷ đồng, trong khi chỉ có 16 công ty có mức vốn hóa trên 10000
tỷ đồng. [3, tr. 24-43].
3.4.2. Tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường
Tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường là tổng các mức giá trị vốn hóa của tất cả
các công ty niêm yết trên thị trường đó. Để đánh giá một thị trường chứng khoán, giá
trị vốn hóa thị trường là một yếu tố không thể bỏ qua bởi nó cho biết tình hình hoạt
động của thị trường thông qua hai yếu tố giá cổ phiếu và lượng cổ phiếu đang lưu
hành.
Đặc điểm nối bật của tổng mức vốn hóa thị trường tại thị trường chứng khoán
Việt Nam là đi theo xu hướng tăng qua hầu hết các năm nhưng độ lớn của nó chưa đạt
mức trung bình của thế giới (Biểu đồ 4). Có thể nói, năm chứng kiến sự nhảy vọt về
vốn hóa thị trường là năm 2006. Mức giá trị năm 2006 đạt 147967 tỷ VND gấp 20 lần
giá trị ấy của năm 2005, trong khi đó, giá trị niêm yết năm 2006 chỉ bằng khoảng 7 lần
so với năm 2005. Góp phần vào sự tăng thần kì đó là sự tăng mạnh của chỉ số VN-
Index (tăng 140%) và sự gia tăng số lượng cổ phiếu niêm yết. Năm 2007, do biến động
của chỉ số chứng khoán, giá trị vốn hóa thị trường của tổng cổ phiếu trên sàn HOSE lại
chứng kiến một sự tăng mạnh bằng 247% giá trị của năm trước (từ 147967 tỷ VND
(2006) đến 364425 tỷ VND (2007)). Năm 2008 kết thúc với một sự giảm mạnh về mức

tổng vốn hóa và năm 2009 giá trị này lại tăng lên. Nhìn chung, tổng mức vốn hóa thị
trường trên sàn HNX cũng có xu hướng giống như sàn HOSE.
Tổng giá trị vốn hóa của toàn bộ TTCK Việt Nam ở mức nhỏ so với mức trung
16
bình của thế giới và trong khu vực (Bảng 6). Nhưng nếu so sánh tỷ lệ tổng mức vốn
hóa thị trường trên GDP thì, khoảng cách trên đã được thu hẹp lại. Tổng giá trị vốn hóa
thị trường của toàn bộ TTCK Việt Nam (gồm HOSE và HNX) năm 2009 đạt 28000 tỷ
đồng tương đương 34,58 tỷ USD chỉ bằng 0,22% của Mỹ. Trong khi đó, nếu tính tỷ lệ
tổng giá vốn hóa thị trường trên GDP thì tỷ lệ đó của TTCK Việt Nam vào khoảng
38% (2009) và TTCK Hoa Kỳ vào khoảng 106,8% (2009). So với các sàn của các
nước trong khu vực, tổng giá trị vốn hóa của sàn HOSE vẫn ở mức thấp.
17
Biểu đồ 4: Tổng giá trị vốn hóa thị trường của HOSE giai đoạn 2000-2009
Đơn vị: tỷ VND
Nguồn: [3, tr. 57]
18
Bảng 6: Tổng giá trị vốn hóa thị trường của một số TTCK trên thế giới năm
2009
Tỷ Đô la
Khu vực GDP
Vốn hóa
thị trường
% so với
GDP
Cả thế giới 59920,3 47188,9 78.75%
Anh 2812,4 2796,4 99,43%
Mỹ 14119,1 15077,3 106,8%
Việt Nam 91 34,58 38%
Nguồn:[12, statistical appendix, tr.11]
Bảng 7: So sánh tổng giá trị vốn hóa thị trường của HOSE và một số sàn

