Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Thất thoát và lãng phí trong đầu tư. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.27 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ
-----*****-----
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài:
Thất thoát và lãng phí trong đầu tư. Thực trạng và giải pháp.
Nhóm sinh viên : nhóm 8
Lớp tín chỉ : KTĐT – 2
Khóa : 48
Hệ : Chính quy
Hà nội, tháng 9 năm 2008
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Danh sách thành viên nhóm 8
Họ và tên Lớp chuyên nghành
1. Lò Thị Mai Phương Kinh tế đầu tư 48A
2. Vũ Tố Quyên Kinh tế đầu tư 48A
3. Nguyễn Thị Hồng Nhung Kinh tế đầu tư 48A
4. Lê Thi Minh Thúy Kinh tế đầu tư 48A
5. Vũ Đức Linh Kinh tế đầu tư 48A
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
2
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Danh mục các từ viết tắt
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
FDI
Foreign Direct Investment
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
WTO
World Trade Organisation
Tổ chức thương mại thế giới
DN Doanh nghiệp


DNNN Doanh nghiệp nhà nước
XDCB Xây dựng cơ bản
KCN Khu công nghiệp
NSNN Ngân sách Nhà nước
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
TTNN Thanh tra Nhà nước
3
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 20 năm quá trình thực hiện đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển
biến rõ rệt. Từ một nước xã hội chủ nghĩa nghèo nàn và lạc hậu vừa bước ra khỏi chế độ bao
cấp, Việt Nam đã từng bước tiến lên xây dựng một nền kinh tế đa ngành, đa dạng hóa và hiện
nay phát triển khá “nóng” trong lĩnh vực đầu tư, đây là một vấn đề đang được nhiều doanh
nghiệp, cá nhân và nhà nước Việt Nam rất quan tâm, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta
đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Các doanh nghiệp, cá nhân đã chọn lựa đầu tư để sử dụng hiệu quả tài sản của mình, từ đó góp
phần tăng tài sản của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối các sản phẩm, đóng
góp vào ngân sách nhà nước, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động…
Song, trên thực tế, đã có không ít các cá nhân, các doanh nghiệp Việt Nam còn hiểu
chưa đúng về đầu tư, còn lúng túng trong việc xây dựng, triển khai và quản lý các dự án đầu
tư, chưa sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, ngoài ra vẫn còn có nhiều
thiếu sót trong các khâu của quá trình thực hiện các dự án đầu tư và nhất là đầu tư trong các
lĩnh vực kinh tế…điều đó đã dẫn đến tình trạng thất thoát và lãng phí trong các dự án đầu tư
một cách đáng tiếc. Vì thế, để cho lĩnh vực “đầu tư” của Việt Nam phát triển ngày càng mạnh
mẽ và bền vững thì công việc xây dựng, phát triển các dự án đầu tư cần phải có hướng đi rõ
ràng và cần một sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của doanh nghiệp, cá nhân, nhà nước ta.
Đề tài đi vào phân tích thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư, đồng thời đưa ra
một số giải pháp kiến nghị nhằm hạn chế lãng phí và thất thoát trong đầu tư tại Việt Nam

trong thời kỳ hiện nay, giai đoạn 2000 - 2007. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn TS. Từ Quang
Phương, TS. Phạm Văn Hùng đã hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này.
Hà Nội, 23/10/2008


Nhóm sinh viên: Nhóm 8
4
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Chương I:
Những vấn đề lý luận chung về thất thoát và lãng phí trong hoạt
động đầu tư
I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư.
1. Khái niệm đầu tư.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào
đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt
được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so
với những hi sinh về nguồn lực mà nguời đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn
lực hy sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả
đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản chính( tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường
xá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học,
kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong
nền sản xuất xã hội.
Đầu tư đó là quá trình bỏ vốn để tạo nên cũng như để vận hành một loại tài sản kinh
doanh nào đó như nhà xưởng, máy móc và vật tư (thường được gọi là đầu tư cho các đối
tượng vật chất) cũng như để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi ( thường gọi là đầu
tư tài chính), mà ở đây những tài sản đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc thỏa mãn một nhu
cầu nào đó cho người bỏ vốn cũng như toàn xã hội trong một thời gian nhất định trong tương
lai ( thường gọi là dự án đầu tư ).
Đầu tư đó là sử dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi
dần trong thời gian tương lai. Ở đây cần hiểu đúng ý nghĩa của danh từ dự trữ. Ví dụ, một nhà

máy công nghiệp được xây dựng lên không phải là để sử dụng hết ngay một lúc, mà phải khai
thác và vận hành nó trong nhiều năm, phần chưa sử dụng hết của nó có thể coi như một dự trữ
hay một tiềm năng.
Đầu tư là một chuỗi hành động chi cho một chủ trương kinh doanh nào đó, và ngược
lại chủ đầu tư sẽ nhận lại được một chuỗi các khoản thu để đảm bảo hoàn vốn và có lãi một
cách thỏa đáng. Ở đây đầu tư được quan niệm như một dòng nghiệp vụ thu chi sinh ra từ một
chủ trương kinh doanh nào đó.
Đầu tư là sử dụng các khoản tiền đã tích lũy được của xã hội, của các cơ sở sản xuất
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
5
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
kinh doanh và dịch vụ, tiền tiết kiệm của dân vào việc tái sản xuất của xã hội nhằm tạo ra các
tiềm lực lớn hơn về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Đầu tư đó là một quá trình quản lý tài sản một cách hợp lý, nhất là về mặt cơ cấu của
tài sản để sinh lợi. Ở đây cần lưu ý rằng tài sản đó là một tổng thể các nhân tố và nguồn lực
của sản xuất- kinh doanh thuộc quyền sử dụng của một doanh nghiệp nào đó tồn tại dưới hình
thức vật chất( như nhà xưởng, máy móc, dự trữ vật tư), hoặc dưới hình thức tiền tệ và tài chính
( như các phương tiện tiền mặt, các khoản cho vay, các giấy có giá..v..v..), hoặc dưới hình thức
phi vật chất ( như uy tín đối với thị trường), hoặc dưới hình thức lực lượng lao động. Đây là
một khái niệm về đầu tư có nội dung tổng quát và rộng rãi nhất.
2. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn : chuẩn bị đầu
tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Cụ thể:
2.1. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Trong 3 giai đoạn thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư là giai đoạn tạo tiền đề và quyết định
sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt là giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Giai đoạn này bao gồm:
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
- Tiến hành xúc tiến thăm dò thì trường trong nước hoặc nước ngoài để tìm nguồn
cung ứng vật tư, thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Xem xét khả năng có thể huy động vốn để

đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
- Lập dự án đầu tư.
- Thẩm định dự án để quyết định đầu tư.
2.2. Giai đoạn thực hiện đầu tư.
Giai đoạn này bao gồm các công việc sau đây:
- Xin giấy phép đầu tư.
- Chọn thầu tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kỹ thuật và chất lượng của công trình.
- Tổ chức đấu thầu.
- Ký kết hợp đồng với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự án.
- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đầu tư.
2.3. Giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư, đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Vận hành các kết quả đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu của dự án đầu tư, vận hành
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
6
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
có tốt hay không là dựa vào quá trình tổ chức quản lý hoạt động, quá trình chọn lựa các
phương thức vận hành thích hợp với tùy từng dự án khác nhau.
II. Những vấn đề lý luận về thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
1. Thế nào là thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
• Thất thoát trong đầu tư là hiện tượng mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn đầu
trong suốt quá trình đầu tư, từ khi quyết định chủ trương đầu tư cho đến khi dự án hoàn thành
và đưa vào sử dụng.
Phần vốn đầu tư bị thất thoát là phần vốn tuy đưa vào dự án nhưng bị lãng phí hoặc biến
mất trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nguyên nhân ở đây có thể do tiêu cực và tham
nhũng gây nên lãng phí hoặc do thiên tai, dịch họa và do tác động của nền kinh tế.
Thất thoát trong đầu tư được đo lường bằng giá trị thất thoát và tỷ lệ thất thoát. Giá trị
thất thoát được hiểu là hiệu số giữa tổng vốn đầu tư thực hiện với giá trị thực của công trình.
Giá trị thực là phần chi phí thực tế, hợp lý, cần thiết để xây dựng công trình đạt được mục đích
đầu tư. Tỷ lệ thất thoát là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thất thoát và tổng vốn đầu tư thực hiện

xây dựng công trình. Tỷ lệ thất thoát phản ánh mức độ thất thoát vốn đầu tư.
Hiện tại, do chưa đo lường có hệ thống về mức độ thất thoát trong toàn bộ quá trình đầu
tư nên khó có thể đưa ra được những đánh giá đủ độ tin cậy để xác định mức độ nghiêm trọng
của tình hình và làm cơ sở để xem xét hiệu quả cụ thể của việc hoàn thiện các chính sách quản
lý nhằm chống thất thoát được đưa ra áp dụng như thế nào.
• Lãng phí trong đầu tư có thể hiểu là việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư không mang lại
hiệu quả như mong muốn, mà nguyên nhân của sự lãng phí này là xuất phát từ sự thiếu trách
nhiệm, thiếu năng lực của các cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư và các cơ quan tư vấn,
thiết kế, cơ quan thẩm định, cơ quan trực tiếp quản lý vốn trong quá trình thực hiện đầu tư.
Theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí : “Lãng phí là việc quản lý, sử dụng tiền,
tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả. Đối với lĩnh
vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì việc
lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản, lao động, thời gian lao
động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên vượt quá định mức, tiêu chuẩn chế độ
hoặc không đạt mục tiêu đã xác định”.
Theo Pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
chúng ta có thể hiểu “lãng phí là sử dụng các nguồn lực tài chính, lao động, thời gian... vượt
quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc sử dụng
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
7
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng chất lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu
đã xác định.”
Lãng phí chính là chi cho những việc không đáng chi và chi ở những mức không đáng
chi. Những việc đáng chi ở đây là những việc cấp bách nhất, nếu chúng ta không có những chỉ
tiêu để đánh giá được việc gì là quan trọng nhất, là đáng chi nhất trong đầu tư thì dễ dẫn đến
việc lãng phí, có thể là lãng phí tiền, cơ hội hay là lãng phí một tiềm năng của một dự án đầu
tư.
Lãng phí của một dự án đầu tư là gì? Theo ý kiến các chuyên gia trong công tác quản
lý dự án và quan niệm của các nhà tài trợ thì đó là các khoản chi không đem lại hiệu quả gì

cho dự án hoặc phần chi cao hơn các quy định hợp pháp, chi không đúng quy định của dự án...
căn cứ theo mục đích và động cơ của các hành động trên mà có thể coi đó là lãng phí hay tham
ô.
Lãng phí do những chi phí, tổn hao và sử dụng nguồn lực tài chính, nhân lực và các
nguồn lực khác trên mức hợp lý. Hoặc không đạt được mục tiêu, kết quả đã xác định, nếu có
thì chất lượng, hiệu quả ở mức thấp hơn yêu cầu đặt ra. Do những hư hao, tổn thất không đáng
có hoặc không thể được phép. Khái quát lại, những điểm nêu trên do hành vi chủ quan của cá
nhân, tập thể đều được gọi là hành vi lãng phí.
Tóm lại, lãng phí là một hành động thiếu tinh thần trách nhiệm, không có ý thức quý
trọng của cải, quý trọng sức người của nhà nước, của nhân dân. Một dự án đầu tư được tiến
hành lúc nào cũng có thất thoát, trong đó lãng phí chiếm đến gần 80% giá trị thất thoát. Thất
thoát lãng phí là một hành động gây kết quả tai hại đến tài sản của nhà nước, của tập thể và
đó cũng là một hành động vi phạm pháp luật.
2. Các hình thức biểu hiện thất thoát và lãng phí trong đầu tư
Thất thoát và lãng phí được xem là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, là một trong những
nguyên nhân làm cho hiệu quả của các dự án đầu tư giảm sút, xét dưới từng góc độ khác nhau
có thể nhận diện được thất thoát và lãng phí trong đầu tư cũng khác nhau, nếu xem xét trong
từng giai đoạn của quá trình đầu tư thì ta có thể thấy một số hình thức biểu hiện rõ ràng nhất
đó là : “dàn trải, kéo dài, thất thoát về vốn, kém hiệu quả, chất lượng và tuổi thọ công
trình giảm…”. Cụ thể trong từng giai đoạn như sau:
2.1. Giai đoạn Chuẩn bị đầu tư
Chuẩn bị đầu tư là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đầu tư, trong giai đoạn này
có hai quyết định quan trọng đó là: Quyết định chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư.
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
8
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Chủ trương đầu tư thường có biểu hiện sai lầm là việc quy hoạch sai hay không có quy
hoạch các dự án, đầu tư không có quy hoạch, không theo quy hoạch được phê duyệt hoặc phê
duyệt sai không phù hợp với đặc điểm kinh tế, điều kiện tự nhiên, dân số và lao động…cũng
sẽ dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới thất thoát vốn đầu tư,

