Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương - Chi nhánh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.94 KB, 76 trang )

1
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 5 năm trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại WTO,
cùng với các nước trên thế giới, Việt Nam đã phải cố gắng rất nhiều để trải qua các
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Qua đây, ta đã thấy được tầm quan trọng của tín
dụng trong vai trò là “đòn bẩy” của nền kinh tế cũng như là một công cụ đắc lực để
hỗ trợ cho Nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả của nền
kinh tế. Do vậy theo dự đoán nhu cầu về vốn trong thời kỳ hậu khủng hoảng sẽ
ngày gia tăng để đáp ứng nhu cầu phục hồi sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Vì vậy nên kinh tế sẽ cần không ít vốn
để đáp ứng nhu cầu cần thiết này. Mà nơi đến của các doanh nghiệp không đâu khác
chính là các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên trong thời qua, đặc biệt là thời kỳ khủng hoảng vấn đề tín dụng tại
các tổ chức tín dụng trong nước đã bộc lộ những yếu kém nhất định nên hoạt động
tín dụng đã gặp không ít những khó khăn và rủi ro thường xuyên rình rập. Mà hoạt
động tín dụng lại mang lại thu nhập chủ yếu cho các tổ chức tín dụng. Chính vì vậy,
làm thế nào để phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh
rủi ro tín dụng. Từ đó, có thể đề ra những giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng
tín dụng là nhiệm vụ hàng đầu của các ngân hàng thương mại cũng như của các tổ
chức tín dụng trong nước.
Trong quá trình học tập tại Học Viện Ngân Hàng và nghiên cứu tại Quỹ tín
dụng nhân dân Trung ương - Chi nhánh Thái Bình, em nhận thấy được tầm quan
trọng của công tác nâng cao chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của
các tổ chức tín dụng. Do đó, em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình là: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Quỹ
tín dụng nhân dân Trung Ương - Chi nhánh Thái Bình”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hoạt
động tín dụng và chất lượng tín dụng, cũng như sự cần thiết của hoạt động tín dụng.


Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
1
2
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Trên cơ sở đó để đưa ra một số các giải pháp mang tính khả thi giúp nâng cao hoạt
động tín dụng tại Quỹ tín dụng Trung Ương - Chi nhánh Thái Bình.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng tại Quỹ tín
dụng Nhân dân Trung Ương – Chi nhánh Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu nghiệp vụ tín dụng và đề xuất các
giải pháp trong phạm vi áp dụng tại Quỹ tín dụng Nhân dân Trung Ương – Chi
nhánh Thái Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Chuyên đề sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem
xét các sự vật hiện tượng; phương pháp phân tích số liệu thực tế và vận dụng các lý luận
vào thực tiễn để giải thích nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
5. Kết cấu của chuyên đề.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của các TCTD.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân Trung
Ương - Chi nhánh Thái Bình.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Quỹ tín dụng
nhân dân Trung Ương - Chi nhánh Thái Bình.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
2
3
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA TCTD
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG

1.1.1. Khái niệm
Tín dụng (Credit) xuất phát từ gốc La tinh Credo, có nghĩa là một sự tin tưởng
tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin.
Có thể định nghĩa quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là
quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện
vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về
một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng nhưng tựu chung lại đều có
3 nội dung hay đặc trưng sau:
- Thứ nhất: Là quan hệ chuyển nhượng một lượng giá trị mang tính chất tạm
thời. Đối tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc hiện vật. Tính chất tạm
thời của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Nó là kết
quả của sự thỏa thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm
bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó. Sự
thiếu phù hợp của thời gian chuyển nhượng này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi tài
chính và hoạt động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến những rủi ro, những nguy
cơ phá hủy quan hệ tín dụng. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển
nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian
nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
- Thứ hai: Tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả
đúng hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: Gốc và lãi. Phần lãi
đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch này
là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời. Nói cách khác, nó là giá trả cho sự hy
sinh quyền sử dụng vốn hiện tại của người sở hữu vì thế nó phải đủ hấp dẫn để
người sở hữu có thể sẵn sàng hy sinh quyền sử dụng đó.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
3
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Thứ ba: Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và

người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.
Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi
vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa
người đi vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan hệ tín
dụng. Cơ sở của sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay, do giá trị tài sản
bảo đảm và do sự bảo lãnh của người thứ ba.
Cơ sở khách quan của sự ra đời quan hệ tín dụng là: Cùng một lúc có những
chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn, trong khi các chủ thể kinh tế khác
lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Hành vi tín dụng như vậy có thể được diễn ra trực
tiếp giữa bên thừa vốn cần đầu tư với bên cần vốn để sử dụng. Nhưng trên thực tế
hai bên này khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian, không gian;
hoặc nếu có thể phù hợp được thì phải tốn nhiều chi phí. Do đó, xuất hiện một bên
thứ ba đứng ra tập trung được vốn của số đông những người tạm thời dư thừa vốn,
cần đầu tư kiếm lãi, sau đó đem số vốn này phân phối cho những chủ thể kinh tế
thiếu hụt, có nhu cầu về vốn dưới hình thức cho vay, cho thuê tài chính. Bên thứ ba
đó chính là các tổ chức tín dụng.
1.1.2. Vai trò của tín dụng
 Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Nhờ đó mà các chủ
thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thỏa mãn nhu cầu
đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho
các chủ thể kinh doanh.
Nhờ có tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động cho
các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không
phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp cho các
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
4

