Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn tìm hiểu thơ đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.45 KB, 20 trang )

A - PHẦN MỞ ĐẦU
I/ MỤC ĐÍCH, LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Thơ Trung Quốc có hơn 2500 năm lịch sử. Thơ Đường là đỉnh cao của
thơ ca Trung Quốc và cũng là một trong những đỉnh cao của thơ ca nhân loại.
Trào lưu thơ ca này với nội dung phong phú và hình thức hoàn mĩ đã trỡ thành
một mẫu mực độc đáo của thơ ca Trung Quốc nói riêng và thi ca phương Đông
nói chung. Chính vì thế mà thơ Đường đã được chon để giang dạy trong chương
trình phổ thông.
2. Tuy nhiên, việc làm cho học sinh phỗ thông cảm thụ được cái hay, cái
đep, cái độc đáo của thơ Đường không phải là việc dễ dàng. Qua thực tế giảng
dạy trong nhà trường phổ thông, tôi thấy các em hầu hết đều ngán ngại với thơ
Đường. Vì hay thì rất hay nhưng các em không biết cảm thụ như thế nào để hiểu
hết được ý thơ. Điều này có thể do những nguyên nhân sau:
- Thơ Đường là thơ cổ Trung Quốc. Các em chỉ hiểu được bản dịch chứ
không hiểu được nguyên tác (vì không có trình độ Hán ngữ) nên không thấu
được hết cái hay của bài thơ.
- Thơ Đường là loại thơ hết sức hàm súc, cô đọng, có những cách thức
riêng biệt trong việc khám phá và chiếm hữu hiện thực. Cho nên các giáo viên
cũng như bản thân tôi rất khó giúp các em học sinh hiểu được hết cái hay, cái
đẹp của những bài thơ Đường mẫu mực được chọn giảng trong nhà trường phổ
thông.
3. Muốn khắc phục những chỗ thiếu sót trên, giáo viên phải cậy nhờ đến
tài liệu, giáo trình và việc học tập phần này ở nhà trường sư phạm.
4. Một số sách tham khảo về thơ Đường hiện có thường đi quá sâu và
rộng. Điều này hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của thơ Đường nhưng lại
không thiết thực với người giáo viên trung học cơ sở cũng như khả năng khó
tiếp nhận một cách sáng tạo của các em học sinh.
Trang 1
Chính vì những lý do trên, tôi mạnh dạn làm đề tài này với hy vọng sẽ bổ khuyết
những chỗ còn thiếu đó, giúp việc truyền đạt tri thức cho học sinh đạt hiệu quả
tốt nhất.


II/ PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Thơ Đường có một số lượng hết sức lớn (48.000 bài của 2.300 nhà thơ).
Do điều giả, kiện thời gian và khả năng có hạn, tôi không thể tham khảo hết
chừng ấy bài thơ mà chỉ thu hẹp ở những tác giả, tác phẩm quen thuộc với bạn
đọc Việt Nam, cụ thể là những tác giả, tác phẩm trong nhà trường phổ thông cơ
sở với một số thể loại tiêu biểu như: Thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt
III/ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH:
- Trên cơ sở tìm hiểu những đặc điểm về thi pháp thơ Đường trong tương
quan đối sánh với một số nền thơ khác của Trung Quốc, Châu Âu, Việt Nam.
Người viết sẽ rút ra những nét đặc sắc của thơ Đường dưới dạng những luận
điểm cụ thể, rõ ràng.

- Từ những luận điểm có tính chất “chìa khóa” ấy,người viết vận dụng để
phân tích một số bài thơ Đường trong chương trình THCS.
B - PHẦN NỘI DUNG
I/ MỘT VÀI NÉT ĐẶC SẮC CỦA THƠ ĐƯỜNG:
Trang 2
1. Kết luận đầu tiên mà tôi muốn đề cập đến: cái hay của thơ Đường là ở
cách
khám phá hiện thực, lý giải hiện thực. Đó là cách xác lập tính đồng nhất của
những hiện tượng mà giác quan cho là đối lập nhau.Chẳng hạn, người và mặt
trăng là hai hiện tượng trái ngược nhau nhưng Bạch Cư Dị không ngần ngại
đồng nhất hóa ngay hai hiện tượng ấy:
Hiểu tùy tàn nguyệt hành
Tịch dữ tân nguyệt túc
Thùy vị nguyệt vô hình?
Thiên lý viễn tương trục

Bất tri kim dạ nguyệt
Hựu tác thùy gia khách?