gây lãng phí về người và tài sản.
Quyết định đầu tư thường có biểu hiện sai lầm trong biên soạn và thẩm định báo cáo khả
thi, dẫn đến lựa chọn địa điểm công trình sai, xác định quy mô dự án đầu tư quá lớn, nội dung
đầu tư không đồng bộ, lựa chọn công nghệ sản xuất không phù hợp, ít quan tâm đến thực tế sử
dụng và vận hành công trình sau này…đây cũng là nguyên nhân gây ra lãng phí lớn, tạo ra
phần chủ yếu của thất thoát trong đầu tư.
o Trong lĩnh vực giáo dục ta có thể thấy nhiều biểu hiện nhất có quyết định đầu tư sai
lầm. Đó là một số dựa án xây dựng các trường học năng khiếu trong 1 thành phố
đầy đủ trang thiết bị hiện đại, tiện nghi, tuy nhiên chiêu sinh được rất ít đơn giản vì
trong thành phố đã có một trường giống như thế, đó là một quyết định đầu tư sai lầm
gây lãng phí to lớn.
o Về lĩnh vực công nghiệp, những biểu hiên thường thấy là quyết định xây dựng các
nhà máy sản xuất nhiều loại hàng hóa đa dạng, tuy nhiên lại không tính toán đến quá
trình vận hành sau này, không nghiên cứu kỹ thị trường nên thường dẫn tới hoạt
động không hiệu quả, gây thất thoát và lãng phí lớn.
Trong khâu chuẩn bị đầu tư có một quyết định quan trọng nữa đó là: “chọn địa điểm đầu
tư”. Chọn địa điểm đầu tư mà sai, không đáp ứng được các yêu cầu như: Gần nguồn nguyên
liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với đặc điểm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khí
hậu,… thì sẽ có tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của dự án đầu tư cả
trước mắt và lâu dài. Mỗi lần di chuyển địa điểm nhà máy không chỉ tốn kém chi phí về mặt
vật chất, chi phí bảo quản, chi phí chạy thử, mà còn phải chi phí lớn cho công tác chuẩn bị mặt
bằng…Xác định quy mô dự án không chính xác, không phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng, của địa điểm xây dựng dự án sẽ gây thất
thoát, lãng phí như: dự án hoạt động không hết công suất, chi phí cho sản phẩm cao, càng
hoạt động càng lỗ, thậm chí có dây chuyền thiết bị không phát huy hiệu quả do đầu tư không
đồng bộ…Trong các dự án xây dựng một số công trình phục vụ cho giao thông cũng đã có
một số dự án do chọn sai vị trí xây dựng mà nó đã không phát huy được hiệu quả thực sự của
nó, gây lãng phí rất nhiều.
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
9

Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Hoặc chẳng hạn, đối với các dự án có thể gây ô nhiễm môi trường (sản xuất phân bón hay
thuốc trừ sâu…) khi chọn địa điểm nếu đặt ở gần khu dân cư đông đúc, đến lúc đưa dự án vào
hoạt động mới phát hiện và xử lý ô nhiễm thì quá tốn kém, đưa chi phí đầu tư vượt quá dự
kiến ban đầu có khi rất lớn, gây lãng phí rất nhiều tiền của.
• Khâu bố trí kế hoạch, cấp vốn đầu tư
Từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư chuyển sang giai đoạn thực hiện đầu tư phải thông qua khâu
bố trí kế hoạch và cấp vốn đầu tư. Việc bố trí kế hoạch đầu tư cũng là khâu dễ gây ra lãng phí,
thất thoát với những hiện tượng sau đây:
+ Bố trí kế hoạch không phù hợp với các mục tiêu định hướng của chiến lược, của quy
hoạch được phê duyệt, kế hoạch đầu tư hàng năm không ăn khớp với kế hoạch đầu tư trung và
dài hạn…cũng sẽ dẫn đến gián tiếp làm thất thoát và lãng phí vốn đầu tư sau này,
+ Bố trí vốn đầu tư phân tán : danh mục các dự án đầu tư trong kế hoạch đầu tư quá
nhiều, chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ, dẫn đến vốn đầu tư càng bị phân tán làm cho thời
gian đầu tư bị kéo dài, tiến độ thực hiện dự án bị chậm lại, vốn đầu tư không phát huy được
hiệu quả, gây lãng phí vốn đầu tư.
o Trong khâu này ta có thể nhận thấy biểu hiện rõ nhất là trong các dự án xây dựng
các khách sạn du lịch và các công viên của một số thành phố, các dự án thường
được cấp vốn rất lớn và qua nhiều năm triển khai có dự án không phát huy được
hiệu quả, có dự án thì vẫn đang còn dở dang. Điều này đặt ra vấn đề cần xem xét lại
việc cấp vốn đầu tư và bố trí vốn sao cho hợp lý, nên đầu tư vào các dự án có tiềm
năng, tránh lãng phí và thất thoát.
2.2. Giai đoạn Thực hiện đầu tư.
Trong giai đoạn này ta có thể thấy biểu hiện thất thoát và lãng phí rõ ràng nhất đó là vấn
đề thời gian, vốn đầu tư của các dự án được chi ra và nằm khê đọng trong suốt những năm
thực hiện đầu tư, đó là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài
thì vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lãng phí càng lớn.
• Khâu thiết kế
Chất lượng thiết kế một dự án đầu tư không đúng theo các quy phạm, quy chuẩn về kỹ
thuật của nhà nước, hồ sơ thiết kế không phù hợp với tình hình thực tế về địa chất, địa hình,

khí hậu, điều kiện tự nhiên và đặc điểm về tài nguyên, nguồn nhân lực và đặc điểm về nguyên
liệu, vật tư thiết bị đầu vào, quy mô và khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra…sẽ dấn đến những
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
10
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
sai sót tất yếu trong thi công, gây hậu quả thất thoát lãng phí do phải khắc phục sai sót để đảm
bảo mục đích đầu tư.
• Khâu lập và quản lý dự toán
Lập và quản lý dự toán của dự án thực chất là quản lý giá trong hoạt động đầu tư, đây là
khâu không chỉ gây thất thoát lãng phí về vốn đầu tư mà còn là khâu nhạy cảm gây ra sơ hở
dẫn đến phát sinh tiêu cực trong hoạt động đầu tư, nó thể hiện ở một số hình thức sau:
+ Việc tính khối lượng từng loại công việc, vật tư theo thiết kế kỹ thuật, thiết kế tổ chức
thi công làm cơ sở cho việc lập tổng dự toán, dự toán công trình. Nếu khâu này không chính
xác, gây thất thoát lãng phí về vốn đầu tư.
+ Áp dụng sai giá chủng loại vật tư, thiết bị đã đươc cơ quan chức năng thông báo theo
thực tế tại thời điểm tính toán, nghiệm thu thanh toán cũng sẽ gây thất thoát lãng phí.
+ Sử dụng sai định mức kinh tế- kỹ thuật của nhà nước ban hành cho từng loại dự án đầu
tư theo quy phạm và quy chuẩn. Hệ thống định mức kinh tế_ kỹ thuật để lập dự toán, thanh
quyết toán không tiên tiến, không đầy đủ, không cụ thể đều dẫn đến thất thoát lãng phí vốn
đầu tư.
• Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có khâu đền bù, giải phóng mặt bằng cũng là
khâu thất thoát và lãng phí nhiều. Trách nhiệm của các chủ đầu tư và chính quyền các cấp
chưa được thực hiện đúng mức, công việc bàn giao mặt bằng thi công chậm (hiện khá phổ
biến ở Việt Nam) đã làm thiệt hại cho nhà thầu không nhỏ, làm thời gian kéo dài, tiến độ thi
công, gây ứ đọng vốn nhà nước và chậm đưa công trình vào khai thác sử dụng.
• Khâu chọn thầu tư vấn khảo sát, thiết kế, tổ chức đấu thầu
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của đôi bên mời thầu để thực
hiện gói thầu thuộc các dự án trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và
hiệu quả kinh tế. Tình trạng đáng quan tâm hiện nay là một số nhà thầu (phần lớn là doanh
nghiệp xây dựng nhà nước) chấp nhận bỏ giá thầu theo kiểu phá giá, dưới mức hợp lý (được

