Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.24 KB, 82 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh
của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả là tiền đề
để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bố và sử dụng hiệu quả, kích
thích tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và tạo công ăn việc làm.
Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường thì rủi ro là không thể tránh khỏi. Đặc biệt
ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt – đó là
tiền tệ nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do
tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ về vốn giữa các
ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng gặp rủi ro thì sẽ gây hiệu ứng dây
truyền lan tỏa trong toàn hệ thống ngân hàng. Khi hệ thống ngân hàng mà gặp
rủi ro thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của một nước và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế. Chính vì vậy, công tác
quản trị ngân hàng thương mại càng trở nên bức thiết.
Hiện trạng về quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
thì rủi ro tín dụng thường được các ngân hàng quan tâm nhiều vì đây là hoạt
động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, trong khi đó rủi ro
về thanh khoản – một vấn đề rất đáng lo ngại lại chưa được quan tâm đúng mức.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý ngân hàng càn thực
hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng có khả
năng thanh khoản tốt, hay nói cách khác là ngân hàng không gặp rủi ro thanh
khoản khi luôn có được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng thời
điểm mà ngân hàng cần. Điều này có nghĩa nếu ngân hàng không có đủ nguồn
vốn cần thiết để đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường sẽ có thể mất khả năng
thanh toán, mất uy tín và dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống.
Sau cuộc khủng tài chính về cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ ( bộc lộ
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
1
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng


rõ nhất trong 2 năm 2007 và 2008 ) – biểu hiện rõ nhất ở tính thanh khoản
trên hệ thống ngân hàng và tín dụng toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam nói chung
và hệ thống ngân hàng nói riêng đã rút ra được rất nhiều bài học trong đó có
bài học về thanh khoản. Trong cuộc khủng hoảng đó, nhiều ngân hàng, tổ
chức tài chính ở Mỹ mất khả năng thanh khoản đã phải làm đơn phá sản hoặc
sáp nhập ( Lehman Brothers tuyên bố phá sản là một vụ phá sản lớn nhất
trong lịch sử Hoa Kỳ, FED đã cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này
tránh phá sản, Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 1,1 tỷ đô la
… ). Sau sự kiện đó, quản trị thanh khoản được đặt lên hàng đầu ở các ngân
hàng, thậm chí có những trường hợp làm mọi cách để chóng đỡ khi khó khăn.
Trong những tháng đầu năm 2011, hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam luôn gặp phải vấn đề về thanh khoản, đặc biệt là các ngân hàng thương
mại cổ phần nhỏ. Điều đó dẫn đến việc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất trần huy động là
14%/năm, nhưng lãi suất huy động có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại
lên tới 17 – 19%/năm, kéo theo lãi suất cho vay tăng lên 22 – 23%/năm. Có
nhiều ngân hàng không gặp phải vấn đề về thanh khoản cũng tăng lãi suất chỉ
để giữ chân khách hàng của mình. Việc lãi suất tăng cao sẽ gây ra tác động
xấu đến nền kinh tế, dẫn đến những rủi ro cao. Do đó việc quản trị rủi ro
thanh khoản tại các ngân hàng là một việc rất cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, cùng với quá trình học tập tại Học
viện Ngân hàng và thời gian nghiên cứu, em đã lựa chọn đề tài : “ Quản trị
rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp ”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về rủi ro thanh khoản và quản trị
rủi ro thanh khoản trong hoạt động ngân hàng thương mại.
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
2
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng

- Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam.
- Đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro
thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Hoạt động quản tri rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh
tế, phân tích tổng hợp và so sánh, từ đó vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải
thích nguyên nhân và đưa ra các giải pháp thích hợp.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của khóa luận được trình
bày trong 3 chương :
Chương 1: Tổng quan về quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro
thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
3
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỂ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính đóng vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Ngân

hàng thương mại là loại hình ngân hàng giao dịch trực tiếp với các tổ chức
kinh tế và cá nhân thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi
sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh
toán và dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng có
số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua vào ngày 16 tháng 6 năm
2010: “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này ” ( Khoản 2 Điều 4 ), “
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật
này nhằm mục tiêu lợi nhuận ” ( Khoản 3 Điều 4 ). Luật này còn xác định: “
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động ngân hàng ” ( Khoản 1 Điều 4 ), và “ Hoạt động ngân hàng là việc kinh
doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: nhận
tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản ” ( Khoản
12 Điều 4 ).
Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức trung gian tài
chính khác là ở chỗ ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi,
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
4
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính vì hoạt động đó đã tạo cơ hội cho
ngân hàng thương mại có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong
hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt ngân hàng
thương mại với các ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng khác.
Như vậy, ngân hàng thương mại là một định chế trung gian tài chính
quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế trung gian tài
chính này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội được huy động,
tập trung lại, đồng thời số vốn đó được sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ

chức kinh tế và cá nhân với mục đích phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát
triển, ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản: chức năng trung gian tín
dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền.
 Chức năng trung gian tín dụng: Ngân hàng thương mại đóng vai trò
trung gian trong việc tập trung, huy động các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế, bao gồm: tiền gửi, tiền tiết kiệm của dân cư, vốn bằng tiền
của các đơn vị, tổ chức kinh tế; biến khoản vốn huy động được thành nguồn
vốn tín dụng để cho vay ( cấp tín dụng ), đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh,
vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội.
 Chức năng trung gian thanh toán: Ngân hàng thương mại đứng ra làm
trung gian thanh toán để thực hiện các giao dịch giữa người mua và người
bán, giữa các khách hàng với nhau nhằm hoàn tất các quan hệ kinh tế thương
mại của các đối tượng nêu trên.
 Chức năng tạo tiền: Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt
động ngân hàng. Từ một khoản tiền gửi của khách hàng, sau khi đã để lại một
khoản dự trữ bắt buộc, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống
ngân hàng thương mại, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
5
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
ban đầu. Với vòng quay của vốn thông qua chức năng trung gian tín dụng và
trung gian thanh toán của ngân hàng, ngân hàng thương mại thực hiện được
chức năng tạo tiền.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại
Với các chức năng của mình, ngân hàng thương mại giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế thể hiện qua các nội dung sau:
1.1.3.1. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Thực tế cho thấy, để phát triển các đơn vị kinh tế cần phải có một

lượng vốn lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động
khác. Nhưng để trực tiếp huy động vốn thì các đơn vị kinh tế gặp phải rất
nhiều khó khăn, do đó rất cần có một chủ thể đứng ra tập trung tiền nhàn rỗi
từ các chủ thể thừa vốn và kịp thời cung ứng vốn cho các chủ thể có nhu cầu
về vốn. Bằng việc nhận tiền gửi từ các chủ thể trong xã hội và các hoạt động
huy động vốn khác, ngân hàng thương mại có được một lượng vốn lớn có thể
đáp ứng các nhu cầu về vốn một cách kịp thời. Như vậy, khi có nhu cầu về
vốn, các chủ thể kinh tế không cần phải tốn thời gian và chi phí để tự huy
động vốn cho mình mà chỉ cần đến ngân hàng là có thể có được lượng vốn
cần thiết. Ngân hàng thương mại đã trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu
vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và
đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở
rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng
cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
1.1.3.2. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với
thị trường.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
6
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
thị trường, thỏa mãn nhu cầu thị trường về mọi phương diện: không chỉ giá
cả, khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi thỏa mãn trên phương diện thời
gian, địa diểm. Để có thể đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp
không những cần nâng cao chất lượng lao động, mà còn phải không ngừng cải
tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng
nguyên liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt
động này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn, nhiều khi vượt quá khả năng
của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp đến ngân

hàng để xin vay vốn, thỏa mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt
động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, ngân hàng đã trở thành cầu nối giữa
các doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng cấp cho
doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về
mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường và từ
đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.3.3. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là
công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động thanh
toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, ngân hàng thương mại đã góp phần
mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín
dụng cho nền kinh tế, ngân hàng thương mại đã thực hiện dẫn dắt các nguồn
tiền, tập hợp và phân phối vốn treen thị trường, điều khiển chúng một cách có
hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ quan
khác, ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan trọng để Nhà nước
điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế.
Khi Nhà nước muốn phát triển một ngành hay một vùng kinh tế nào đó
thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các ngân
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
7
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hàng thương mại luôn được sử dụng bằng cách Ngân hàng Nhà nước yêu cầu
các ngân hàng thương mại thực hiện chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng
vốn như: giảm lãi suất, kéo dài thời hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua
các ngân hàng thương mại nhà nước cấp vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất
định. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức, Nhà nước thông qua Ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để
giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế để
nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.

Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng thương mại
thường đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được Nhà nước sử dụng.
1.1.3.4. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với
nền tài chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ hàng hóa, tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc
gia trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết cấp bách. Việc phát triển kinh tế
ở các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là
một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi
quốc gia cũng cần phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng
thương mại với các hoạt động của mình đã đóng góp vai trò vô cùng quan
trọng trong sự hòa nhập này. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối
đoái và các nghiệp vụ khác, ngân hàng thương mại tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động ngoại thương phát triển. Thông qua hoạt động thanh toán, kinh
doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài,
ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước
phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Ngân hàng thương mại ra đời và ngày càng phát triển dựa trên cơ sở
nền sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển và nền kinh tế càng phát triển càng
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
8
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
cần đến sự hoạt động của ngân hàng thương mại. Với vai trò quan trọng của
mình, ngân hàng thương mại trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân.
1.1.4. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Nghiệp vụ Tài sản và vốn tự có của ngân hàng
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại, bao gồm các nghiệp vụ sau:
 Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi

từ các doanh nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản
tài sản mà từ đó ngân hàng thương mại có thể huy động và được sử dụng vào
kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá
nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Các
sản phẩm tiền gửi của ngân hàng rất phong phú và đa dạng cả về kỳ hạn lẫn
hình thức gửi tiền.
 Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các ngân hàng thương mại sử
dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn dài hạn, nhằm đảm bảo khả năng
đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp
vụ này còn giúp các ngân hàng thương mại tăng cường tính ổn định vốn trong
hoạt động kinh doanh của mình. Các giấy tờ có giá mà ngân hàng phát hành
thường là kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu ngân hàng.
 Nghiệp vụ đi vay: Đối với nghiệp vụ này, các ngân hàng thương
mại tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị
trường tiền tệ và vay ngân hàng Trung ương dưới các hình thức tái chiết khấu
hay vay có đảm bảo nhằm bổ sung vốn khả dụng cho ngân hàng mình
 Nghiệp vụ huy động vốn khác: Các ngân hàng thương mại có thể
tiến hành tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy thác vốn
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, thông qua việc sử
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
9
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
dụng các phương tiện trong thanh toán, đòi hỏi khách hàng phải ký gửi một
bộ phận tiền vào ngân hàng mà trên cơ sở đó các ngân hàng có thể sử dụng
những vốn nhàn rỗi trên tài khoản để đưa vào hoạt động kinh doanh.
 Vốn tự có của ngân hàng: Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các
ngân hàng. Trong thực tế, khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ hoạt
động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng
góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại, đồng thời góp phần vào nâng cao vị thế của ngân hàng thương

mại trên thương trường.
1.1.4.2. Nghiệp vụ Tài sản Có
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích
nhằm bảo đảm an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng
thương mại. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm:
 Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của
ngân hàng được dùng vào mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh
toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương đề
ra. Ngân quỹ của các ngân hàng thương mại bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền
gửi tại Ngân hàng Trung ương bao gồm cả tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi
thanh toán, tiền gửi tại các ngân hàng khác.
 Nghiệp vụ cho vay: Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính
trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này
bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua cho vay ngắn
hạn, trung hạn, dài hạn đối với nền kinh tế. Các sản phẩm cho vay của ngân
hàng cũng rất phong phú và đa dạng, đáp ứng được mọi nhu cầu vốn của nền
kinh tế.
 Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các ngân hàng thương mại thực hiện
quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
10
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
 Nghiệp vụ khác: Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: kinh
doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý, thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân
quỹ; nghiệp vụ ủy thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ
khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như: dịch vụ bảo quản hiện vật quý,
giấy tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của
pháp luật; mà các ngân hàng thu được những khoản lợi nhuận đáng kể.
1.1.4.3. Nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản

Những hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản liên quan đến việc: môi
giới mua bán những công cụ tài chính để tạo ra thu nhập nhờ các khoản phí và
chuyển nhượng những món vay.
Một dạng thứ hai của hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản ngân hàng
là nhờ bán các món cho vay.
Một dạng khác của những hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản ngân
hàng gồm việc tạo ra thu nhập nhờ những lệ phí mà các ngân hàng nhận được
khi cung cấp các dịch vụ chuyên môn hóa cho khách hàng của họ, ví dụ như:
thực hiện kinh doanh hối đoái nhân danh một khách hàng; đảm bảo các chứng
khoán vay nợ, ví dụ các hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, và cung ứng
những mức tín dụng hỗ trợ.
1.1.5. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ,
chính vì vậy mà các hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong
đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi
nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có
thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Có bốn loại rủi ro cơ bản trong kinh doanh ngân hàng, đó là:
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
11
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.5.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng
cấp tín dụng, là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện
đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng tín dụng vì bất kể lý do gì.
Có hai loại rủi ro tín dụng đó là rủi ro đọng vốn và rủi ro mất vốn. Rủi
ro động vốn xảy ra khi khách hàng không có khả năng hoàn trả khoản vay
đúng hạn, làm ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng và gây

khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền. Ngân hàng gặp phải rủi ro mất vốn
khi khách hàng không trả được một phần hoặc toàn bộ khoản tín dụng, từ đó
làm tăng chi phí và giảm khả năng sinh lời của ngân hàng.
Có 4 nhóm nguyên nhân cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng là:
- Các nguyên nhân khách quan ( PEST ) : môi trường chính trị - pháp
luật ( politics ), môi trường kinh tế ( economics ), môi trường văn hóa xã hội
( society ), và công nghệ ( technology ).
- Nguyên nhân từ phía người vay.
- Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
- Nguyên nhân từ các bảo đảm tín dụng.
1.1.5.2. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi
lãi suất trên thị trường có sự biến động. Rủi ro lãi suất xảy ra sẽ làm biến
động thu nhập và giá trị ròng của ngân hàng.
Có hai nguyên nhân chính gây nên rủi ro lãi suất đối với ngân hàng:
- Ngân hàng duy trì sự không cân xứng giữa thời hạn tài sản nợ và thời
hạn tài sản có: Khi ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài hơn so với tài
sản nợ thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
12
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
khi lãi suất có xu hướng tăng; rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy
động vốn bổ sung trong những năm tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu tư
tín dụng dài hạn. Trong trường hợp ngân hàng có kỳ hạn của tài sản có ngắn
hơn so với kỳ hạn của tài sản nợ thì ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro về lãi suất tái
đầu tư khi lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm.
- Lãi suất trên thị trường có sự biến động: Khi lãi suất trên thị trường có
sự biến động thì ngân hàng có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị tài sản. Khi lãi
suất trên thị trường có xu hướng tăng thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng
tăng lên, do đó giá trị hiện tại của tài sản giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất

trên thị trường giảm thì giá trị tài sản sẽ tăng lên. Sự biến động của lãi suất
trên thị trường được gây ra bởi các nguyên nhân chủ yếu là: lạm phát dự tính;
sự phát triển của kinh tế trong chu kỳ kinh doanh; tỷ suất lợi nhuận bình quân
của nền kinh tế; thị giá, rủi ro và tính lỏng của công cụ nợ; chính sách tài
khóa của Nhà nước; chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
1.1.5.3. Rủi ro hối đoái
Có rất nhiều định nghĩa về rủi ro hối đoái. Theo Peter S. Rose: “ Rủi ro
hối đoái là khả năng thiệt hại ( tổn thất ) mà ngân hàng phải gánh chịu do sự
biến động giá cả tiền tệ thế giới ”. Còn theo Hennie Van Greunung và Soja
Brajovic Bratanovic thì: “ Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất phát từ sự thay đổi tỷ
giá hối đoái giữa nội tệ và ngoại tệ ”.
Như vậy, nhìn chung rủi ro hối đoái là những khoản lỗ tiềm tàng mà
ngân hàng phải gánh chịu khi có sự biến động về tỷ giá.
Có hai nguyên nhân gây ra rủi ro hối đoái, đó là:
Thứ nhất, do tỷ giá hối đoái trên thị trường biến động. Có 5 nguyên nhân
chủ yếu gây nên sự biến động của tỷ giá: lạm phát, đầu tư nước ngoài, công
nghệ, chính sách thuế quan và hạn ngạch của một quốc gia, yếu tố tâm lý.
Thứ hai, do ngân hàng duy trì trạng thái ngoại hối không cân bằng:
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
13
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
ngân hàng có thể ở vào trạng thái trường hay đoản đối với nhiều loại ngoại tệ.
1.1.5.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng
thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt
hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung thanh khoản ít hơn cầu thanh
khoản, rủi ro thanh khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính
thành tiền một cách nhanh chóng mà không chịu thất thoát về giá cả. Hay nói
một cách khác, rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp

ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà
khách hàng rút tiền ào ạt.
Rủi ro thanh khoản xảy ra có thể do khách hàng có nhu cầu thanh toán
tăng bất thường, hoặc do có một tin đồn không hay nào đó về ngân hàng
khiến khách hàng mất lòng tin vào ngân hàng và đến rút tiền ồ ạt tại ngân
hàng, hoặc có thể do hệ thống ngân hàng đang gặp phải khó khăn về thanh
khoản gây ra hiệu ứng dây truyền dẫn đến ngân hàng cũng có nguy cơ gặp
phải rủi ro thanh khoản.
1.2. Quản trị rủi ro thanh khoản
1.2.1. Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản
Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng
tức thời để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã
cam kết. Như vậy, rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có
khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời
hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Hay nói cách khác, rủi ro thanh
khoản xảy ra khi ngân hàng không có khả năng có được đủ vốn khả dụng với
chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà ngân hàng cần để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản.
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
14
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Rủi ro thanh khoản xảy ra, nếu nhẹ thì gây thua lỗ cho ngân hàng, hoạt
động kinh doanh bị đình trệ, làm mất uy tín của ngân hàng và nếu nghiêm
trọng thì sẽ làm ngân hàng mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng phải
phá sản.
1.2.2. Cung, cầu thanh khoản và trạng thái thanh khoản
 Cung về thanh khoản
Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân
hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:
- Các khoản tiền gửi đang đến.

