Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.99 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: TÀI CHÍNH - T IỀN TỆ
Đề tài: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh tiến trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
1
MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước hiện nay, vấn đề phát triển thị
trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chũ nghĩa, trong
đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo là mục tiêu hết sức quan trọng, các doanh nghiệp
Nhà nước đã có những đóng góp tích cực và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực tế cho thấy, qua gần 17 năm phát triển kinh tế theo đường lối này, nền kinh tế
thị trường nước ta đã bước đầu thu được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nền
kinh tế của chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị trường ở dạng sơ khai và trước mắt còn
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách, bên cạnh đó, trong những năm qua, chất
lượng và hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước còn thấp và việc đổi mới hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp Nhà nước đã được triển khai thực hiện ở nước ta trên 10 năm.
Thực chất của quá trình này là sự sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, trong đó trọng tâm
là tiến trình cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập, phát triển.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy không
phải là mới mẽ nhưng thật sự cần thiết. Đây là lý do em chọn đề tài: “Thực trạng và giải
pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” để hoàn
thành bài tiểu luận môn học Tài chính – Tiền tệ. Với đề tài này, thông qua việc tìm hiểu nội
dung của chính sách cổ phần hóa và các vấn đề liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá
khách quan hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn và hạn chế của cổ phần hóa, từ đó có
thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Bài tiểu luận này gồm có 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
- Chương 3: Giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam trong thời gian tới.


2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Quan niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Chúng ta có thể hiểu, cổ phần hoá là việc chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp
không phải công ty cổ phần sang hoạt động theo quy chế của công ty cổ phần.
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể đưa ra khái niệm
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà
nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) , chuyển
doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các
quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp.
Từ Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII (6/1992),
tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính phủ), rồi tới các Nghị định số 28/CP (7/5/1996), 25/CP (23/7/1997) và Nghị
định 44/CP(29/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển
các doanh nghiệp nhà nước thành các Công ty cổ phần nhằm thực hiện các mục tiêu:
- Chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu hỗn hợp.
- Huy động vốn của toàn xã hội.
- Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực sự trong doanh nghiệp.
- Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp.
Như vậy có thể thấy so với các nước đã và đang tiến hành cổ phần hóa trên thế giới,
ở nước ta, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lại xuất phát từ đường lối kinh tế
và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay: chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế
và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản của Nhà nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi phối,
quyết định mục đích nội dung và phương thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy
về thực chất cổ phần hóa ở nước ta là nhằm sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước cho hợp lý
và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong
công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên.

3
1.2. Nội dung cổ phần hóa
Với mục tiêu như trên, tiến trình cổ phần hóa đã dành được sự quan tâm đặc biệt của
Đảng, Chính phủ và các ban ngành, chính quyền địa phương. Trong suốt gần 10 năm thực
hiện, nhiều văn bản pháp qui quy định chi tiết nội dung cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
đã được ban hành nhằm đưa công tác cổ phần hóa phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt
Nghị định 44/CP (29/6/1998) của Chính phủ quy định chi tiết nội dung cổ phần hóa bao
gồm: đối tượng cổ phần hoá, hình thức cổ phần hoá, Phân tích quá trình Cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam xác định giá trị doanh nghiệp, đối tượng mua cổ phần và phân
tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp.
1.2.1. Đối tượng cổ phần hóa
- Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
- Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà
nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định
đầu tư và thành lập.
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty
nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
1.2.2. Hình thức cổ phần hóa
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để
tăng vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một
phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn
nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
1.2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp
Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp:
Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần

hóa mà người mua và người bán cổ phần đều chấp nhận được. Người mua và người bán cổ
phần sẽ thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi.
Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế toán
của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa và giá trị thức tế của tài sản tại doanh nghiệp
4
được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của
người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa.
1.2.4. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa
 Phương pháp 1: Xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước theo tài sản:
Xác định giá trị của doanh nghiệp dựa trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài sản
hữu hình, vô hình của doanh nghiệp ại thời điểm định giá.
 Phương pháp 2: Phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong
tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản của doanh nghiệp.
1.2.5. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần
 Nhà đầu tư trong nước:
Nhà đầu tư trong nước là cá nhân người Việt Nam, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam;
Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa với
số lượng không hạn chế, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
 Nhà đầu tư nước ngoài:
Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động
đầu tư tại Việt Nam;
Nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa theo quy
định tại Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan;
Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần phải mở tài khoản tiền gửi tại một tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp
luật Việt Nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần; nhận, sử dụng cổ tức và các khoản thu chi
khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông qua tài khoản này.
 Nhà đầu tư chiến lược:

Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có năng
lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu,
phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp;
Căn cứ vào quy mô vốn điều lệ, tính chất ngành nghề kinh doanh và yêu cầu mở rộng
phát triển doanh nghiệp, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp trình người quyết định cổ
phần hóa việc bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược và tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư
chiến lược;
5
Nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần theo giá không thấp hơn giá đấu thành công
bình quân. Đối với các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước (bao gồm cả các Ngân hàng
Thương mại nhà nước) nếu nhất thiết phải chọn nhà đầu tư chiến lược thì cơ quan quyết
định cổ phần hoá báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định việc tổ chức đấu thầu riêng giữa
các nhà đầu tư chiến lược;
Nhà đầu tư chiến lược không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời
hạn tối thiểu 03 năm, kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải
được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận.
 Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa đồng thời niêm yết ngay trên Sở Giao
dịch chứng khoán/Trung tâm Giao dịch chứng khoán thì cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
Phương án cổ phần hóa quy định khối lượng cổ phần đặt mua tối đa, tối thiểu đối với phần
bán ra công chúng trong phương án phát hành cổ phần lần đầu để doanh nghiệp sau khi cổ
phần hóa có đủ điều kiện niêm yết. Quy định mức đặt mua tối đa, tối thiểu trong phương án
phát hành cổ phần lần đầu không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần
kinh tế.
 Thành viên Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp (trừ các thành viên là đại diện
của doanh nghiệp), các tổ chức tài chính trung gian, các cá nhân thực hiện tư vấn, định giá, đấu
giá bán cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa không được tham gia đấu giá mua cổ phần phát
hành lần đầu của doanh nghiệp đó.
1.3. Ý nghĩa của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển
đổi, hội nhập kinh tế:

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần thúc sự phát triển bền vững kinh tế -
xã hội, nó làm tăng vốn, tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia xẻ rủi ro cho các chủ sở hữu
riêng lẻ, tạo động lực làm chủ cho người lao động, tạo sức mạnh kinh tế để giải quyết các
vấn đề xã hội và môi trường
Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường sự
giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời
gian qua.
2.1.1. Giai đoạn thí điểm (1992 – 1996)
Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã
ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành tiếp Chỉ
thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm, đồng
thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc TW chọn
từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg
(1992-1996) cả nước chỉ cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 doanh nghiệp
Trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Đó là các doanh nghiệp:
- Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện cổ
phần hóa: 1/7/1993.
- Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện cổ phần
hóa: 1/10/1993.

- Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện cổ phần hóa:
1/10/1994.
- Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực
hiện cổ phần hóa: 1/7/1995.
- Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông
thôn - ngày thực hiện cổ phần hóa: 1/7/1995.
2.1.2. Giai đoạn mở rộng: (5/1996 - 6/1998)
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày 7/5/1996
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện cổ
phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối
7
với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ
phần… Nhờ đó tốc độ cổ phần hóa đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25 doanh
nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy tính gộp từ năm 1992 đến
tháng 5/1998 cả nước đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá với số vốn
điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng (bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty) và gần 6000 lao động.
Không chỉ tăng lên về số lượng, diện cổ phần hóa cũng đã mở rộng hơn, đã có 3 Bộ và
9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong số các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa, có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty.
Những doanh nghiệp trước khi cổ phần Phân tích quá trình Cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam hoá gặp khó khăn, như xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng
tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày Hiệp An…, mặc dù không được Nhà nước hỗ
trợ vốn, nhưng đã cố gắng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên
tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác cổ phần hóa, trong thời gian này, các cấp các ngành đã
triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo cổ phần hóa ở địa
phương và thành lập các ban chỉ đạo cổ phần hóa Chính phủ, Trung ương Đảng, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam.

2.1.3. Giai đoạn thực hiện theo nghị định 44/CP đến nay
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà nổi
bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban đổi mới
quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp cổ phần hóa đã tăng nhanh so với
các thời kỳ trước.
Sau hơn 2 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định
số 44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nước đã cổ phần hoá 430 doanh
nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá lên 460 doanh
nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã cổ phần hóa, những doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thương mại chiếm
39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản chiếm
2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều tương đối nhỏ, những công ty có
tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh nghiệp có vốn
8
nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các doanh nghiệp đã
CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa theo
hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh
nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phương thực hiện cổ phần hóa,
Hà Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh nghiệp
trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ phần hoá, tiếp
theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Đến tháng 6/2005 cả nước chỉ còn 2.983 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước,
trong đó có 2.253 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, 440 doanh nghiệp quốc phòng,
an ninh và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, 290 nông lâm trường quốc doanh với
tổng số vốn khoản 220.000 tỷ đồng.
Tính đến hết năm 2008 cả nước đã sắp xếp lại được 5.414 doanh nghiệp trong
tổng số khoảng 6.200 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cổ phần hóa 3.836 doanh
nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, chiếm 70,8% tổng số doanh nghiệp đã sắp xếp.