hiểu là bù đắp chi phí sản xuất cộng thuế giá trị gia tăng và một phần lợi nhuận tối thiểu). Điều
nay tất yếu dẫn đến hậu quả tiêu cực là bớt xén vật tư, giảm cấp vật liệu làm giảm chất lượng
dự án đầu tư. Hậu quả là doanh nghiệp bị thiệt hại, bị lỗ. Nhà nước lại bỏ ra một khoản chi phí
để khắc phục, sửa chữa công trình.
• Khâu theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đầu tư.
Công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện đầu tư của chủ đầu tư, ban quản lý dự
án, của tư vấn giám sát không chặt chẽ, thậm chí mang tính hình thức dẫn đến việc nhà thầu :
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
11
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
làm sai thiết kế; sử dụng vật tư không đúng quy cách, không đảm bảo chất lượng; bớt xén
nguyên vật liệu…các phần của dự án đầu tư nhiều khi được nghiệm thu không đúng chế độ,
khai tăng khối lượng, nghiệm thu khống khối lượng, nâng giá vật tư, nguyên vật liệu lên…
o Một số dự án như xây dựng kênh mương, nhà máy sản suất, trường học, kho bạc…
do trong quá trình xây dựng không được theo dõi, giám sát chặt chẽ nên sau khi đưa
vào sử dụng đã bị xuống cấp nghiêm trọng, công trình bị sạt lở, bị hư hỏng nặng, có
công trình thì trong quá trình thi công đã bị rút bớt xén nguyên vật liệu như thép,
thay đổi vật liệu rẻ tiền, nên các bể lọc, bể chứa đều bị rạn, nứt nghiêm trọng, có
những công trình không những gây thất thoát lãng phí về vốn mà còn gây ra những
vụ tai nạn như sập giàn dáo, sập nhà gây thiệt hại về người, về của rất đáng tiếc.
Đây là những biểu hiện cần phải được xử lý nghiêm khắc.
2.3. Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư, đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Đây là giai đoạn cuối của một dự án đầu tư, nó cũng có một vai trò rất quan trọng trong
việc quyết định sự thành công của dự án vừa thực hiện. Việc bố trí triển khai các kế hoạch để
đưa dự án vào khai thác, sử dụng cũng là khâu mà dễ gây ra lãng phí và thất thoát. Cụ thể với
từng dự án có quy mô khác nhau mà áp dụng chi phí vận hành khác nhau, tuy nhiên trên thực
tế có nhiều dự án đã sử dụng lượng chi phí vận hành quá lớn vượt quá mức cần thiết so với giá
trị thực của nó, hoặc là các kế hoạch áp dụng không hợp với các dụ án và không khả thi nên đã
dẫn tới tình trạng dự án đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế cũng như xã hội mong
muốn, thạm chí hoàn toàn không có hiệu quả…đây là một lãng phí to lớn sau khi đã hoàn

thành dự án.
III. Hậu quả của thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
Hiện nay thất thoát và lãng phí là một vấn đề nghiêm trọng không những trong lĩnh
vực đầu tư mà trong nhiều lĩnh vực khác, nó xảy ra trên phạm vi rộng, tính chất phức tạp và
gây hậu quả nặng nề về nhiều mặt:
1.Về mặt kinh tế
Hạn chế phát triển kinh tế: Khi những điều kiện cho sự phát triển kinh tế bị huỷ diệt
như nguồn vốn đầu tư bị thất thoát và lãng phí, vốn trong nước bị thất thoát ra nước ngoài, vốn
từ nước ngoài đầu tư nhỏ giọt, hiệu quả sử dụng của các dự án đầu tư xây dựng quá kém, sức
cạnh tranh với nước ngoài yếu vv... kinh tế trong nước sẽ chậm phát triển.
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
12
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Cản trở đầu tư nước ngoài: Mục đích đầu tư của thương gia nước ngoài là lợi nhuận,
họ đầu tư vào những nơi có lợi nhuận cao, nơi mà quyền lợi và của cải đầu tư của họ được bảo
đảm. Trong một nước mà lĩnh vực đầu tư có tỷ lệ thất thoát và lãng phí cao, luật pháp thường
lỏng lẻo không bảo đảm được tài sản của người đầu tư thì thông thường họ sẽ e dè hơn trong
quyết định đầu tư của mình.
Giảm tốc độ làm việc, sản xuất: để có thể nhận được tiền hối lộ, những cán bộ, nhân
viên hữu trách phải kéo dài thời gian giải quyết sự việc liên quan đến dự án đầu tư để người
trong cuộc phải trả tiền. Những dự án đầu tư mà không có tham nhũng, không có thất thoát thì
mọi thành viên hữu trách của dự án gắng sức đạt kết quả cao về số lượng cũng như về phẩm
chất, trong khi những dự án có tham nhũng gây thất thoát thì ỷ lại, làm qua loa có lệ vì họ đã
mất lòng tin vào cán bộ quản lý.
Tham nhũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả thất thoát trong các dự án đầu tư.
Tham nhũng làm cho nợ quốc gia tăng quá mức thực tế: Phí tổn của những dự án xây dựng hạ
tầng cơ sở thường được chi phí do tiền vay từ nước ngoài. Để có thể nhận thi công dự án, các
công ty đấu thầu phải trả tiền hối lộ, những người có quyền quyết định sẽ chọn công ty nào trả
tiền hối lộ cao nhất, chi phí cho tham nhũng được công ty thi công đấu thầu tính vào dự án,
nên tổn phí dự án cao hơn thực tế. Qua đó tổn phí dự án tăng thêm và quốc gia phải mang nợ

nhiều hơn. Ngoài ra tham nhũng làm giảm thu nhập hay tăng chi phí quốc gia, thí dụ như đút
lót nhân viên hữu trách để trả ít thuế, để khỏi trả tiền phạt, gian lận, ăn cắp của công vv... do
đó chính phủ phải mượn nợ nhiều hơn cho những chi phí quốc gia.
Thất thoát và lãng phí làm cho hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư bị giảm sút nhanh
chóng, chất lượng công trình thực hiện không đáp ứng được nhu cầu đặt ra… Một số dự án do
lãng phí vốn đầu tư nên đã dẫn tới hiện tượng thời gian đầu tư bị kéo dài, ảnh hưởng đến tiến
độ thực hiện dự án, vốn đầu tư không phát huy được hết hiệu quả của nó.
Lạm dụng tham ô, tham nhũng để gây nên thất thoát lãng phí trong đầu tư cũng gây
hậu quả nghiêm trọng, chủ đầu tư cứ chủ trương phát sinh nhiều hạng mục yêu cầu cấp trên
phải giải quyết, gây hiện tượng ỷ lại, vừa mất cân đối ngân sách nhà nước, nền kinh tế bị thiệt
hại, vừa tạo ra bất công giữa các dự án, các ngành, các địa phương…
Khi mà những hành động như rút ruột nhà nước, rút ruột công trình, bớt xén vật tư, chủ
đầu tư và bên thi công móc nối và thỏa thuận với nhau để kiếm lời vẫn diễn ra thường xuyên
thì thất thoát và lãng phí không thể lượng hóa được, điều này rất nguy hiểm và gây khó khăn
trong việc quản lý các hoạt động của dự án đầu tư, từ đây sẽ gây ra sơ hở dẫn đến phát sinh
nhiều tiêu cực hơn trong hoạt động đầu tư và nhiều hậu quả kinh tế khác…
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
13
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
2.Về mặt xã hội
Tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư vốn diễn ra trong tất cả các khâu, các giai
đoạn của quá trình đầu tư, điều này dẫn đến một hậu quả rất nghiêm trọng đó là hiệu quả xã
hội của các dự án đầu tư bị giảm sút nhanh chóng, chất lượng công trình thực hiện không đáp
ứng được nhu cầu, gây nhức nhối cho toàn xã hội.
Một phần hậu quả của thất thoát và lãng phí là tăng trưởng tệ nạn xã hội. Cụ thể là có
những kẻ phạm pháp tìm cách mua chuộc cán bộ, nhân viên, thành viên chính quyền có thế lực
và vai trò trong các dự án đầu tư để nhằm kiếm chác tư lợi về cho bản thân, gây thất thoát
nghiêm trọng vốn và nguyên vật liệu thi công. Nếu những viên chức này tham lam, và hành vi
những kẻ phạm pháp được che chở và trở thành “hợp pháp hoá”. Người dân hàng ngày chứng
kiến những hành vi phạm pháp nhưng không bị trừng phạt, dần dần họ quen thuộc với những