- Doanh thu từ việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng.
- Thu hồi các khoản tín dụng đã cấp.
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng.
- Vay mượn trên thị trường tiền tệ.
 Cầu về thanh khoản
Cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân
hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực
kinh doanh của ngân hàng, các hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:
-Khách hàng rút tiền từ tài khoản.
- Giải ngân theo hợp đồng tín dụng đã cam kết.
- Thanh toán các khoản vay phi tiền gửi.
- Chi phí phát sinh khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ.
- Thanh toán cổ tức cho cổ đông bằng tiền.
 Trạng thái thanh khoản
Trạng thái thanh khoản ròng, hay còn gọi là khe hở thanh khoản – NLP
( Net liquidity position ) của một ngân hàng được xác định như sau:
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
15
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
NLP = Tổng cung về thanh khoản – Tổng cầu về thanh khoản
Có ba khả năng có thể xảy ra sau đây:
Thặng dư thanh khoản: Khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh
khoản ( NLP > 0 ), ngân hàng đang ở trạng thái thặng dư thanh khoản. Nhà
quản trị ngân hàng phải cân nhắc đầu tư số vốn thặng dư này vào đâu để
mang lại hiệu quả cho tới khi chúng cần được sử dụng để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản trong tương lai.
Thâm hụt thanh khoản: Khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản
( NLP < 0 ), ngân hàng phải đối mặt với trạng thái thâm hụt thanh khoản.
Nhà quản trị phải xem xét, quyết định nguồn tài trợ thanh khoản lấy từ đâu,
bao giờ thì có và chi phí để có được nguồn vốn đó là bao nhiêu.

Cân bằng thanh khoản: Khi cung thanh khoản bằng với cầu thanh
khoản ( NLP = 0 ), ngân hàng ở trạng thái cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên,
trạng thái này rất khó xảy ra trong thực tế.
1.2.3. Quản trị rủi ro thanh khoản
Quản trị rủi ro thanh khoản là việc các ngân hàng thương mại sử dụng
hệ thống các cơ chế quản lý, giải pháp nghiệp vụ và công cụ kỹ thuật thích
hợp nhằm duy trì trạng thái cân bằng cung cầu thanh khoản, xử lý kịp thời
những tình huống rủi ro thanh khoản nhưng vẫn đảm bảo khả năng sinh lời
cho ngân hàng.
Bản chất của hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng
được thể hiện ở hai nội dung sau:
Một là, trong thực tế, hiếm có khi nào mà tại một thời điểm tổng cung
thanh khoản bằng với tổng cầu thanh khoản. Vì vậy, ngân hàng luôn phải đối
mặt với tình trạng thặng dư hay thâm hụt thanh khoản, từ đó ngân hàng phải có
những xử lý kịp thời giúp duy trì trạng thái cân bằng cung cầu thanh khoản.
Hai là, thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng luôn tỷ lệ
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
16
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
nghịch với nhau, nghĩa là một tài sản mà có tính thanh khoản càng cao thì khả
năng sinh lời của tài sản đó càng thấp và ngược lại; một nguồn vốn có tính
thanh khoản càng cao thì thường có chi phí huy động càng lớn và do đó, làm
giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay.
Để có thể ứng phó với những cú sốc thanh khoản không mong đợi thì
ngân hàng cần phải dự trữ thanh khoản. Tuy nhiên, ngân hàng cần phải có
một tỷ lệ dự trữ hợp lý để vừa có thể đáp ứng được những yêu cầu thanh
khoản, vừa đảm bảo không làm đọng vốn của ngân hàng, phải đảm bảo khả
năng sinh lời cho ngân hàng.
1.2.4. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro thanh khoản
Vấn đề thanh khoản là một vấn đề thường nhật, cho nên nhiệm vụ

thường xuyên của những nhà quản trị ngân hàng là phải đảm bảo khả năng
thanh khoản của ngân hàng một cách thường xuyên và liên tục. Việc quản trị
rủi ro thanh khoản là hết sức cần thiết, bởi vì:
Một là, có sự đánh đổi giữa thanh khoản và khả năng sinh lời: Nghiệp
vụ ngân quỹ của ngân hàng là để dự trữ thanh khoản, nghiệp vụ cho vay giúp
gia tăng thu nhập còn nghiệp vụ đầu tư chứng khoán vừa dự trữ thanh khoản
vừa gia tăng thu nhập. Khi ngân hàng muốn giải quyết tốt vấn đề thanh
khoản, ngân hàng cần phải tăng dự trữ, giảm phần vốn đầu tư vào cho vay và
đầu tư chứng khoán, mà phần vốn dự trữ là phần vốn không sinh lời dẫn đến
giảm khả năng sinh lời của ngân hàng. Nếu ngân hàng đầu tư vào cho vay và
đầu tư chứng khoán nhiều thì khả năng sinh lời tăng nhưng ngân hàng sẽ hạn
chế về thanh khoản.
Hai là, nếu rủi ro thanh khoản xảy ra, tùy theo mức độ mà ngân hàng có
thể phải chịu: chuyển hóa các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí
cao; tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe
hơn ( ví dụ: phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
17
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hoàn nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên, hoặc bị từ chối
cho vay); đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập; mất uy tín dẫn đến mất
khách hàng, đặc biệt là khách hàng truyền thống và các cơ quan quản lý; tất
cả biểu hiện này đều làm cho ngân hàng tiến gần tới bờ vực mất khả năng
thanh toán và đi đến phá sản.
Ba là, trong trường hợp đặc biệt, rủi ro thanh khoản có thể đẩy ngân hàng
tới tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể trở thành hiệu ứng lây lan cho
toàn hệ thống, có thể đe dọa đến sự ổn định của cả hệ thống ngân hàng.
1.2.5. Dấu hiệu nhận biết rủi ro thanh khoản
Để biết một ngân hàng có đang trong tình trạng rủi ro thanh khoản hay
không chúng ta có thể nhận biết thông qua các dấu hiệu thị trường sau:

- Lòng tin của công chúng. Khi lòng tin của công chúng suy giảm thì
đó là dấu hiệu chắc chắn nhất nguy cơ ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản.
Lòng tin của công chúng suy giảm thể hiện qua viêc ngân hàng đang đánh
mất dần khách hàng gửi tiền của mình do họ lo ngại ngân hàng sẽ thiếu tiền
mạt hoặc không thể thanh toán các khoản nợ đến hạn.
- Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng. Thị giá cổ phiếu của ngân
hàng giảm có thể do các nhà đầu tư đang dần mất lòng tin vào ngân hàng, điều
này có thể cho thấy nguy cơ đứng trước rủi ro thanh khoản của ngân hàng.
- Phần bù rủi ro là một dấu hiệu thị trường để nhận biết rủi ro thanh
khoản. Phần bù rủi ro xuất hiện chứng tỏ ngân hàng có chi phí vốn cao hay
ngân hàng đang chấp nhận một mức lãi suất đi vay cao hơn mức lãi suất thị
trường một cách bất thường. Đó là dầu hiệu cho thấy ngân hàng đang đứng
trước khó khăn về nguồn cung thanh khoản.
- Chịu lỗ từ việc bán tài sản. Ngân hàng phải bán tài sản với giá thấp
hơn so với giá thị trường, điều này có thể cho thấy ngân hàng đang cần bán
gấp tài sản và đang rất cần vốn, điều đó thể hiện ngân hàng có thể đang gặp
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
18
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
phải khó khăn về thanh khoản.
- Khả năng đáp ứng khách hàng vay. Ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng
khách hàng. Khi ngân hàng không có khả năng đáp ứng đầy đủ và đúng hẹn
các cam kết tín dụng, những nhu cầu xin vay của những khách hàng có hệ số
tín nhiệm cao không được giải quyết thì có thể nhận thấy ngân hàng đang gặp
khó khăn về thanh khoản.
- Vay vốn từ Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Trung ương là người
cho vay cuối cùng hay nói cách khác là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu
nguy cho các ngân hàng trung gian khi cần thiết. Việc ngân hàng buộc phải
vay ngân hàng trung ương với khối lượng lớn và thường xuyên chính là một
dấu hiệu về tình trạng khó khăn thanh khoản.

Khi ngân hàng có những dấu hiệu trên, thì những nhà quản trị ngân
hàng cần phải tập trung vào các chính sách quản lý thanh khoản để lấy lại
niềm tin của khách hàng và thị trường.
1.2.6. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản
Một ngân hàng gặp phải vấn đề về thanh khoản có thể do các nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, ngân hàng huy động quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn
từ các cá nhân và định chế tài chính, sau đó sử dụng chúng để cho vay và đầu
tư dài hạn. Do đó, xảy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và
tài sản có, mà thường gặp là dòng tiền thu về từ việc đầu tư nhỏ hơn dòng tiền
chi ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn.
Thứ hai, sự thay đổi của lãi suất có thể tác động đến cả người gửi tiền
và người vay vốn. Khi lãi suất giảm, một số người gửi tiền rút vốn khỏi ngân
hàng để đầu tư vào những nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn, còn những người đi
vay thì tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì lãi suất đã thấp hơn trước. Như
vậy, lãi suất thay đổi sẽ sảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản của ngân
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
19
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hàng. Hơn nữa, những xu hướng thay đổi của lãi suất còn ảnh hưởng đến giá
trị thị trường của các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thêm
nguồn cung thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị
trường tiền tệ.
Thứ ba, ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách
hoàn hảo. Những trục chặc về thanh khoản sẽ làm khách hàng mất dần niềm
tin vào ngân hàng. Do đó ngân hàng cần phải có những chiến lược quản trị rủi
ro thanh khoản một cách hiệu quả. Một trong những việc quan trọng đối với
nhà quản trị ngân hàng là luôn liên hệ chặt chẽ với những khách hàng có số
dư tiền gửi lớn và những khách hàng có hạn mức tín dụng lớn chưa sử dụng
để biết được kế hoạch của họ, từ đó có các phương án thanh khoản thích hợp.