Tính đến hết năm 2009 đã có tới gần 4.500 doanh nghiệp, đơn vị đã hoàn tất cổ
phần hóa nhưng phần lớn trong đó là các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ, có quy mô vốn,
giá trị tài sản chưa đầy 30% trong tổng giá trị vốn, tài sản của khối doanh nghiệp nhà
nước.
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện số lượng doanh nghiệp đã được CPH hóa
9
2.2. Đánh giá thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
2.2.1.Thành tựu
 Đối với doanh nghiệp:
Nhìn chung, doanh nghiệp là đối tượng được lợi nhiều nhất từ chính sách cổ
phần hoá. Hầu hết các doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động
có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách,
tích luỹ vốn… Nhiều doanh nghiệp đã thoát ra khỏi tình trạng nợ nần, phá sản, khắc
phục được những hạn chế do cơ chế quản lý cũ như nạn tham nhũng, lãng phí trong
sản xuất, sự thiếu trách nhiệm trong lao động, quản lý trì trệ, yếu kém…
Kết quả hoạt động của 15 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa trước năm 1998 là
rất khả quan. Những lợi ích mà cổ phần hóa mang lại cho doanh nghiệp được thể hiện
rất rõ qua những con số sau:
Báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã cổ phần hóa có thời gian
hoạt động trên 1 năm cũng cho thấy những số liệu rất khả quan, cụ thể như sau:
Doanh thu tăng bình quân gần 2 lần: Điển hình công ty cổ phần Cơ điện lạnh
năm 1999 đạt 178 tỷ đồng, gấp gần 4 lần so với trước khi cổ phần hóa.
Lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng.
Vốn tăng gần 2,5 lần (bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu
tư từ bên ngoài): Nổi bật là công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An vốn
tăng 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong vốn tăng 2,4 lần…
Ngoài những lợi ích kinh tế kể trên, khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
còn có thêm những lợi ích khác góp phần tích cực vào việc năng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh:
- Thứ nhất: Năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên nhờ

được bổ sung nguồn vốn lưu động và đầu tư đổi mới công nghệ. Về nguyên tắc, tất cả
số tiền bán cổ phiếu, sau khi trừ đi các chi phí sẽ được điều chuyển để bổ sung vốn,
mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Thứ hai: Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh. Sự
chuyển đổi này đã hạn chế thấp nhất những can thiệp thô bạo, phi kinh tế của các cơ
quan công quyền, hạn chế các chỉ đạo vốn có của một doanh nghiệp nhà nước.
- Thứ ba: Doanh nghiệp đã có được một cách quản lý mới mang tính dân chủ.
Với việc cổ phần hóa, doanh nghiệp đã chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty
10
cổ phần, cũng có nghĩa là xác định vai trò chủ nhân tập thể. Hội đồng quản trị sẽ thực
sự làm chủ công ty với động lực lợi nhuận, vì lời ích của cổ đông (trong đó có chính
mình), thay mặt các cổ đông và được các cổ đông bầu lên chư không phải ai khác.
Bên cạnh đó, với những biến đổi tích cực, Nghị định 187/2004/NĐ-CP vào
ngày 16/11/2004 của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định 187) về chuyển công ty Nhà
nước thành công ty cổ phần có hiệu lực thi hành kể từ 10/12/2005 đã có tác động thúc
đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua cụ thể như sau:
- Số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa tăng mạnh: Tính đến ngày 30/06/2006 cả
nước đã cổ phần hóa được 3.365 doanh nghiệp. Thông qua cổ phần hóa đã huy động
được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhà rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị
đã được phê duyệt cổ phần hóa trong năm 2005 thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10
tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ
đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2.307 đơn vị cổ phần hóa chỉ
khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng
năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hóa đã đạt 20 ngàn tỷ đồng.
- Việc điều chỉnh mệnh giá cổ phần ; quy định số lượng cổ phần tối thiểu phải
đấu giá bán công khai ; xóa bỏ cơ chế bán cổ phần theo mệnh giá sang phương thức
bán đấu giá cổ phần lần đầu tại các tổ chức tài chính trung gian (đặc biệt tại 2 Trung
tâm giao dịch chứng khoán) đã góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khắc phục cơ bản tình trạng cổ phần

hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn cổ phần hóa với sự phát triển của thị
trường chứng khoán, giảm áp lực cho công tác định giá, giảm tổn thất cho nhà nước.
Thông qua đấu giá, hầu hết các doanh nghiệp đều bán được cổ phần cao hơn mệnh giá.
Với việc bán cổ phần ra bên ngoài, doanh nghiệp cổ phần hóa đã chủ động lựa chọn
của nhà đầu tư chiến lược cho mình và tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham
gia góp vốn quản lý doanh nghiệp.
- Việc đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao
gắn với việc thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch tại trung tâm chứng khoán TP Hồ
Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tạo đà cho thị trường chứng
khoán phát triển. Tính đến nay tổng doanh nghiệp đã niêm yết, đăng ký giao dịch tại
trung tâm chứng khoán là 57, trong đó có tới 49 doanh nghiệp được hình thành từ quá
11
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn điều lệ đăng ký giao dịch,
niêm yết trên 9.100 tỷ đồng.
- Thời gian thực hiện cổ phần hóa nhanh hơn trước. Nếu như trước đây, thời
gian thực hiện cổ phần hóa bình quân ở một đơn vị vào khoảng 437 ngày thì sau khi có
nghị định 187 đã giảm xuống còn 260 ngày (giảm 40%). Thời gian cổ phần hóa được
rút ngắn là do các doanh nghiệp trong diện cổ phần hóa buộc phải chủ động xử lý
những tồn tại về tài chính trước khi thực hiện cổ phần hóa. Mặt khác, việc xác định giá
trị doanh nghiệp, bán cổ phần thông qua các định chế tài chính trung gian đã góp phần
nâng cao tính chuyên nghiệp, đảm bảo tính khách quan trong quá trình định giá và bán
cổ phần, qua đó cũng phần nào rút ngắn được thời gian tực hiện công việc này ; thêm
vào đó các quyết định liên quan đến quá trình cổ phần hóa đã được xem xét, trình
duyệt với thời gian nhanh hơn.
Nhìn chung, với sự đổi mới mang tính toàn diện. Nghị định 187 đã góp phần
khắc phục một số tồn tại của cơ chế cũ, tạo điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa tình hình
sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; đồng thời góp phần hoàn thiện và phát
triển các yếu tố thị trường đặ biệt là thị trường vốn, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp sau khi cổ phần hóa ổn định và phát triển trong xu thế hội nhập với kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới.

 Đối với nhà nước:
Lợi ích đầu tiên mà Nhà nước thu được từ chính sách cổ phần hóa là phần thuế
thu được từ các công ty cổ phần tăng hơn so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước, tất
cả các công ty cổ phần đều đóng thuế đầy đủ, năm sau cao hơn năm trước từ 30-
35%, nộp ngân sách tăng bình quân 2 lần so với trước khi cổ phần hóa: cụ thể như
Công ty Cổ phần cơ điện lạnh tăng gần 3 lần, Công ty Cổ phần sơn Bạch Tuyết tăng
2,7 lần…
Theo số liệu của 17 công ty cổ phần, Nhà nước đã thu được 377.244 triệu đồng
từ các nguồn sau:
- Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng
- Phần lợi tức của Nhà nước tại các công ty cổ phần: 6.905 triệu đồng
- Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV: 522 triệu đồng
- Về huy động vốn: Tại thời điểm cổ phần hóa trước 31/12/1999, 370 doanh
nghiệp cổ phần hóa có giá trị phần vốn Nhà nước là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện cổ
12
phần hóa đã thu hút thêm 1.432 tỷ đồng, đồng thời Nhà nước cũng đã thu lại được 714
tỷ đồng để đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước và giải quyết một số chính sách cho
người lao động trong doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa.
Tất cả các công ty cổ phần đều đóng thuế đầy đủ, năm sau cao hơn năm trước
từ 30 – 35%, nộp ngân sách tăng bình quân 2 lần so với trước khi cổ phần hóa.
Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa khi xác định lại, nhìn
chung đều tăng từ 10-50% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi cổ phần hóa
vốn Nhà nước không bị mất đi, được bảo toàn mà còn tăng thêm. Điển hình là Đạm
Phú Mỹ, thời điểm cổ phần hóa, giá trị doanh nghiệp được xác định ở mức 3.800 tỷ
đồng, tăng 800 tỷ so với vốn đầu tư. Khi tiến hành đấu giá vào cuối tháng 4/2007, Nhà
nước thu về gần 7.000 tỷ đồng, gấp 2,3 lần số vốn đầu tư ban đầu và vẫn giữ CP chi
phối ở công ty.
Ngoài những lợi ích trên, từ kết quả cổ phần hoá, hàng năm Nhà nước không
còn tốn một khoản ngân sách lớn để bù đắp cho các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ,
cán cân thu chi của Nhà nước được cân bằng hơn. Hệ thống các cơ quan quản lý Nhà