hành vi này và cuối cùng trở thành bình thường hoá trong xã hội. Đó cũng trở thành một trong
những nguyên nhân chính làm tăng trưởng tệ nạn xã hội.
Nền tảng xã hội bị hủy hoại, đạo đức bị tàn phá là do hành động gây lãng phí của các
cán bộ quản lý dự án quá nhiều và lộ liễu, bớt xén nguyên vật liệu trong các dự án xây dựng
gây hậu quả nặng nề trong tương lai ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Và đó cũng chính
là những hành động làm gương xấu cho những thế hệ sau.
Thất thoát và lãng phí càng nhiều thì các dự án đầu tư cáng kéo dài nhiều năm, hậu quả
là ảnh hưởng đến an ninh trật tự, môi trường sống của người dân nơi dự án thực hiện, nhiều dự
án ở các vùng miền núi không thi công vào mùa khô mà lại thi công vào mùa mưa, thêm yếu
tố mưa xuống, dự án không thực hiện được phải bỏ dở dang….điều này ảnh hưởng rất nhiều
đến môi trường và xã hội.
Thất thoát và lãng phí trong đầu tư vẫn đang vô tư phát triển, vẫn đang ngày một gây
hậu quả cho toàn xã hội, nó gây ra những hậu quả khôn lường như cản trở đến sự phát triển
kinh tế- xã hội của một vùng, của một thành phố là địa điểm xây dựng dự án hay thậm chí là
của một quốc gia, hoặc nó có thể làm cho dự án không hoạt động hết công suất, chi phí thực
hiện cao hơn, không phát huy được hiệu quả tốt nhất của dự án…
Thất thoát vốn đầu tư, lãng phí về người và tài sản vẫn đang là những vấn đề nổi cộm
hiện nay, vẫn chưa có con số thất thoát cụ thể nhưng những hậu quả mà việc làm đó gây ra đã
và đang bị xã hội và dư luận lên án mạnh mẽ và vẫn đang tìm ra các giải pháp để xử lý nó.
Thất thoát lãng phí là một hành động gây kết quả tai hại đến tài sản của nhà nước, của
tập thể, của xã hội và đó cũng là một hành động vi phạm pháp luật. Nếu cứ để thất thoát và
lãng phí diễn ra thì những kẻ phạm pháp như những viên chức hữu trách đã tự lập ra luật pháp
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
14
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
mới và áp dụng chúng thay vì luật pháp quốc gia hiện hành. Nếu trong một quốc gia có 1 triệu
viên chức tham nhũng, tham ô gây thất thoát thì trong quốc gia đó sẽ có 1 triệu cơ quan lập
pháp và hành pháp tư nhân được thực dụng, trong lúc cơ quan lập pháp và hành pháp chính
thức của quốc gia chỉ là bù nhìn. Hậu quả ở đây là hệ thống pháp luật của nước ta bị lũng
đoạn.

Nhóm sinh viên: Nhóm 8
15
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Chương II:
Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
I. Khái quát về tình hình đầu tư tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam là kết quả của số lượng hơn là của hiệu
quả đầu tư. Vốn đầu tư phát triển ngày một gia tăng cả về lượng vốn tuyệt đối, cả về tỷ lệ
lượng vốn đó so với GDP. Một con tính rất đơn giản: năm 1995, vốn đầu tư phát triển so với
GDP chỉ có 31,7%, nhưng đã làm cho GDP tăng 9,54%, tức là để GDP tăng 1% thì tỷ lệ vốn
đầu tư so với GDP mới chỉ cần 3,3% (hay suất đầu tư là 3,3 lần); còn vào năm 2003, tỷ lệ vốn
đầu tư so với GDP lên tới 36,3%, nhưng GDP chỉ tăng 7,26%, thì suất đầu tư đã lên đến 5 lần,
tức là hiệu quả đầu tư đã giảm tới 34%, hay giảm hơn 1/3 ; năm 2004, tỷ lệ vốn đầu tư so với
GDP đạt 36,3%, với suất đầu tư đạt 4,7 lần, nên tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,69%; năm 2005
tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP theo kế hoạch là 36,5%; nếu suất đầu tư chỉ đạt như năm trước
(4,7 lần) thì tốc độ tăng GDP cũng chỉ đạt khoảng 7,8%, thấp xa so với mục tiêu tăng 8,5% đã
đề ra. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao đứng thứ 11 trên thế giới, thứ 3 ở châu Á và thứ 2 trong khu
vực Đông Nam Á. Vào năm 2006, Việt Nam được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) coi là một
“Trung Quốc đang nổi lên” và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) coi là một “ngôi sao”.
Hoạt động đầu tư ở Việt Nam tỏ ra xuất sắc về mặt số lượng, nhưng lại tương đối kém
về mặt chất lượng. Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2004 của WB đối với 23 quốc gia
cho thấy, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 3 về tỷ lệ đầu tư so với GDP, nhưng chỉ xếp thứ 17 về mặt
chất lượng và hiệu quả đầu tư.
Từ những phân tích trên có thể thấy, Việt Nam cần chuyển trọng tâm từ nâng cao số
lượng đầu tư sang tăng cường hiệu quả và năng suất của đầu tư. Đã đến lúc Việt Nam nên
chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên đầu vào sang tăng trưởng dựa trên hiệu quả. Sự
chuyển biến như vậy sẽ đòi hỏi Việt Nam phải hành động trên nhiều mặt.
Theo tính toán của các tổ chức quốc tế, nếu suất đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh
chỉ có 3,7 lần thì của khu vực kinh tế nhà nước lên đến trên 7 lần, tức là cao gần gấp đôi khu
vực ngoài quốc doanh, hay hiệu quả đầu tư chưa bằng một nửa. Một mặt trong tổng vốn đầu tư