5
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của
xã hội.
Các nguồn tín dụng được cung ứng luôn đi kèm với các điều kiện tín dụng để
hạn chế rủi ro và với áp lực phải trả cả gốc và lãi vay buộc người đi vay phải quan
tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn, đến khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế
trong hoạt động kinh doanh.
 Tín dụng là kênh truyền tải tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh
tế và tạo công ăn việc làm. Tín dụng trở thành một công cụ quan trọng để Nhà nước
thực hiện các mục tiêu vĩ mô này. Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều
kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận
động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu và tổng cung của
nền kinh tế cả về quy mô và kết cấu, đồng thời cũng ảnh hưởng tới các điều kiện
sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động
của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết.
 Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
Thông qua các hình thức tín dụng ưu đãi như tín dụng cho người nghèo với lãi
suất thấp, tín dụng đối với các đối tượng chính sách khác… sẽ góp phần nâng cao
điều kiện sống và tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế của các đối tượng này. Khi sử
dụng vốn tín dụng ưu đãi, các đối tượng chính sách này buộc phải quan tâm đến
hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn, kết hợp với các ưu đãi có
được, điều kiện tài chính của họ sẽ được cải thiện, từng bước dần có thể độc lập với
nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích chính của việc sử dụng phương thức tài trợ
các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.1.3. Phân loại tín dụng
1.1.3.1. Dựa vào thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn: Là các khoản vay có thời hạn cho vay tới 12 tháng, được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động cho các doanh nghiệp, các nhu cầu chi

tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
5
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Cho vay trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng, được sử dụng để đầu tư mua sắm các tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 5 năm trở lên và
thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến
40 năm. Đây là loại hình tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn
như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng
các xí nghiệp mới.
1.1.3.2. Dựa vào mục đích sử dụng vốn
- Cho vay mua bán bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp: Là loại cho vay
ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc lao động, nhiên liệu…
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm vật dụng, trang trải các chi phí thông thường của đời sống.
- Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu: Bao gồm hỗ trợ về tài chính cùng với
thủ tục giấy tờ liên quan để doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ
của mình trong hợp đồng mua bán hàng hoá.
1.1.3.3. Dựa vào phương thức cho vay
- Cho vay từng lần: Phương pháp cho vay mà mỗi lần vay khách hàng và ngân

hàng đều phải làm các thủ tục (Khách hàng lập kế hoạch vay vốn, ngân hàng xét
duyệt cho vay ) và ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương pháp cho vay mà TCTD ( Tổ
chức tín dụng) và khách hàng thoả thuận xác định một hạn mức tín dụng duy trì một
thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
6
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
một thời gian nhất định, được ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là loại tín dụng mà qua đó TCTD cho phép
khách hàng được sử dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài
khoản vãng lai với một số lượng và thời hạn nhất định.
1.1.3.4. Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
1.1.3.5. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay
- Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ, hay còn gọi là cho vay trả góp, là loại cho
vay khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Cho vay chỉ có một thời hạn trả nợ, hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần,
khi đáo hạn.
- Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ vào khả
năng tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
1.1.3.6. Dựa vào hình thái giá trị tín dụng
- Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền

- Cho vay bằng tài sản (hay cho thuê tài chính): Là hoạt động tín dụng trên cơ
sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là TCTD với khách hàng thuê. Khi
hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại theo các thoả thuận
trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ
hợp đồng.
1.1.3.7. Dựa vào xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: Là việc các tổ chức tín dụng cấp vốn trực tiếp cho người có
nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho các tổ chức tín dụng
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
7
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
1.2.1. Khái niệm
Trước đây, khái niệm chất lượng tín dụng chỉ được bó hẹp trong phạm trù an
toàn tín dụng. Điều đó có nghĩa là chất lượng tín dụng được đo lường bằng mức tổn
thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với mỗi khoản vay của ngân hàng. Một TCTD
được coi là có chất lượng tín dụng cao khi TCTD đó có ít các khoản vay xấu và
thiệt hại từ các khoản vay đó là thấp. Và một khoản tín dụng có chất lượng là khoản
tín dụng được hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng kỳ hạn cam kết.
Theo sự phát triển thì quan điểm về chất lượng tín dụng ngày càng thay đổi và
yêu cầu khắt khe hơn. Chất lượng tín dụng được xác định bằng tổng thể tất cả các
tiêu chí, cả trừu tượng lẫn cụ thể và việc đánh giá chúng cũng có sự linh động nhất
định. Có thể xem rằng: “Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách
hàng (cả người vay tiền lẫn người gửi tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã
hội và đảm bảo sự phát triển tồn tại của tổ chức tín dụng”.
Theo cách đó, trong hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở
sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước nói chung và của địa phương nói riêng, trên cơ sở thu hồi được
gốc và lãi đúng hạn như đã thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng để đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của tổ chức tín dụng.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế xã hội
Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ tín dụng cho ta thấy vai trò quan
trọng của nó trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển.
Cùng với sự sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển nhằm
cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch trong xã hội.
Trong điều kiện đó, nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề ngày càng được quan
tâm vì:
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
8
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Nâng cao chất lượng tín dụng để đưa hoạt động tín dụng thích nghi với điều
kiện kinh tế thị trường, phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường.
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để TCTD làm tốt chức năng trung
tâm thanh toán, vì khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín
dụng. Nó tạo điều kiện cho TCTD làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền
kinh tế quốc dân là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn
trong nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng vòng quay vốn, huy động tới
mức tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội để phục vụ quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa trong lưu
thông. Nó góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy
tín quốc gia. Đồng thời, thông qua các công trình đầu tư vốn phát huy tác dụng, tạo
ra những sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng tín dụng tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào

hoạt động TCTD theo xu hướng của thế giới, phương thức sản xuất áp dụng những
thành tựu của những nền công nghệ cao như công nghệ sinh học, thông tin, vật liệu,
năng lượng mới để nhanh chóng nâng cao chất lượng tín dụng thúc đẩy sản xuất ở
trong nước và hội nhập với hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.
- Nâng cao chất lượng tín dụng để có khả năng hợp tác cạnh tranh. Khi sản
xuất cùng phát triển, nhu cầu vốn để phục vụ phát triển kinh tế xã hội là rất lớn mà
mỗi TCTD riêng lẻ không thể đáp ứng được, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các
TCTD trong việc tài trợ cho khách hàng (đồng tài trợ hay tín dụng hợp vốn).
1.2.2.2. Đối với các tổ chức tín dụng
- Nâng cao chất lượng tín dụng tức là tăng khả năng quay vòng vốn tín dụng,
góp phần mở rộng được các hình thức dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như
mở rộng quy mô vốn tín dụng cho một khách hàng. Như vậy, không những duy trì
được mối quan hệ với những khách hàng truyền thống mà còn mở rộng, thu hút
thêm những khách hàng mới. Đó cũng là cách để các TCTD mở rộng thị trường,
nâng cao được lợi nhuận.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
9
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Chất lượng tín dụng nâng cao sẽ giảm được chi phí nghiệp vụ, chi phí quản
lý, và đặc biệt là giảm được những chi phí, thiệt hại rất lớn do không thu hồi được
khoản tín dụng. Như vậy, sẽ gia tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ
mà các TCTD cung cấp cho khách hàng, tăng thêm lợi nhuận cho TCTD đó.
1.2.2.3. Đối với khách hàng
- Chất lượng tín dụng cao sẽ tạo điều kiện cho TCTD mở rộng thị trường,
cung cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách
hàng. Đồng thời đảm bảo cho khoản tiền gửi của khách hàng được an toàn.
- Chất lượng tín dụng được đảm bảo có nghĩa là TCTD phải thường xuyên tiến
hành việc kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng. Thông qua
đó, cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt

động tài chính và kinh doanh của khách hàng. Do vậy, việc nâng cao chất lượng tín
dụng góp phần phát triển chất lượng sản xuất kinh doanh cũng như làm lành mạnh
hoá tình hình tài chính của khách hàng.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.2.3.1. Các nhân tố khách quan
 Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp mà tác động gián tiếp đến chất
lượng tín dụng của các TCTD. Bởi đôi khi thiên tai, bão lũ, dịch bệnh… xảy ra bất
ngờ mà con người không thể lường trước được làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Đôi khi có thể làm sụp đổ cơ đồ
của một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ. Từ
đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng chi trả của người đi vay và dẫn đến chất
lượng tín dụng của TCTD bị hạ thấp.
 Môi trường chính trị - xã hội
Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một tiêu chí quan trọng để ra
quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các doanh nghiệp sẽ
yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng TCTD sẽ tăng
lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ thu hẹp sản xuất để bảo
toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn cho vay dự án cũng giảm sút theo.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
10
11
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
 Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới
chất lượng tín dụng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì chất lượng của các
khoản tín dụng sẽ được nâng cao. Ngược lại, sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì
sẽ làm cho chất lượng các khoản tín dụng xấu đi ngoài ý muốn.
Nước ta đang trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới. Do vậy chính
sách và cơ chế vĩ mô của Nhà nước liên tục có sự điều chỉnh, đổi mới. Đồng thời,

SXKD trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu và nhập lậu. Vì thế
các doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án SXKD không kịp với sự
thay đổi của cơ chế và chính sách. Dẫn đến không ít các DN đã gặp khó khăn, hàng
hóa tồn kho, vốn thì bị ứ đọng, mất khả năng thanh toán cho các khoản vay làm
phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi. Do đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của
các TCTD.
 Môi trường pháp lý
Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà Nước, pháp luật có vai trò
quan trọng, là một hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng
thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, của các cá nhân.
Nhân tố pháp lý ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là sự đồng bộ của hệ
thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật và ý thức tôn
trọng chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật
Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt
động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh,
phát huy vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì hoạt động tín
dụng được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng.
Những quy định pháp luật về tín dụng phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát
triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó kích thích hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn.
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan
 Các nhân tố thuộc về khách hàng
Bản chất kinh doanh của khách hàng luôn ẩn chứa những rủi ro, có thể do chủ
quan hay do một số nguyên nhân không thể kiểm soát được, khi các phương án kinh
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
11
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
doanh được TCTD tài trợ gặp khó khăn thì khả năng thanh toán nợ cho TCTD bị đe
dọa. Khó khăn tạm thời về dòng tiền của khách hàng làm chậm trễ kỳ thanh toán nợ
sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch thanh khoản của TCTD. Trầm trọng hơn, khi kinh doanh