chứng khoán trong khu vực Đông Nam Á năm 2009
Sàn Vốn hóa (tỷ USD)
SET 177,16
Burse Malaysia 299
HOSE 25
Nguồn: [3, tr. 57], [20, tr.23], [12, tr.8]
3.5. Quy mô giao dịch
3.5.1. Khối lượng giao dịch
Từ năm 2000 đến năm 2010, khối lượng giao dịch tăng qua các năm (trừ năm
2003), khối lượng giao dịch bắt đầu tăng mạnh từ năm 2006 trở đi, trong đó phương
thức giao dịch khớp lệnh chiếm tỉ trọng chủ yếu từ 83% đến 95%. (Bảng 9) Nếu như
trong giai đoạn 2000 - 2005, khối lượng giao dịch chỉ trung bình vào khoảng 3,6 triệu
đơn vị và dao động trong khoảng 3,6 triệu đơn vị đến 84,5 triệu đơn vị thì giai đoạn
2006-2010 chứng kiến sự tăng mạnh và tăng liên tục của khối lượng giao dịch của cả
phương thức giao dịch khớp lệnh và thỏa thuận. Trong đó, phương thức khớp lệnh vẫn
giữ vai trò chủ đạo. Kết thúc năm 2010, khối lượng giao dịch vào khoảng 11642,5 triệu
đơn vị với khối lượng giao dịch của phương thức khớp lệnh khoảng 10486 triệu đơn vị.
19
Nếu xét về tốc độ tăng khối lượng giao dịch của năm sau so với năm liền trước
thì năm 2001, 2006, 2007 và 2009 chứng kiến sự tăng mạnh nhất về tốc độ tăng khối
lượng giao dịch, tăng gấp 350% đến 637% năm liền trước nó.
3.5.2. Giá trị giao dịch
Giá trị giao dịch tăng nhẹ từ năm 2000 đến năm 2005, tăng rất mạnh vào năm
2006 và biến động tăng và giảm mạnh trong giai đoạn 2007 đến 2010.(Bảng 10) Trong
5 năm đầu tiên, giống như hầu hết các yếu tố khác, giá trị giao dịch cũng tăng nhưng
đạt giá trị nhỏ. Năm 2006 diễn ra sự tăng đột biến của giá trị giao dịch, tăng từ 35,3
nghìn tỷ năm 2005 lên 200,5 nghìn tỷ năm 2006 gấp 13,07 (1307%) lần so với năm
2005, do cả giá năm 2006 và lượng 2006 đều tăng đáng kể.
Mặc dù khối lượng giao dịch tăng mạnh và tăng liên tục trong giai đoạn 2006
cho đến năm 2010 nhưng do giá giảm mạnh vào năm 2008 và giảm vào năm 2010 nên

khiến cho giá trị giao dịch cũng giảm tương ứng bất chấp sự tăng đáng kể của lượng
giao dịch. Đồng thời giá trị giao dịch năm 2007 và 2009 đều tăng là do tác động của cả
việc chỉ số VN-Index tăng. Năm 2009, giá trị giao dịch đạt mức cao nhất ở 422,5 nghìn
tỷ VND (tương đương 19 tỷ USD). Tuy nhiên, giá trị này vẫn là thấp so với các sàn
chứng khoán khác trong khu vực và trên thế giới. (Bảng 8)
Bảng 8: Tổng giá trị giao dịch của HOSE so với một số sàn chứng khoán trong
khu vực Đông Nam Á năm 2009
Tỷ USD
Sàn Giá trị giao dịch
SET 129,02
Burse Malaysia 90,7
HOSE 21,6
Nguồn: [3, tr.60], [20, tr.23], [12, tr.8]
Tỉ trọng của tổng giá trị giao dịch theo phương thức khớp lệnh vẫn cao, chiếm
80%-98% tổng giá trị giao dịch. Qua đó, có thể thấy, giao dịch khớp lệnh vẫn là
phương thức giao dịch được sử dụng nhiều nhất ở thị trường chứng khoán Việt Nam.
20

×