nhà nước có một tỷ lệ khá lớn là vốn đi vay trong nước (thông qua phát hành trái phiếu, công
trái...) và vay nước ngoài (thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, vay nước
ngoài cân đối ngân sách, cho vay lại...); mặt khác khu vực nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
16
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
từ vị trí, đất đai, xóa nợ, khoanh, hoãn nợ, lãi suất cho vay... Cần nhớ rằng, suất đầu tư của các
nước trong khu vực chỉ trên dưới 3 lần.
Thúc đẩy tăng trưởng nhờ tăng đầu tư cũng có những giới hạn của nó. Chỉ tăng đầu tư
về mặt số lượng có thể sẽ không đem đến những kết quả như mong muốn. Hiệu quả đầu tư là
chất lượng tăng trưởng. Số lượng vốn dù có tăng lên nhưng nếu hiệu quả đầu tư mà không
tăng lên thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng không cao lên tương ứng
Do đầu tư của Chính phủ đóng vai trò rất quan trọng, việc tăng cường hiệu quả của lĩnh vực
này cần đến việc xác định lại ưu tiên của các dự án. Có thể giảm quy mô của những dự án có
mức độ cấp thiết ít hơn và ưu tiên đầu tư vào những dự án có chất lượng cao và tỷ lệ hoàn vốn
lớn. Đây là việc làm đặc biệt quan trọng vì mức độ phân cấp ở Việt Nam là rất cao.
Bộ KH&ĐT cho biết, khả năng huy động vốn đầu tư khoảng 554 nghìn tỷ đồng (tương
đương trên 34 tỷ USD ) năm 2008. Số vốn huy động này tăng 19,6% so với ước thực hiện năm
2007 và bằng 41,5% GDP. Nguồn vốn đầu tư sẽ được huy động từ nguồn ngân sách nhà nước,
trái phiếu Chính phủ, tín dụng nhà nước, vốn ODA, khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư…
Trong đó, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước sẽ đạt gần 97 nghìn tỷ đồng, chiếm
17,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; vốn tín dụng nhà nước khoảng 40 nghìn tỷ đồng
(7,2%); vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư (dân doanh) hơn
201 nghìn tỷ đồng (36,4%)…
Các nguồn vốn này được tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
trọng yếu, đặc biệt là các dự án phát triển giao thông, thủy lợi, điện, cảng biển; xây dựng các
khu công nghiệp; phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp giảm nghèo; phát triển giáo dục
đào tạo; hỗ trợ hoạt động đầu tư …
Phát triển thể chế của Việt Nam hiện vẫn chưa bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh

chóng của dòng vốn FDI. Mặt khác, sự kết nối giữa lĩnh vực FDI và các doanh nghiệp trong
nước vẫn còn hạn chế.
Trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2005, chỉ có 69% trong tổng số 20,8 tỷ vốn FDI
cam kết đổ vào Việt Nam được giải ngân. Năm ngoái, chưa đầy 40% trong 12,7 tỷ USD cam
kết vào năm 2006 được giải ngân. Tình hình giải ngân các khoản vay phát triển cũng diễn ra
tương tự. Do đó, một việc làm cấp thiết là Việt Nam phải tăng cường khả năng hấp thụ vốn để
giảm khoảng cách giữa lượng cam kết và lượng giải ngân của các dòng vốn từ bên ngoài đổ
vào.
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
17
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Tăng cường hiệu quả đầu tư cũng có nghĩa là những nguồn tài chính dài hạn mới cần
được phát triển để thay thế những nguồn hỗ trợ phát triển từ các nước tài trợ. Những nguồn
vốn mới này cần đến từ thị trường vốn vì các ngân hàng thương mại sẽ phải đối mặt với mức
độ rủi ro cao nếu cung cấp những khoản cho vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn
cho các dự án phát triển. Sự nổi lên của thị trường chứng khoán Việt Nam là một bước phát
triển được chào đón. Tuy nhiên, cần có nhiều hơn nữa các biện pháp cải cách, trong đó có việc
thiết lập những khung pháp lý phù hợp để đảm bảo sự vận hành trơn tru của thị trường vốn.
Hình 1: Nguồn vốn đầu tư qua các năm (tỷ đồng)
- Hiệu quả đầu tư thấp từ khu vực doanh nghiệp nhà nước
Các nền kinh tế thành công trong khu vực đều duy trì một tỷ lệ cao trong thời gian dài
như Thái Lan khoảng 30% GDP. Việt Nam hiện đã và đang cố gắng thu hút vốn đầu tư từ nhà
nước, dân cư và vốn bên ngoài để có được tỷ lệ đầu tư rất cao tới gần 40% GDP nhằm đạt tốc
độ phát triển bình quân 8% giai đoạn 2000-2007.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là sự gia tăng vốn đầu tư từ khu vực quốc doanh hiện đang
nhận được sự tài trợ “hào phóng” của Chính phủ thông qua việc thực hiện các dự án công hay
tín dụng ưu đãi nhưng lại đóng góp rất ít vào động lực phát triển và xuất khẩu. Điều này thể
hiện qua một số chỉ tiêu cụ thể như chiếm 43,9% trong tổng đầu tư, song chỉ tạo 41,1% tăng
trưởng công nghiệp thực hay đạt 10% giá trị gia tăng trong giai đoạn 6 năm (2000-2006).
Trong khi đó, hai khu vực còn lại là vốn đầu tư nước ngoài và khu vực dân doanh chỉ chiếm tỷ

trọng 17,7% và 41,3% lại có gia tăng về giá trị từ năm 2000 và 2006 tới 56% và 164%, số
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
18
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
lượng lao động tuyển dụng tăng bình quân 22,4% và 25,7%, ngược lại, khu vực quốc doanh lại
giảm -0,1% giai đoạn 2001-2005. Hệ quả là hệ số suất đầu tư chung (ICOR) rất cao do ảnh
hưởng của đầu tư từ nhà nước không hiệu quả, con số bình quân lên tới 4,4 thời kỳ 2001-2006.
Điều này được thể hiện qua chỉ số ICOR ngày càng lớn. Thời kỳ 1991-1995 chỉ số này là 3,
nhưng thời kỳ 1996-2000 đã lên tới 4,3; thời kỳ 2001-2005 khoảng 4,7 đến nay là trên 5,0.
Trong khi đó, số liệu tương ứng khi so sánh với các quốc gia khác trong giai đoạn tiến hành
công nghiệp hóa 1961-1980 như Hàn Quốc chỉ có 3,0 hay Đài Loan là 2,7. Không chỉ như vậy,
khu vực quốc doanh lại đang kiểm soát thị trường nội địa, chiếm dụng các nguồn tài nguyên
khan hiếm như đất đai, tín dụng với giá rẻ. Cuối cùng, việc mở rộng rất nhanh, song kém hiệu
quả của các tập đoàn dựa trên các tổng công ty nhà nước độc quyền ngành và nhận hỗ trợ của
Chính phủ đang gây ra biến dạng nền kinh tế quốc dân, hình thành nhóm lợi ích để vận động
và bảo vệ quyền lợi với nguồn tài trợ từ các ngân hàng thương mại nhà nước chưa kể sự thâm
nhập rất nhanh của tư bản nước ngoài vào những ngành đang nhận được bảo hộ hay ưu đãi.
"Đầu tư khu vực nhà nước tuy đã có xu hướng giảm nhưng vẫn còn cao. Từ mức bình
quân 51% thời kỳ 1991- 2005, đến nay tỷ lệ này còn là 43%. Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch
chuyển theo hướng tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời quan tâm đầu tư hơn cho vùng nghèo, xã nghèo vùng đồng bào dân tộc.
Tuy nhiên, công tác quản lý đầu tư còn yếu kém, chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa
thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch định các kế hoạch phát triển. Việc quản lý vừa rườm rà,
vừa lỏng lẻo trong đầu tư thể hiện ở tất cả các khâu từ xác định chủ trương, lập thẩm định dự
án, ra quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán… đến khâu triển khai thực hiện,
theo dõi cấp phép và thanh toán gây ra tình trạng thất thoát không nhỏ cho vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước.
Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn có tình trạng số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp
vốn ngày càng tăng, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách.
Ngoài ra, nguyên nhân sâu xa còn là do đã đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung quá