bị mất vốn, khách hàng không thể trả nợ gây ra các khoản nợ khó đòi cho TCTD.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra khi khách hàng cố tình vi phạm
cam kết với TCTD. Nguyên tắc tín nhiệm trong quan hệ tín dụng bị cố ý phá bỏ nếu
đạo đức của khách hàng và các ràng buộc chưa được quan tâm đúng mức.
 Các nhân tố thuộc về bản thân TCTD
Chính sách tín dụng : Là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của TCTD. Bên
cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển của Nhà nước thì chính sách tín
dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay
và quyền lợi của chính bản thân TCTD. Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công
bằng, không những phải đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD mà còn phải
đảm bảo đủ sức hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ,
thống nhất và đầy đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín
dụng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ
tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không
đúng đối tượng tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế,
dẫn đến rủi ro tín dụng.
Công tác tổ chức bộ máy hoạt động của tổ chức tín dụng: Công tác tổ chức
không chỉ tác động tới chất lượng tín dụng mà còn tác động tới mọi hoạt động của
TCTD. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ làm ảnh hưởng tới thời gian ra
quyết định đối với món vay, không đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng,
không theo dõi sát sao được công việc.
Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong
quản lý vốn tín dụng nói riêng cũng như trong hoạt động của TCTD nói chung. Việc
tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết
với nghề, giỏi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc
biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có liên
quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin vay, đánh giá
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
12
13

Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay đến khi thu hồi được
nợ hoặc xử lý xong món nợ theo quy định của TCTD…sẽ giúp cho TCTD có thể
ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của
một khoản tín dụng. Tuy nhiên đối với những cán bộ không được đào tạo đầy đủ,
không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ, trong khi TCTD không
có đủ các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vài trò vị trí
của doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ,
vòng đời sản phẩm… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xin vay làm rủi
ro tín dụng của TCTD, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Quy trình tín dụng: Là những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho
vay, thu nợ nhằm bảo đảm an toàn cho vốn tín dụng. Nó được bắt đầu kể từ khi lập
hồ sơ tín dụng, thẩm định tín dụng, chuẩn bị cho vay, giải ngân, giám sát quá trình
cho vay và kết thúc là giai đoạn thu hồi khoản vay. Chất lượng tín dụng tốt hay
không là phụ thuộc vào sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bước trong quy
trình tín dụng.
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào công tác thẩm định tín dụng trong
quy trình tín dụng. Nếu công tác thẩm định dự án đưa ra những kết luận sai lầm, đó
là đồng ý cấp tín dụng cho những khách hàng không có khả năng hoàn trả lại hoặc
có ý định lừa đảo TCTD, hay là những quyết định không đồng ý cấp tín dụng cho
những khách hàng có phương án làm ăn hiệu quả.
Sau quá trình giải ngân cho khách hàng, các TCTD đều liên tục kiểm tra, giám
sát tình hình của số tiền đã cấp được sử dụng như thế nào. Nếu việc giám sát là sát
sao thì TCTD có thể phát hiện kịp thời những rủi ro để từ đó đưa ra những điều
chỉnh, can thiệp cần thiết.
Một TCTD muốn tồn tại thì ngoài việc thu được các khoản lãi thì điều quan
trọng hơn là phải thu về đầy đủ khoản nợ gốc. Nếu TCTD có những biện pháp xử lý
nợ chính xác, nhanh chóng sẽ giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra và hạn chế đến
mức thấp nhất thiệt hại khi rủi ro tín dụng xảy đến, qua đó chất lượng tín dụng ngắn
hạn sẽ nâng cao.

Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
13
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Hệ thống thông tin tín dụng: Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện
nay thông tin trở thành một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Trong cạnh tranh ai nắm được thông tin trước là người có khả năng dành chiến
thắng lớn hơn. Đối với hoạt động tín dụng thì thông tin là một yếu tố hết sức cần
thiết để xem xét, quyết định cho vay hay không cho vay. Đồng thời để theo dõi,
quản lý khoản cho vay với mục đích đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vốn
cho vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công tác tín
dụng của TCTD càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế ở mức thấp
nhất có thể, chất lượng tín dụng được nâng cao hơn.
Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng: Kiểm soát hoạt động tín dụng
là công việc cần thiết đối với mỗi TCTD, công tác kiểm tra càng thường xuyên,
càng chặt chẽ, càng giúp cho hoạt động tín dụng đạt được hiệu quả cao. Thông qua
việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng sẽ được kịp thời phát hiện ra
những sai sót, để có thể kịp thời khắc phục và sữa chữa.
Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Tăng cường đổi mới trang thiết
bị, nâng cấp máy móc tin học công nghệ là đòn bẩy của sự phát triển, là điều kiện
để mỗi TCTD hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Hiện đại hoá công nghệ
nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu quản lý và tăng cường cạnh
tranh để có thị phần khách hàng lớn trong hệ thống TCTD quốc gia.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá định tính
Có thể nói thước đo chất lượng tín dụng của một TCTD chính là sự hài lòng
của khách hàng, đồng thời TCTD cũng phải đảm bảo hài hoà với an toàn và đạt hiệu
quả tín dụng cao nhất.
 Trước hết, chất lượng tín dụng của TCTD phụ thuộc vào uy tín của TCTD đó. Nếu
một TCTD có uy tín thì sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn. Chất