nước được hoàn chỉnh và gắn với mục tiêu của nền kinh tế. Chính cơ chế tạo chuyên
môn hoá dẫn đến sự thay đổi về trình độ quản lý đạt mức cao. Nhà nước có điều kiện
quản lý nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô.
Cổ phần hoá đã đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời bằng việc ra mắt Uỷ ban
chứng khoán quốc gia và Trung tâm giao dịch chứng khoán vừa qua, làm cơ sở để
Nhà nước kiểm soát lạm phát. Lượng tiền lưu thông trong xã hội trong tương lai gần sẽ
chuyển một phần vào thị trương vốn, thực hiện tái đầu tư trên diện rộng hoặc tập trung
vốn giải quyết các công trình trọng điểm của Nhà nước.
Sau khi cổ phần hoá có đến 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần
tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, hiệu quả huy động vốn
của xã hội tăng lên, hàng năm nhà nước không cần tốn một khoản ngân sách cho các
doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, góp phần cân bằng cán cân thu chi của Nhà nước.
 Đối với người lao động:
Có thể nói, nhờ cổ phần hóa mà người lao động đã trở thành người chủ thực sự
của doanh nghiệp xét theo cổ phần mà họ sở hữu. Qua cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước, tất cả ngưòi lao động trong doanh nghiệp bằng các nguồn vốn tự có, quỹ
13
phúc lợi của doanh nghiệp được phân bổ và cả vốn riêng của cá nhân, đều có thể tham
gia mua cổ phần tại công ty, xí nghiệp được cổ phần hoá.
Với việc góp vốn này, người lao động, từ công nhân trực tiếp sản xuất đến vị
giám đốc, đều có thể trở thành người chủ thực sự đối với doanh nghiệp, được tham gia
trực tiếp hay gián tiếp vào việc lập phương hướng kế hoạch, Phân tích quá trình Cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
với quyết tâm và ý chí chung là gặt hái được hiệu quả cao nhất, tốt nhất.
Quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa được đảm bảo:
Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cổ phần được mua cổ phần ưu đĩa giảm giá
40% so với giá đấu bình quân thàn công. Trong số 967 đơn vị cổ phần hóa, theo
phương án được duyệt thì người lao động được mua ưu đãi giảm giá tới 260 triệu cổ
phần. Lao động dôi dư ở các đơn vị cổ phần được hưởng chính sách trợ cấp theo quy
định tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP về chính sách lao động dôi dư, được hỗ trợ đào

tạo nghề mới cho phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh. Riêng năm 2005 có trên
85.500 lao động dôi dư do sắp xếp lại được hưởng chính sách này, bình quân mỗi lao
động dôi dư được hỗ trợ 32 triệu đồng/người. Nhờ có chính sách hợp lý, quyền lợi
người lao động được đảm bảo, góp phần quyết định trong việc đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hóa, ổn định xã hội.
Trong thực tế, các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa bảo đảm việc làm
và thu nhập của người lao động ổn định và có chiều hướng tăng lên. Do mở rộng sản
xuất, số lao động ở các DN này tăng bình quân 12%. Thu nhập của người lao động làm
việc tai các công ty cổ phần tăng bình quân hằng năm gần 20% (chưa kể thu nhập từ
cổ tức). Điển hình trong năm 1999, người lao động tại công ty cổ phần đại lý liên hiệp
vận chuyển có thu nhập 4 triệu đồng/người/tháng bằng gần 3 lần so với trước khi cổ
phần hóa; công ty cổ phần Ong mật TP.HCM đạt 1,3 triệu đồng/người/tháng bằng 2,6
lần so với trước khi cổ phần hóa …
Việc đầu tư vào các công ty cổ phần, nói chung người lao động đã thu được lợi
tức cao hơn gửi tiết kiệm và vốn của họ trong công ty tăng gấp 1,5-2 lần so với lúc
mới mua cổ phiếu. Do lãi cao đã bổ sung thêm vào vốn, đến nay giá trị cổ phần người
lao động sở hữu bình quân tăng gấp 2-3 lần, đặc biệt có những công ty tăng tới 4-5 lần
như Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh và Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển.
14
Là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần, ngưòi lao động đã nâng cao tính
chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần
làm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết
thực cho bản thân mình, công ty, Nhà nước và xã hội.
2.2.2. Hạn chế:
 Tốc độ cổ phần hóa còn chậm:
Thể hiện qua bảng số liệu sau:
Số lượng các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa theo kế hoạch.
Gai đoạn 1992-2006 2007 2008 2009-2010
Số DNNN cần CPH 5.024 271 119 1.090
Số DNNN đã được CPH 3.646 116 74 760