1.2.7. Các phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản
Có bốn phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản sau đây:
1.2.7.1. Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn
Thực chất của phương pháp này là đo lường cung cầu thanh khoản,
trong đó phần chủ yếu của cung cầu thanh khoản là tiền gửi và cho vay nên
phương pháp này tập trung vào đo lường những thay đổi dự tính trong tiền
gửi và cho vay của ngân hàng. Việc dự báo nhu cầu gửi tiền và cho vay tương
lại sẽ giúp xác định trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng.
Ngay từ đầu năm, ngân hàng ước lượng nhu cầu thanh khoản của các
tháng, quý trong năm. Bất cứ khi nào cung cầu thanh khoản không cân bằng
với nhau, ngân hàng sẽ có một khe hở thanh khoản. Khe hở thanh khoản được
xác định như sau:
Khe hở thanh
khoản
=
Nguồn cung
thanh khoản
-
Nhu cầu thanh
khoản
Khi khe hở thanh khoản dương, ngân hàng đang ở trạng thái thặng dư
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
20
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
thanh khoản. Ngân hàng cần phải đầu tư phần thặng dư này để sinh lợi.
Khi khe hở thanh khoản âm, ngân hàng đang ở trạng thái thâm hụt
thanh khoản. Ngân hàng cần tìm kiếm các nguồn tài trợ bổ sung kịp thời với
chi phí thấp nhất.
Các bước cơ bản trong phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng
vốn là:

- Tiền vay và tiền gửi phải được dự báo trong khoảng thời gian hoạch
định thanh khoản đã cho ( ngày, tháng hoặc quý ).
- Dự báo những thay đổi về tiền vay và tiền gửi cho cùng khoản thời
gian xác định đó.
- Nhà quản trị thanh khoản ước lượng trạng thái thanh khoản ròng của
ngân hàng dựa vào sự biến đổi của tiền gửi và tiền vay.
Để xây dựng mô hình dự báo về tiền gửi và tiền vay trong tương lai,
nhà quản trị có thể sử dụng các kỹ thuật thống kê khác nhau. Chảng hạn, một
mô hình dự báo về sự thay đổi trong tiền gửi và tiền vay như sau:
Thay đổi dự kiến của tiền vay phụ thuộc vào các biến số sau:
• Tốc độ tăng trưởng dự kiến của GDP.
• Lợi nhuận doanh nghiệp dự kiến.
• Tỷ lệ tăng trưởng về cung tiền của ngân hàng thương mại.
• Tỷ lệ tăng trưởng của tín dụng thương mại.
• Tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Thay đổi dự kiến của tiền gửi phụ thuộc vào các biến số sau:
• Tăng trưởng về thu nhập cá nhân dự kiến.
• Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền của ngân hàng trung ương.
• Lợi suất dự kiến của tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
21
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
• Tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Sau khi xây dựng mô hình dự báo về tiền gửi và tiền vay, ngân hàng có
thể ước lượng nhu cầu thanh khoản dự tính bằng cách tính:
Thâm hụt (-), thặng dư
(+) dự tính
=
Thay đổi dự tính
trong tổng tiền gửi

-
Thay đổi dự tính
trong tổng cho vay
1.2.7.2. Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn
Nếu như phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn giúp ngân hàng đo
lường cả nguồn cung và nguồn cầu thanh khoản thì phương pháp tiếp cận cấu
trúc vốn chỉ quan tâm đến cầu thanh khoản. Phương pháp tiếp cận cấu trúc
vốn đo lường rủi ro thanh khoản dựa vào việc phân chia cơ cấu nguồn vốn
huy động theo khả năng nguồn vốn bị rút ra khỏi ngân hàng để xác định yêu
cầu thanh khoản của ngân hàng.
Phương pháp này được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Chia các khoản tiền gửi và các nguồn khác thành nhiều loại
trên cơ sở ước lượng xác suất bị rút tiền của khách hàng. Chẳng hạn, tiền gửi
và các nguồn khác của ngân hàng có thể chia thành ba loại:
 Loại 1: Nguồn vốn nóng ( ổn định thấp ): là các khoản tiền gửi và
nguồn vốn khác mà có xác suất bị rút ra khỏi ngân hàng là lớn nhất
hoặc rất nhạy cẩm với lãi suất.
 Loại 2: Nguồn vốn kém ổn định: là các khoản tiền gửi và nguồn vốn
khác có thể sẽ bị rút ra khỏi ngân hàng tại một thời điểm nào đó trong
kỳ kế hoạch.
 Loại 3: Nguồn vốn ổn định: loại này có ít khả năng bị rút ra khỏi ngân
hàng nhất.
Bước 2: Xác định mức dự trữ thanh khoản cho từng loại tiền gửi trên cơ
sở ấn định tỷ lệ dự trữ thích hợp với trạng thái của chúng. Ví dụ:
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
22
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
 Loại 1: Tỷ lệ dự trữ là 95%.
 Loại 2: Tỷ lệ dự trữ là 30%.
 Loại 3: Tỷ lệ dự trữ là 15%.