lượng tín dụng còn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng,
làm hài lòng khách hàng bằng việc rút ngắn quy trình, thủ tục cho vay, đảm bảo
cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời và an toàn. Nhờ đó khách hàng sẽ tiết kiệm
được thời gian, chi phí đi lại. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những yêu cầu ban đầu, trong
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
14
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay đang không ngừng phát triển cùng với sự hội
nhập kinh tế quốc tế nên sự cạnh tranh giữa các TCTD ngày càng trở nên gay gắt,
đòi hỏi các TCTD cần phải có những chuyển biến trong hoạt động kinh doanh đa
đạng hơn, năng động hơn nữa thì mới có thể thích nghi với sự thay đổi của môi
trường trong nước và ngoài nước.
 Thứ hai, để có chất lượng tín dụng tốt thì phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
TCTD. Nói cách khác hoạt động tín dụng phải mang lại cho TCTD thu nhập đủ
trang trải các chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro. Một
khoản tín dụng có thể coi là hiệu quả khi các nguyên tắc cho vay được tuân thủ triệt
để: Sử dụng vốn vay đúng mục đích có hiệu quả kinh tế cao, hoàn trả nợ gốc và lãi
đúng hạn. Việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín dụng vừa là điều kiện cần vừa
là những biểu hiện cho thấy chất lượng tín dụng tốt. Sử dụng vốn vay đúng mục
đích là một trong những điều kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của TCTD.
 Thứ ba, hoạt động tín dụng phải đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của kinh
tế- xã hội của vùng, địa phương và đất nước.
Tóm lại, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan
điểm của cả ba chủ thể: TCTD, Khách hàng và Môi trường kinh tế- xã hội. Các chỉ tiêu
định tính chỉ là căn cứ đánh giá chất lượng tín dụng một cách khái quát. Để có những
kết luận chính xác hơn nữa cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ
thể bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến kết quả hoạt động cho vay của TCTD.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá định lượng
 Quy mô kết cấu nguồn vốn huy động

Quy mô kết cấu nguồn vốn huy động là số lượng vốn mà TCTD huy động
được tại thời điểm xem xét đánh giá. Kết cấu nguồn vốn huy động là tỷ trọng vốn
huy động chia theo thời gian, lãi suất, đơn vị tiền tệ…trong tổng nguồn vốn huy
động. Việc tập trung nguồn vốn lớn, kết cấu hợp lý về thời hạn, lãi suất, đơn vị tiền
tệ sẽ đảm bảo cho mỗi TCTD có khả năng tự chủ về vốn, lãi suất, có khả năng mở
rộng đầu tư tín dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Chính vì vậy, đây
là chỉ tiêu gián tiếp đánh giá chất lượng tín dụng.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
15
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
 Doanh số cho vay
Doanh số cho vay là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà TCTD đã
phát ra cho vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể món cho vay đó đã
thu hồi hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quý, năm,
chủ yếu là năm.
Doanh số cho vay cho thấy được khả năng hoạt động cho vay qua các năm, do
đó có thể thấy được khả năng mở rộng cho vay. Thêm vào đó nếu biết được doanh
số cho vay của nhiều thời kỳ cũng thấy được phần nào xu hướng hoạt động cho vay.
Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, còn tốc
độ tăng doanh số cho vay thể hiện khả năng mở rộng quy mô cho vay các thời kỳ,
doanh số cho vay lớn và tốc độ tăng nhanh cho thấy khả năng mở rộng tín dụng cho
vay của TCTD là rất tốt. Tuy nhiên như trên đã phân tích đó mới chỉ là điều kiện
cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để khẳng định hiệu quả hoạt động tín dụng mà
còn kết hợp xem xét tổng hợp các chỉ tiêu khác.
 Doanh số thu nợ
Doanh số thu nợ là toàn bộ các món nợ mà TCTD đã thu về từ khoản cho vay
của TCTD kể cả của kỳ hiện tại và kỳ trước đó. Qua chỉ tiêu này ta có thể thấy được
các khoản nợ mới phát sinh và các khoản nợ của thời kỳ trước. Từ đó cũng cho ta
thấy được khả năng thu nợ ở kỳ tiếp theo. Đồng thời cho biết TCTD làm ăn có hiệu