nhiều vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở, chưa đầu tư thoả đáng cho các dự án có khả năng thu hồi
vốn, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá có giá trị làm tăng GDP.
Hiện đầu tư công của chúng ta đã vượt xa so với khả năng của ngân sách nhà nước.
Trong khi đó, đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã chiếm tới 50% ngân sách. Điều này sẽ khiến đầu tư
cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh hưởng."Nếu chưa tìm được đối tác thích hợp sẽ tổ chức
đấu thầu lại."
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
19
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Bội chi NSNN so với GDP
Nguồn: Bộ Tài chính
Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu
hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN
trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5%
GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng
cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm 1991-
1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức
3,87% so với GDP.
- Tăng quá mức của các dòng vốn từ bên ngoài
Đối với Việt Nam, vốn nước ngoài đã và đang đóng góp phần quan trọng trong gia
tăng đầu tư, chi tiêu và kinh tế đối ngoại. Hàng năm, dòng vốn từ bên ngoài chảy vào Việt
Nam rất lớn dưới các hình thức: viện trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư nước ngoài (đầu
tư trực tiếp nước ngoài FDI và đầu tư tài chính nước ngoài FFI) và kiều hối. Trong năm 2007,
tổng vốn từ bên ngoài ước đạt 14,6 tỷ USD hay khoảng 20% GDP, trong đó từ đầu tư nước
ngoài 8,6 tỷ USD và từ kiều hối 5,0 tỷ USD chưa kể gần 1,0 tỷ USD giải ngân ODA. Số tiền
ngoại tệ này đã góp phần không chỉ vào tăng trưởng kinh tế mà còn bù đắp cho thâm hụt cán
cân thương mại và tăng dự trữ quốc gia.
Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh của các dòng vốn bên ngoài mà đặc biệt là FFI đang
gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung mà trực tiếp đến thị trường chứng khoán và
bất động sản nói riêng. Trong năm 2007, lượng vốn FFI chảy vào Việt Nam lên tới gần 6 tỷ

USD cùng với các dịch chuyển đầu tư trong nước đã làm bùng nổ các thị trường chứng khoán
tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với tổng giá trị vốn hóa lên tới 30 tỷ USD, chiếm 43%
GDP hay gấp 3 lần về quy mô so năm 2006. Điều này đã tạo sức ép lên cung tiền do nhu cầu
chuyển đổi nhiều tỷ USD sang VND phục vụ giao dịch mua bán. Không chỉ như vậy, các tổ
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
20
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
chức đầu tư tài chính nước ngoài đang ngày càng đóng vai trò quan trọng thậm chí dẫn dắt thị
trường và ảnh hưởng tới ban hành chính sách. Bên cạnh đó, bong bóng bất động sản tại các
khu vực đô thị phát triển như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang có nguy cơ xảy ra và
bùng nổ do lượng tiền quá lớn trong dân cư, dịch chuyển đầu tư của doanh nghiệp và các siêu
dự án FDI. Thời gian qua, giá đất của các dự án phát triển đô thị đã tăng lên rất nhanh, thậm
chí nhiều nơi tăng hơn 100% hay giá 1m2 đất gấp gần 20 lần thu nhập bình quân hiện mới đạt
825$/năm. Điều này không chỉ làm biến dạng thị trường bất động sản do bong bóng đầu cơ mà
còn gây ra mâu thuẫn xã hội, phân hóa giàu nghèo và cản trở nhu cầu nhà ở chính đáng của
người dân.
• Nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài FII
Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng
quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam
từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn
(1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các
nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng 30-40%).Tuy nhiên, thực tế cũng cho
thấy, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ
nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời
gian qua đã không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián
tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức.Theo các nhà đầu tư, lý do để họ
hướng về Việt Nam là Chính phủ đã khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với
sự phát triển của nền kinh tế, tính chuyên nghiệp hoá từng bước của môi trường đầu tư và sự
thành công của những nhà đầu tư hiện hữu. Bên cạnh đó, phải kể đến những bước tiến mới
trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam bao gồm: việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ ra

nước ngoài và trái phiếu tư nhân, thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước
(SCIC); quá trình cổ phần hoá đang diễn ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại
quốc doanh; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông, cải cách
khung pháp lý dành cho các nhà đầu tư nước ngoài.
• Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
21
Lớp tín chỉ: KTĐT -2

Trong giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/2007, đã có 8.058 dự án FDI được triển khai ở Việt Nam.
Lượng vốn đầu tư trong gần 20 năm đạt đến con số 72,86 tỉ USD nhưng cho đến thời điểm
9/2007 mới chỉ thực hiện được khoảng 42,5% – một hiệu suất không hề cao. Nếu bổ ra theo
các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì càng thấy rõ.
II.Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư giai đoạn 2000 – 2007.
Trong báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII có đánh giá việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội năm
1991-2000 đã nhận định “ cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
22
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí ” . Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
nhà nước hiện nay vẫn chưa cao, đầu tư dàn trải đi kèm với tình trạng thất thoát vốn là một
trong những lãng phí lớn nhất.
Thất thoát và lãng phí có thể xảy ra ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, các địa phương; ở
mọi cấp từ trung ương xuống cơ sở; các cơ quan hành chính nhà nước; các doanh nghiệp, các
cơ quan sự nghiệp; các tổ chức chính trị - xã hội; trong các gia đình và từng người dân. Thất
thoát và lãng phí có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi, với mọi đối tượng. Thất thoát diễn ra ở mọi
giai đoạn của quá trình đầu tư cũng như trong mọi lĩnh vực.
Trong những năm qua bên cạnh những thành tựu và tiến bộ đã đạt được trong
ĐT&XD, vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập là quản lý còn lỏng lẻo, dàn trải, thiếu tập