Nguồn: Tạp chí tài chính
Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện tốc độ cổ phần hóa
 Việc cổ phần hóa chưa được thực hiện đều, khắp trong các lĩnh vực:
Các công ty cổ phần hóa mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp trong ngành
công nghiệp, thương mại và xây dựng, còn số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong
các lĩnh vực khác vẫn còn rất ít.
Cụ thể: 51% doanh nghiệp đã được cổ phần hóa thuộc lĩnh vực công nghiệp và
xây dựng, 32% trong lĩnh vực dịch vụ thương mại, số còn lại thuộc các lĩnh vực khác.
15
Biểu đồ 3: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các DN CPH thuộc các lĩnh vực
 Vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình xác định giá trị doanh
nghiệp:
Việc xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập, ảnh
hưởng đến tính chuẩn xác của hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Ngày 21/08/2008
báo cáo giám sát của Ủy Ban thường vụ Quốc hội cho thấy việc xác định gái trị tài sản
trong quá trình cổ phần hóa ở một số địa phương chưa sát với thực tế, đặc biệt là trước
khi có nghị định 187/2004. Lợi thế về đất đai, vị trí địa lý,… của doanh nghiệp nhà
nước chưa được xác định vào giá trị của doanh nghiệp. Cụ thể, Công ty Cổ phần du
lịch Ngọc Lan (Lâm Đồng) kinh doanh khách sạn ở vị trí đắc địa với diện tích đất
1.292.m
2
, khi định giá cổ phần hóa chỉ có 3,5 tỷ đồng. Sau khi cổ phần hóa không lâu
thị trường định giá cao gấp 10 lần.
Tuy nhiên, theo Chủ nhiệm Ủy ban – Tài chính – Ngân sách Phùng Quốc Hiển,
có trường hợp định giá cao cộng với những lợi thế khác được tính vào giá trị doanh
nghiệp dẫn đến giá trị doanh nghiệp được xác định vượt xa giá thị trường. Điển hình là
trường hợp của công ty TNHH 1 thành viên Xe Miền Đông, nếu xác định giá trị doanh
nghiệp theo nghị định 187 là 60 tỷ, lợi thế giá trị kinh doanh là 9 tỷ nhưng khi xác định
giá trị doanh nghiệp theo nghị định 109 là 1.121 tỷ và lợi thế kinh doanh là 1.052 tỷ
đồng, gấp 31,4 lần mức xác định ban đầu.

 Các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa chủ yếu là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, việc đa dạng hóa sở hữu trong cổ phần hóa còn hạn chế:
Mặc dù các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa đã chiếm tỷ trọng
lớn về mặt số lượng (khoảng 53%), nhưng chỉ chiếm khoảng 8,2% tổng số vốn nhà
nước đầu tư tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa có số vốn
16
nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%; chỉ có 18,5% số doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hóa có quy mô vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng.
Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là nhằm đa dạng hóa sở
hữu về vốn. Tuy nhiên, trong số trên 3.000 doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có 30%
doanh nghiệp là nhà nước không nắm giữu cổ phần; 20% doanh nghiệp nhà nước nắm
giữ cổ phần từ 51% trở lên. Tính bình quân tỷ lệ vốn nhà nước trong vốn điều lệ của
các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa chiếm tới 46,5%, người lao động
nắm giữ 38,1% và cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm 15,4% vốn điều lệ. Như vậy, nhà
nước vẫn là cổ động lớn nhất của phần lớn các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa. Tỷ
lệ vốn nhà nước trong vốn điều lệ của các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ
phần hóa vẫn còn cao và có xu hướng ngày một tăng lên.
 Cổ phần hóa chưa mang lại sự thay đổi vị trí của người lao động trong
doanh nghiệp:
Mục tiêu của cổ phần hóa là nhằm thay đổi cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp
nhà nước, tăng tính tự chủ tài chính, cải thiện hoạt động quản trị kinh doanh nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động và đầu tư của doanh nghiệp. Sau khi cổ phần hóa người
lao động chuyển thành người lao động có cổ phần (cổ đông nội bộ) trong doanh
nghiệp mà họ làm việc, điều này được kỳ vọng sẽ mang lại sự gắn bó và tham gia của
người lao động nhiều hơn vào hoạt động và kết quả hoạt động của công ty. Thực tế,
người lao động chỉ được mua không quá 100 cổ phần với mệnh giá 10.000 đồng cho
mỗi năm công tác. Nếu một người công tác 20 năm, thì được mua 20 triệu đồng mệnh
giá. Nếu doanh nghiệp chia cổ tức 15% mệnh giá cổ phiếu thì người lao động đó kiếm
được 3 triệu đồng, rất thấp so với lương một năm của họ. Tập thể lao động trong
doanh nghiệp không thực sự có quyền làm chủ vì tỷ lệ sở hữu của họ chỉ chiếm từ