quả hay không, các khoản vay có an toàn hay không, các cá nhân hay hộ gia đình có
sử dụng vốn hiệu quả và đúng mục đích các khoản vay hay không?
 Hệ số thu nợ
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ =
Doanh số cho vay
Hệ số này thể hiện mối quan hệ giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ, từ
đó có thể biết được tổng doanh số cho vay trong kỳ để cho biết TCTD đã thu được
bao nhiêu nợ. Qua đó thể hiện hiệu quả của hoạt động tín dụng.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
16
17
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
 Dư nợ và kết cấu dư nợ
Dư nợ là tổng số dư qua các hình thức cấp tín dụng mà khách hàng còn nợ lại
TCTD tại một thời điểm. Kết cấu dư nợ là tổng số nợ được phân chia theo tỷ lệ các
hình thức cấp tín dụng, theo thời hạn cho vay, theo đơn vị tiền tệ, theo ngành hoặc
theo thành phần kinh tế…Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng của TCTD cho
nền kinh tế theo số dư mà tại một thời điểm. So sánh dư nợ với thị phần tín dụng
của TCTD cho ta biết dư nợ của TCTD là cao hay thấp. Trên thực tế, thị phần tín
dụng của một TCTD thường phản ánh số lượng khách hàng trung thành, uy tín của
TCTD, sự tác động của TCTD đối với địa phương và nền kinh tế… Do đó, nếu thị
phần tín dụng của TCTD cao thì tương xứng với nó phải là dư nợ lớn.
 Vòng quay vốn tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các TCTD tính toán hàng năm để đánh giá khả
năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
Vòng quay vốn tín dụng được tính trên cơ sở doanh số thu nợ bình quân và dư
nợ bình quân.
Doanh số thu nợ

Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín
dụng càng cao chứng tỏ nguốn vốn vay đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng
quay vốn tín dụng nhanh nên TCTD đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh
nghiệp, mặt khác TCTD có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy,
hệ số này càng tăng phản ánh tình hình quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín
dụng càng cao. Ngược lại, vòng quay vốn tín dụng thấp thể hiện vốn tín dụng luân
chuyển chậm, hiệu quả vốn tín dụng thấp.
 Hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn có thể được tính tại một thời điểm nhất định hoặc tính
bình quân cho cả năm theo công thức.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
17
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng vốn huy động
Hiệu suất sử dụng vốn là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với
khả năng đáp ứng của bản thân TCTD cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa.
Trên cơ sở đó, các TCTD có thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ
đó, có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để
vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay, vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có thể.
 Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi
người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho TCTD đúng hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa tổng dư nợ quá hạn trong tổng dư nợ
của TCTD ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.

Tổng dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ×100%
Tổng dư nợ
NQH là chỉ tiêu định lượng cơ bản và quan trọng nhất để xem xét, đánh giá
chất lượng tín dụng của một TCTD. Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do
đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi
một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính
đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường.
Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề có khả năng
mất vốn. Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì TCTD càng gặp khó khăn trong
kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận,
tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp. Do vậy, trong hoạt
động tín dụng các TCTD cần cố gắng để ngăn chặn NQH xảy ra.
Để thuận lợi cho công tác phân tích chất lượng tín dụng, cũng như để phục vụ
tốt cho công tác quản lý chất lượng tín dụng và rủi ro tín dụng, các nhà quản trị
thường phân loại nợ theo đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Theo quyết định
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
18
19
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
số 493/QĐ- NHNN ngày 22/4/2005 quy định các TCTD thực hiện phân loại nợ
thành 5 nhóm nợ, cụ thể như sau:
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn được tổ chức
tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày, các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180
ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360

ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Trong năm nhóm nợ trên, NQH là các khoản nợ được phân vào loại từ nhóm 2
đến nhóm 5 và nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Đồng thời tỷ lệ nợ xấu
trong tổng dư nợ vào khoảng từ 2%-5% là một tỷ lệ chấp nhận được, NQH từ 6-12
tháng là nợ có vấn đề. Nợ trên 12 tháng được gọi là nợ khó đòi.
 Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Nói đến chất lượng tín dụng không thể không nói đến chỉ tiêu thu nhập từ hoạt
động tín dụng. Vì như đã nói hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập chủ
yếu để TCTD tồn tại và phát triển.
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng được tính bằng lãi từ hoạt động cho
vay trên tổng thu nhập.
Lãi từ hoạt động tín dụng
Thu nhập từ hoạt động tín dụng =
Tổng thu nhập
Tỷ trọng thu nhập là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín
dụng, nó cho biết tỷ lệ phát sinh từ hoạt động cho vay trên một đơn vị thu nhập là
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
19
20
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
bao nhiêu. Với cùng một mức thu nhập, nếu TCTD nào càng giảm được chi phí đầu
vào thì tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ TCTD hoạt động tốt. Đồng thời, ta thấy rằng nếu
các TCTD chỉ chú trọng vào việc giảm và duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà
không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp cũng
không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó
góp phần nâng cao khả năng sinh lời của TCTD.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của chuyên đề đã trình bày những cơ sở lý luận về tín dụng ngân
hàng, phân loại tín dụng, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng và sự cần thiết
phải nâng cao chất lượng tín dụng. Đây là những vấn đề mang tính chất cơ sở làm
nền tảng để đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của Quỹ tín dụng nhân dân
Trung Ương – Chi nhánh Thái Bình.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
20
21
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN
DÂN TRUNG ƯƠNG – CHI NHÁNH THÁI BÌNH
2.1. GIỚI THIỆU VỀ QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN TRUNG ƯƠNG
2.1.1. Quá trình ra đời và phát triển của Quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương
Quỹ tín dụng Trung ương được thành lập theo Quyết định số 390/QĐ-TTG
ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Triển khai đề án thí điểm thành
lập Quỹ tín dụng nhân dân”. Đến ngày 9/12/1994, Chính phủ có công văn số
6901/KTTH V/V thành lập Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương trong đó ghi rõ
“Việc thành lập một tổ chức cổ phần kinh doanh về tiền tệ, thực hiện theo quy định
tại Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Tên gọi của tổ
chức này là “Quỹ tín dụng Trung ương hay Ngân hàng Hợp tác xã…”. Căn cứ vào 2
văn bản trên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quyết định số 162/QĐ-
NH5 ngày 8/6/1995 về việc cho phép thành lập Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
và Quyết định số 200/QĐ-NH5 về việc cấp giấy phép hoạt động cho Quỹ tín dụng
nhân dân Trung ương với số vốn điều lệ ban đầu là 200 tỷ đồng, thời gian hoạt động
99 năm.
Thực hiện chỉ thị số 57/CT-TW của Bộ chính trị và Nghị định số 48/2001/NĐ
của Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
207/QĐ-NHNN về việc phê duyệt đề án mở rộng mạng lưới hoạt động của Quỹ tín