Như vậy dữ trữ thanh khoản cho tổng các loại tiền gửi được tính như
sau:
Dự trữ thanh khoản vốn = 95% x ( Loại 1 – DTBB ) + 30% x ( Loại 2 –
DTBB ) + 15% x ( Loại 3 – DTBB )
Bước 3: Đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải sẵn
sàng khi khách hàng có yêu cầu. Do đó, yêu cầu thanh khoản đối với các
khoản cho vay là:
Dự trữ thanh khoản cho vay = 100% x ( Quy mô cho vay tối đa – Tổng
dư nợ hiện tại )
Ngoài ra, các ngân hàng có thể dựa vào phân tích xác suất để đưa ra các
trạng thái thanh khoản có thể xảy ra, từ đó xác định yêu cầu thanh khoản cho
từng kịch bản.
1.2.7.3. Phương pháp tiếp cận các chỉ số tài chính
Trong phương pháp này, ngân hàng không ước lượng một mức thâm
hụt hay thặng dư thanh khoản cụ thể mà sẽ duy trì các chỉ số thanh khoản ở
mức bằng hoặc an toàn hơn các ngân hàng khác trong ngành. Các chỉ số thanh
khoản bao gồm:
 Chỉ số trạng thái tiền mặt:
Trạng thái tiền mặt =
Tiền mặt + Tiền gửi tại các TCTD khác
Tổng tài sản
Chỉ số này dùng để đánh giá tỷ trọng tài sản có tính thanh khoản cao
nhất trong tổng tài sản của ngân hàng. Tiền mặt là tái sản có tính lỏng cao
nhất của ngân hàng. Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng có khả năng xử
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
23
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
lý các tình huống thanh khoản tức thời.
 Trạng thái ngân quỹ:
Trạng thái ngân quỹ = Ngân quỹ

Tổng tài sản
Chỉ số này dùng để đánh giá tỷ trọng tài sản có tính thanh khoản cao
trong tổng tài sản của ngân hàng. Nếu ngân hàng có chỉ số trạng thái ngân quỹ
càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng tốt.
 Chỉ số chứng khoán thanh khoản:
Chứng khoán
thanh khoản
= Chứng khoán chính phủ
Tổng tài sản
Chứng khoán chính phủ có tính thanh khoản cao vì khi ngân hàng thiếu
hụt thanh khoản thì có thể đem chiết khấu tại ngân hàng trung ương. Các
chứng khoán chính phủ bao gồm các trái phiếu và tín phiếu kho bạc. Nếu chỉ
số “ chứng khoán thanh khoản ” càng cao thì ngân hàng được xem là có trạng
thái thanh khoản càng tốt.
 Chỉ số năng lực cho vay:
Chỉ số này phản ánh phần tài sản được phân bổ vào những tài sản kém
tính thanh khoản nhất.
Năng lực cho vay =
Dư nợ cho vay + cho thuê
Tổng tài sản
Vì cho vay và cho thuê là những tài sản ít thanh khoản nhất, do đó nếu
chỉ số này càng lớn thì ngân hàng càng bộc lộ kém thanh khoản.
 Chỉ số tiền nóng:
Chỉ số tiền nóng =
Tiền nóng bên tài sản có
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
24
Khóa luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tiền nóng bên tài sản nợ
Tiền nóng là các loại tài sàn nhạy cảm với lãi suất, thường bao gồm:

tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn, chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài
sản khác có thể chuyển hóa thành tiền trong ngắn hạn. Nếu chỉ tiêu tiền nóng
cao thì ngân hàng được xem là có thanh khoản cao.
 Tỷ số đầu tư ngắn hạn trên vốn nhạy cảm:
Tỷ số đầu tư ngắn hạn
trên vốn nhạy cảm
=
Đầu tư ngắn hạn
Vốn nhạy cảm
Hệ số này càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng cao.
Thông thường hệ số này bằng 0.7 là đủ đáp ứng khả năng thanh khoản của
ngân hàng.
 Chỉ số cấu trúc tiền gửi:
Chỉ số cấu trúc tiền gửi = Tiền gửi giao dịch
Tiền gửi kỳ hạn
Chỉ số cấu trúc tiền gửi đo lường tính ổn định của cơ sở tiền gửi của
ngân hàng. Nếu chỉ số này giảm thì tính ổn định của vốn tiền gửi sẽ cao hơn
và do đó yêu cầu thanh khoản sẽ giảm.
Đố với phương pháp tiếp cận các chỉ số tài chính này, các ngân hàng
rất dễ dàng thực hiện, phản ánh được bai quát tình hình thanh khoản của ngân
hàng. Tuy nhiên, phương pháp này không lượng hóa được nhu cầu thanh
khoản và cách thức tìm kiếm nguồn vốn bổ sung cho ngân hàng.
1.2.7.4. Phương pháp thang đáo hạn
Vào tháng 2 năm 2000, Ngân hàng thanh toán quốc tế ( BIS ) đã xây
dựng phương pháp thang đáo hạn để đo lường thanh khoản của các ngân
hàng. Phương pháp thanh đáo hạn cho phép so sánh các luồng tiền vào với
các luồng tiền ra trong mỗi ngày hay cho một thời kỳ nhất định, qua đó xác
định được các trạng thái thanh khoản ròng ( nhu cầu tài trợ ròng ) mỗi ngày
Nguyễn Thị Kim Oanh Lớp: LTĐH 5A
25

×