11% - 13% vốn điều lệ công ty. Giám đốc công ty Xuất nhập khẩu gạo An Giang
(Angimex), một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và chia cổ tức với tỷ lệ cao so với
các doanh nghiệp cùng ngành, cho rằng người lao động có vẽ bất an về công việc, dè
dặt hơn trong giao tiếp với cấp trên; một phần trong số họ chuyển công tác và bán lại
cổ phần, Những người còn ở lại đa phần vì không có có hội tìm được việc làm mới.
2.2.3. Nguyên nhân hạn chế:
Còn nhiều vướng mắc về vấn đề tư tưởng, nhận thức của lãnh đạo, đảng viên và
người lao động trong các doanh nghiệp. Những vướng mắc này xuất phát từ nhận thức
17
về việc cổ phần hóa còn hạn chế và trên hết là tâm lý lo ngại lợi ích của mình sẽ không
được bảo đảm. Nhiều lãnh đạo trong các doanh nghiệp không muốn doanh nghiệp
chuyển sang hình thức cổ phần bởi vị trí quản lý của họ có thể sẽ bị thay đổi, và ngay
cả khi còn nắm giữ vị trí quản lý, cũng khó có thể điều hành công ty theo lối cũ mà
phải chịu sự giám sát mới chặt chẽ hơn của Hội đồng quản trị và của các cổ đông. So
với khi chưa cổ phần hóa, người lãnh đạo ở doanh nghiệp cổ phần hóa còn phải đương
đầu và gánh chịu trách nhệm nhiều hơn, trong khi sự hiểu biết về cách thức điều hành
một công ty cổ phần còn hạn chế. Người lao động trog các doanh nghiệp cũng có
nhiều điều phải lo lắng như sau khi cổ phần hóa họ sẽ làm gì nếu như trở thành lao
động dôi dư. Bản thân doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để giải quyết chính sách hay
tìm việc làm mới cho người lao động.
Quy trình cổ phần hóa còn rườm rà, phức tạp, cổ phần còn cứng nhắc; khó xác
định đúng được giá trị doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa có chế
tài cụ thể tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Thêm nữa, nếu như
trường hợp giá trị quyền sủ dụng đất được tính vào giá trị của doanh nghiệp thì lại kéo
theo những tranh chấp mà doanh nghiệp phải đương đầu trong quá trình sử dụng. Các
doanh nghiệp còn khó xác định được vị thế kinh doanh (như thương hiệu) như là một
phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp không muốn chuyển sang cổ phần hóa bởi chưa có được
môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong thực tế, khi các
doanh nghiệp đã được cổ phần hóa thì thường được coi là doanh nghiệp ngoài quốc

doanh, không được đối xử ngang hàng như những doanh nghiệp nhà nước khác. Điều
này thể hiện rất rõ qua khả năng tiếp cận các nguồn vốn của những tổ chức tín dụng
nhà nước. Nếu như khi còn là doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp này không
chỉ nhận được nguồn vốn từ nhiều kênh khác nhau như đầu tư cơ bản, bổ sung vốn lưu
động, được xóa nợ, hay bão lãnh nợ, thì nay không những không còn các nguồn vốn
trên, mà còn bị rơi vào tình trạng khó được vay vốn bởi tâm lý lo ngại họ là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, không có người bảo đảm khi không có khả năng trả nợ….
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và
lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị
doanh nghiệp trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định
187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một hội đồng hoặc một doanh nghiệp đảm
18
nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó
phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có nghị định
187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình trạng liên
kết, gian lận trong đấu thầu.
Việc xử lý các khoản nợ còn tồn động gây nhiều khó khăn. Tính đến ngày
31/12/2005, dư nợ cho vay đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỷ đồng.
Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã gây mất nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặc chẽ,
đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.
Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm
định giá trị có độ tin cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn
và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ
chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần.
19
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1. Giải pháp vĩ mô
- Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vì đây
là vấn đề rất nhạy cảm. Hiện tại các quy định pháp luật về cổ phần hóa của chúng ta