dụng nhân dân Trung ương, kết quả đến cuối năm 2001 đã hoàn thành việc sáp nhập
23 Quỹ tín dụng nhân dân khu vực vào Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương để trở
thành chi nhánh ở các tỉnh, thành phố như vậy Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân
trước đây từ 3 cấp chuyển thành 2 cấp: Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương và Quỹ
tín dụng nhân dân Cơ sở.
Hệ thống Quỹ tín dụng nhân nhân hiện nay gồm 1 Hội sở chính và 26 chi
nhánh, 1,057 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động tại 57 tỉnh, thành phố, thu hút
gần 1.7 triệu thành viên tham gia. Vốn điều lệ của Quỹ tín dụng Nhân dân Trung
ương đạt khoảng 1,720.96 tỷ trên tổng nguồn vốn là khoảng 13,616 tỷ đồng.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
21
22
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
2.1.2. Đôi nét về Quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương – Chi nhánh Thái Bình
Quá trình thí điểm thành lập Quỹ tín dụng Nhân dân (QTDND) từ năm 1994
đến năm 2000, cả nước đã thành lập được gần 900 QTDND cơ sở ở cấp xã, 21
QTDND Khu vực ở 21 tỉnh, thành phố và 1 Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
(QTDTW). Sau trên 6 năm hoạt động, mô hình QTDND 3 cấp bộc lộ những khuyết
tật, yếu kém; một số QTDND cơ sở hoạt động kém hiệu quả, quan hệ trong hệ
thống giữa QTDTW và QTDND cơ sở phải qua một trung gian là QTDND Khu vực
dẫn đến chồng chéo, nhiều tầng nấc làm cho hiệu quả hoạt động không hiệu quả,
cần phải có những biện pháp củng cố chấn chỉnh để hoạt động của cả hệ thống
QTDND được tốt hơn.
Ngày 10/10/2000, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 57-CT/TW về củng cố,
hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND, theo đó hệ thống QTDND được chuyển
từ mô hình 3 cấp sang mô hình 2 cấp: QTDND Trung ương và QTDND cơ sở. Ngày
20/3/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Quyết định số
207/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án mở rộng mạng lưới hoạt động của QTDTW, theo
đó các QTDND Khu vực được giải thể và sáp nhập vào QTDTW trở thành Chi
nhánh của QTDTW.

QTDND Khu vực tỉnh Thái Bình (thành lập tháng 4/1996) được sáp nhập
vào QTDTW trở thành Chi nhánh của QTDTW với tên gọi QTDTW Chi nhánh
Thái Bình theo Quyết định thành lập số 620/QĐ-QTDTW ngày 23/7/2001 của Chủ
tịch Hội đồng quản trị QTDTW.
Khi bàn giao sáp nhập, QTD Khu vực tỉnh có 13 cán bộ nhân viên, 2 đ/c
Giám đốc và Phó Giám đốc được nghỉ chế độ, còn lại 11 cán bộ được bàn giao toàn
bộ cho QTDTW, với mô hình tổ chức gồm 2 phòng nghiệp vụ là phòng Kế toán
ngân quỹ , phòng tín dụng và bộ phận Hành chính nhân sự. Tổng nguồn vốn hoạt
động là 18,478 triệu đồng.
QTDND Trung ương Chi nhánh Thái Bình khai trương hoạt động ngày
01/9/2001. Trụ sở của Chi nhánh Thái Bình đặt tại Phố Trần Phú Thành phố Thái
Bình.
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
22
23
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Hiện nay, Chi nhánh đã mở thêm 3 phòng giao dịch trên địa bàn tỉnh Thái
Bình bao gồm: Phòng giao dịch số 1(TP Thái Bình) , Phòng giao dịch Đông Hưng,
Phòng giao dịch Vũ Thư.
Tổng nguồn vốn hiện nay là 629.923 tỷ đồng. Đến cuối năm 2012, chi nhánh
đã đạt được số dư huy động vốn là 446.63 tỷ đồng; dư nợ cho vay là 421.948 tỷ
đồng. Số cán bộ trong chi nhánh hiện nay là 41 người với mô hình tổ chức ngày một
hoàn thiện: Ban giám đốc, Phòng Hành chính nhân sự, Phòng Kinh doanh, Phòng
Kế toán - Ngân quỹ, Phòng Kiểm tra nội bộ, 3 Phòng giao dịch.
Với những nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên, đến nay chi nhánh đã đạt
được những kết quả đáng mừng trong cả công tác tổ chức và hoạt động kinh doanh
nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng.
2.2. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA QTDTW CHI
NHÁNH THÁI BÌNH
2.2.1. Công tác huy động vốn