trung, cơ cấu đầu tư chưa phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển, dẫn đến tình trạng
đầu tư kém hiệu quả, nhất là các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do
Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn danh nghiệp nhà nước
đầu tư còn bị thất thoát và lãng phí nhiều. Báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn thông
báo là báo cáo của các Bộ, Ngành và địa phương về số liệu thất thoát, lãng phí trong XDCB
còn ở mức độ rất hạn chế. Các số liệu nêu trong văn bản này chủ yếu căn cứ vào công tác
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, “còn trên thực tế khó định lượng một cách chính
xác số liệu về lãng phí và thất thoát”. Bản báo cáo cho rằng: “Tuy những con số nói trong báo
cáo chưa đủ để khẳng định tỷ lệ thất thoát lãng phí 20 đến 30% như dư luận xã hội hoặc một
số chuyên gia đã phát biểu, nhưng cũng đủ để thấy tính chất nghiêm trọng của tình hình”.
Vấn đề thất thoát, lãng phí trong quản lý nguồn vốn đầu tư những năm vừa qua luôn
thu hút sự quan tâm lớn của toàn xã hội. Thất thoát, lãng phí diễn ra ở hầu hết các dự án, công
trình; ở mọi công việc, ở mọi khâu trong quá trình đầu tư (tuỳ mức độ, phạm vi, thủ đoạn, tính
chất có khác nhau) mặc dù có rất nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động đầu tư trong các thời kỳ.
Có thể nói đây là lĩnh vực được điều chỉnh, bổ sung và ban hành nhiều văn bản nhất.
Báo cáo của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội năm 2002 Tổng thanh tra Nhà nước đã có
12 đoàn thanh tra liên ngành, thanh tra 17 dự án quy mô lớn có tổng mức đầu tư 9.385 tỉ đồng
(trong đó tổng giá trị vốn được thanh tra, kiểm tra là 6.406 tỉ đồng) như dự án cải tạo quốc lộ 1
đoạn Hà Nội - Lạng Sơn, Sân đỗ A1 - cụm cảng Hàng không Nội Bài, Dự án xi măng Bút
Sơn... Phát hiện số sai phạm về kinh tế và tài chính chiếm 13,59 % tổng giá trị vốn được kiểm
tra. Theo báo cáo của Tổng Thanh tra nhà nước ở từng hạng mục công trình được thanh tra
đều có vi phạm:
7/17 dự án vi phạm khâu chuẩn bị đầu tư
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
23
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
7/17 dự án sai phạm về thẩm định dự án
10/17 dự án vi phạm quy chế đấu thầu
10/17 dự án vi phạm thiết kế thi công
14/17 dự án vi phạm quy định nghiệm thu

16/17 dự án vi phạm thanh toán, quyết toán công trình.
Tổng số sai phạm về tài chính trong 17 dự án này là 870 tỷ đồng. Các địa phương đã
kiến nghị xử lý 136 tỉ đồng, trong đó thu về ngân sách nhà nước 65 tỉ đồng, còn lại là xuất
toán, giảm trừ quyết toán, buộc đơn vị thi công phải sửa chữa, khắc phục hậu quả 71 tỉ đồng;
kiến nghị xử lý kỷ luật 515 người, chuyển cơ quan điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự 7 vụ.
Các vi phạm này liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan thuộc Bộ Giao thông Vận tải, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Văn hoá - Thông tin,
Bộ Y tế và UBND các tỉnh: Nghệ An, Lào Cai, Thái Nguyên, các Tổng Công ty: Dệt May,
Rượu Bia, Dầu khí, Xi măng, Cục Hàng không và Cụm cảng sân bay quốc tế Nội Bài.
Năm 2003, Thanh tra 14 dự án phát hiện sai phạm về kinh tế 19,1 % số vốn được kiểm
tra. Trong hai năm 2002 và 2003 thanh tra các bộ và địa phương phát hiện số sai phạm về tài
chính chiếm 1,57 % số vốn của 2518 dự án đã thanh tra. Theo kết quả thanh tra một số dự án,
công trình với số vốn 8235 tỷ đồng đã phát hiện ra tổng số sai phạm về tài chính là 1235 tỷ,
chiếm trên 14% tổng số vốn
Trong năm 2004 Hà Nội đã có kết quả 47/54 dự án tiến hành thanh, kiểm tra, Kết quả
là con số lãng phí, thất thoát trong năm được phát hiện là 3,6%, đã giảm hẳn so với năm ngoái
(năm 2003 thất thoát, lãng phí trên 4%). Qua triển khai 197 cuộc thanh tra kinh tế xã hội,
thành phố đã phát hiện sai phạm, thất thoát tới 5.285 triệu đồng trong 48 dự án (chiếm 3,6%
tổng vốn đầu tư đã kiểm tra).
Năm 2006, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành 38 cuộc thanh tra lớn theo chương trình
kế hoạch và theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm
trong quản lý, chi tiêu tài chính, lãng phí, thất thoát với tổng giá trị hơn 1.560 tỷ đồng và 5,47
triệu USD. Thanh tra các bộ, ngành, địa phương cũng đã tiến hành 12.603 cuộc thanh tra, kiểm
tra (chủ yếu là các cuộc thanh tra về đầu tư xây dựng), qua đó phát hiện sai phạm với tổng giá
trị 4.822 tỷ đồng. Từ thực tiễn các cuộc thanh tra nêu trên có thể rút ra kết luận: Hầu hết các
dự án được thanh tra đều có sai phạm và sai phạm diễn ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn của
quá trình đầu tư. Đáng chú ý, năm 2006 Tổng hội xây dựng đã công bố danh sách 43 dự án
đầu tư xây dựng có thất thoát, lãng phí nhằm chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư XDCB (có
danh sách kèm theo).
Nhóm sinh viên: Nhóm 8

24
Lớp tín chỉ: KTĐT -2
Trong báo cáo kiểm toán năm 2007, Kiểm toán Nhà nước kết luận, đã có nhiều sai
phạm, thiếu sót trong đầu tư xây dựng cơ bản, diễn ra ở mọi khâu: từ khâu lập và giao dự toán
cho tới khâu giám sát, thực hiện; tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún diễn ra trong những
năm vừa qua vẫn chậm được khắc phục, dẫn đến việc bố trí vốn cho các dự án vượt quá khả
năng. Công tác quản lý nguồn vốn đầu tư lỏng lẻo đã tạo các kẻ hở gây thất thoát vốn đầu tư
ngân sách và vốn tín dụng đầu từ Nhà nước. Theo đánh giá của Tổng hội Xây dựng VN, yếu
tố giúp dễ nhận thấy nhất về hiệu quả đầu tư thấp là chỉ số ICOR đang có xu hướng ngày càng
tăng, từ mức 4,1 (giai đoạn 1990-2000) lên xấp xỉ 5 (giai đoạn 2001-2005) và tình trạng thất
thoát, lãng phí đang diễn ra trong tất cả giai đoạn của dự án.
Trong báo cáo kết quả kiểm toán của 6 công trình, dự án trọng điểm quốc gia vừa được
KTNN công bố thì dự án nào, chương trình nào cũng có sai phạm về chấp hành chính sách, sai
quy định về chế độ tài chính. Cụ thể, trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2001-2005, số tiền sai phạm là 49,7 tỷ đồng, Chương
trình Mục tiêu Quốc gia Giáo dục-Đào tạo năm 2006 là hơn 89,2 tỷ đồng; Dự án ngành cơ sở
hạ tầng nông thôn là trên 66,2 tỷ đồng; Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 39,5 tỷ đồng; Dự án Nhà máy Thủy
điện Hàm Thuận; Dự án khu đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì (Hà Nội) thì số tiền sai phạm là
hơn 80,7 tỷ đồng. Riêng đối với Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long
– Vân Trì (Hà Nội), KTNN đã chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra do phát hiện các sai phạm
nghiêm trọng trong dự án này.
Nhà máy thủy điện Hàm Thuận
Số lượng, tỉ lệ các dự án có vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, như: không phù
hợp quy hoạch, phê duyệt không đúng thẩm quyền, đấu thầu không đúng quy định, chậm tiến
độ, chất lượng xây dựng thấp, lãng phí... có xu hướng tăng lên . Kết luận này được đoàn giám
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
25

×