còn nhiều bất cập. Một số văn bản pháp quy ban hành chậm. Không ít cơ chế chính
sách không phù hợp với cơ chế thị trường, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Các văn bản về cổ phần hóa phần nhiều mới là những thông tư, chỉ thị, quyết định
chưa tạo được nền tảng pháp lý vững chắc cho cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, khi cổ phần hóa có rất nhiều vấn
đề từ thủ tục tiến hành cổ phần hóa đến các vấn đề kinh tế khác sẽ phát sinh đòi hỏi
phải được xử lý trên cơ sở pháp lý công khai, minh bạch, vì thế họ đã ban hành đạo
luật liên quan. Rõ ràng, chúng ta cần khẩn trương rút kinh nghiệm trong quá trình tiến
hành cổ phần hóa vừa qua để nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cần thiết, đồng bộ
cho vấn đề này.
- Tạo môi trường thuận lợi cho các công ty cổ phần hoạt động và phát triển.
Cần thống nhất các chính sách ưu đãi để khuyến khích các công ty cổ phần nâng cao
hiệu qủa sản xuất, kinh doanh. Tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, nhất là trong việc giải quyết vấn đề quyền sử dụng đất, mặt
bằng sản xuất, kinh doanh, trong đáp ứng nhu cầu về vốn.
- Các công ty cổ phần cần được tạo điều kiện thuận lợi trong việc huy động
vốn rộng rãi từ nhiều nguồn, giảm bớt sự can thiệp, mà trong nhiều trường hợp là quá
sâu, của các cơ quan nhà nước vào quản lý điều hành công ty sau cổ phần. Ngoài ra,
- Cần xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người đại diện vốn nhà
nước; ban hành tiêu chuẩn cụ thể về người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người
trực tiếp quản lý cổ phần nhà nước tại các công ty cổ phần, Quy chế thực hiện dân chủ
trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa … Bởi, tất cả những điều này đều ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên trong công ty và từ đó đến hiệu quả hoạt
động, sự phát triển của công ty. Những vấn đề khác như hỗ trợ công ty cổ phần về
thông tin kinh tế, đào tạo cán bộ, giúp đỡ trong công tác quản lý chất lượng sản
20
phẩm… đều là những việc làm cần thiết để đẩy nhanh tốc độ và hiệu quả quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
3.2. Giải pháp vi mô
- Cần tiếp tục nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong lãnh đạo, cán bộ,

đảng viên và người lao động ở các ngành, các cấp, các doanh nghiệp để mọi người
hiểu rõ sự cần thiết, cấp bách của việc cổ phần hóa doanh nghiệp là bởi sự sống còn
của chính các doanh nghiệp, nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới kinh tế của đất
nước và sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển. Đồng thời,
cũng cần xác định rõ dù đây là một quá trình khó khăn, nhưng không thể khác được
mà thậm chí yêu cầu đặt ra sẽ còn cao hơn, cổ phần hóa rộng khắp hơn trong nhiều
lĩnh vực kể cả các tổng công ty lớn của Nhà nước để từ đó có quyết tâm cao hơn trong
việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
- Lập quỹ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
* Hỗ trợ và đầu tư vốn cho doanh nghiệp.
* Đầu tư vốn cho những doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa.
* Hỗ trợ thanh toán nợ cho những đơn vị thực hiện giao, bán, cho thuê.
- Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ
phần hóa: người lao động được mua cổ phần của doanh nghiệp với mức giá ưu đãi,
hoặc trả chậm, được vay vốn mua cổ phần với lãi suất ưu đãi.
21
KẾT LUẬN

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 vừa qua đã khẳng định: "Kinh tế Nhà nước phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế: nắm những vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho
sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là một công cụ để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế".
Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp
Nhà nước chắc chắn phải là một nhiệm vụ trọng yếu và phải được thực hiện một cách liên
tục, có hiệu quả. Trong đó cổ phần hoá lại là một trong những nội dung quan trọng của sắp
xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Từ những vấn đề được nêu ra trong bài tiểu luận, có thể khẳng định cổ phần hoá là
một chủ trương đúng đắn trong giai đoạn hiện nay, hiệu quả mà cổ phần hoá đem lại là
không thể phủ nhận và hoàn toàn có thể tăng trong tương lai. Bên cạnh đó có thể thấy
những hạn chế trong tiến trình cổ phần hoá phần lớn xuất phát từ những nguyên nhân chủ

quan nên hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian tới.
Với những lý do đó, việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có
những ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới mà Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra. Để làm tốt nhiệm vụ này, chắc chắn phải huy động nhiều hơn sức lực
và thời gian của các tổ chức, cá nhân từ TW tới địa phương. Với sự nỗ lực của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
sẽ được thực hiện thành công, góp phần vào những thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế
đất nước.
22

×