Ý thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, ngay từ khi mới
thành lập, QTDTW Chi nhánh Thái Bình đã rất quan tâm đến việc huy động vốn.
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay có một số lượng lớn chưa từng có các TCTD
thuộc các loại hình khác nhau cùng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và cạnh tranh
quyết liệt, điều đó đòi hỏi Chi nhánh phải nỗ lực phấn đấu nhằm thu hút một khối
lượng vốn lớn để đảm bảo cho nhu cầu đầu tư mở rộng tín dụng trên địa bàn. Đồng
thời, tạo ra một nền tảng vững chắc cho QTD có thể ổn định và phát triển.
Hiện nay, Thái Bình là một tỉnh có tốc độ tăng trưởng tương đối tốt các khu
công nghiệp đang được mở rộng và phát triển, việc sản xuất hàng hoá ở các làng
nghề đang trong quá trình khôi phục. Đồng thời, các hộ sản xuất, các công ty, doanh
nghiệp đã đầu tư lớn vào máy móc thiết bị dây truyền sản xuất hiện đại để tạo ra
những sản phẩm có chất lượng cao với giá thành, mẫu mã phù hợp với thị trường.
Từ đó, tạo ra một nhu cầu vốn rất lớn trong nền kinh tế.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại QTDTW – Chi nhánh Thái Bình
(đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
23
24
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tổng nguồn vốn huy động 278.137 398.786 446.630
Tăng trưởng so với năm trước -10.92% 43.38% 11.99%
(nguồn: báo cáo công tác tín dụng của QTDTW chi nhánh Thái Bình 2010-2012)
Biểu 1: Nguồn vốn huy động qua các năm
(đơn vị: tỷ đồng)
Số liệu thống kê trên cho thấy tình hình huy động vốn của Quỹ tăng trưởng
khá tốt qua các năm, sự sụt giảm tỷ trọng trong năm 2010 có thể lý giải do những
khó khăn của nền kinh tế, áp lực lạm phát, cạnh tranh gay gắt với các TCTD khác
cùng với sự tăng giá đột ngột của Vàng. Ngoài ra việc ban hành cơ chế lãi suất thỏa
thuận trong thông tư 07 của NHNN đã khiến cho tình hình huy động vốn của chi

nhánh gặp không ít khó khăn. Tuy vậy trong năm 2011, mặc dù các áp lực trên
không hề giảm,thậm chí còn tăng thêm khó khăn khi Ngân hàng Nhà nước ban hành
quy định về trần lãi suất huy động nhưng tình hình huy động vốn của Quỹ lại có
những tiến triển tốt, cụ thể là năm 2011 tỷ trọng tăng trưởng huy động vốn của Quỹ
đạt đến 43.38% so với năm trước. Năm 2012 mặc dù gặp phải nhiều khó khăn thách
thức nhưng Quỹ đã hoàn thành tốt chỉ tiêu đề ra, nguồn vốn huy động lên đến
446.630 tỷ đồng, tăng 11.99% so với năm trước.
2.2.2. Tình hình sử dụng vốn
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
24
25
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Cùng với hoạt động huy động huy động vốn, hoạt động cho vay cũng là một
hoạt động quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Chi
nhánh. Với lượng vốn huy động được Chi nhánh đã áp dụng nhiều hình thức tín
dụng đa dạng và phong phú phù hợp với mỗi loại khách hàng như cho vay ngắn
hạn, trung và dài hạn. Việc thu hút khách hàng vay vốn được gắn liền với thu hút
khách hàng mở tài khoản tiền gửi và thiết lập mối quan hệ lâu dài.
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ của QTDTW – Chi nhánh Thái Bình
(đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2010 2011 2012
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ

trọng
Tổng dư nợ cho vay 341.917 100% 378.199 100% 421.948 100%
I. Phân theo thời gian
1. Cho vay ngắn hạn 280.988 82.18% 300.772 79.52% 319.161 75.64%
2. Cho vay trung, dài
hạn
60.929 17.82% 77.427 20.47% 102.787 24.36%
II. Phân theo đối
tượng
1. Cho vay QTD
thành viên
247.941 72.51% 286.168 75.67% 333.001 78.92%
2. Cho vay các thành
phần kinh tế
93.976 27.49 92.031 24.33% 88.947 21.08%
(nguồn: bảng cân đối kế toán năm 2010-2012)
Biểu 2: Tình hình dư nợ qua các năm(đơn vị: tỷ đồng)
Qua bảng số liệu trên ta thấy 3 năm qua hoạt động tín dụng tăng trưởng tăng
đều. Năm 2011 tăng 36,341 tỷ đồng tương đương 10,61% và năm 2012 tăng 43.749
tỷ đồng tương đương 11.57% so với năm trước. Hoạt động tín dụng là 1 trong 2
hoạt động quan trọng nhất của TCTD, số dư cho vay của chi nhánh tuy chưa thật sự
Nguyễn Thành Công LTĐH8- NHB
25

×