Dịch nghĩa:
Sáng ra đi cùng vầng trăng lặn
Tối nghỉ cùng vầng trăng lên
Ai bảo trăng vô tình?
Ngàn dặm theo nhau mãi

Chẳng biết trăng đêm nay
Lại làm khách nhà ai?

Ở đây Bạch Cư Dị xuất phát từ chỗ xem trăng và người đồng nhất với
nhau. Do đó mà trăng “hành”(đi),”túc”(nghỉ),”trục”(đuổi theo) làm
“khách” Đây không phải là nhân hóa mà là một sự chiếm hữu mới về “nguyệt”.
Qua bài thơ này, người ta cảm thấy dường như từ trước giữa vầng trăng và
người lữ khách lủi thủi trên đường đã có một quan hệ thân tình. Giác quan của
người đọc phải được chỉnh lý lại mới khớp được với cái nhìn mới. Đây là một sự
chiếm hữu mới và thú vị.
Trang 3
Cách chiếm hữu này rất khác cách chiếm hữu của các nhà thơ châu Âu. Ở
châu Âu người ta thường tách sự vật ra khỏi nhà thơ, đơn nhất nó, miêu tả
những đặc điểm riêng biệt trong cái giây phút duy nhất củ nó. Các nhà thơ
Đường không làm thế, họ khảo sát sự vật không phải để tìm hiểu sự vật mà để
thực hiện một cách đồng hóa mới về sự vật.
Để nói lên nỗi mong nhớ của người thiếu phụ, Kim Xương Tự không đi
vào nội tâm nhân vật mà khai thác tính thống nhất giữa mộng và thực:

Đả tử hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thương đề
Đề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tề

(Xuân oán)

Dịch nghĩa:
Đánh cho chết cái hoàng oanh
Không cho nó hót trên cành cây cao
Hót thời tan giấc chiêm bao
Không cho hồn thiếp được vào Liêu Tây
Nhà thơ Đường không vẽ sự vật mà đồng nhất hóa sự vật này với sự vật
khác. Cái hay của thơ Đường chính là ở chỗ ta không thể tiếp thu thơ Đường
một cách thụ động mà phải tham dự vào sự phát hiện kì thú ấy. Đọc câu thơ:
Lạc hoa tương dự hận
Đáo địa nhất vô danh
(Nam hành biệt đệ-Vi Thừa Khánh)
Dịch nghĩa:
Hoa rụng cùng buồn với ta
Rơi xuống đất không một tiêng động
Trang 4
Tư duy của chúng ta phải giải thích tại sao bông hoa rơi xuống đất không
có tiếng động lại cùng buồn với chúng ta. Sự yên lặng của bông hoa khi rơi
xuống có gì chung với nỗi buồn ly biệt ? Bởi vì đây là nỗi buồn không thể dùng
lời nói được chỉ có sự im lặng mới biểu lộ được mà thôi.
Giáo sư Lương Duy Thứ cũng nhận xét: ”Thơ Đường nhằm khám phá sự
thống nhất mà chủ yếu là sự thống nhất giữa con người với thiên nhiên, đưa đến
cho độc giả những bạn bè mới, những tri kỉ, tri âm mới. Cách cấu tứ nhằm khám
phá sự thống nhất ấy đã xóa đi mọi ranh giới ngăn cách, tạo ra cái âm vang sâu
lắng của thơ Đường ”
2. Thơ Đường thường gợi chứ không tả. Nhà thơ thường không trực tiếp
nói ra ý mình mà chỉ dựng lên hàng loạt quan hệ để người đọc tự luận ra. Từ
những khoảng trống, khoảng trắng,nốt lặng vô hình trong kết cấu, trong các
tương quan,trong các “nhãn tự” người đọc sẽ tự khám phá những điều các nhà

thơ gửi gắm.
Bài”Xuân tứ” của Lí Bạch chỉ có sáu dòng nhưng đã dựng nên ba mối
quan hệ đầy ý nghĩa:
Yên thảo như bích ti
Tần tang đê lục chi
Đương quân hoài quy luật
Thị thiếp đoạn trường thì
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi?

Dịch nghĩa:
Cỏ đất Yên như tơ biếc
Dâu đất Tần trĩu cành xanh thẫm
Ngày mà chàng nghĩ đến chuyện về
Chính là lúc thiếp đứt ruột
Gió xuân chẳng quen nhau
Cớ sao lọt vào màn the?
Trang 5
*Cặp thứ nhất:
Khi mùa xuân vừa đến đất Yên-nơi người chồng đóng quân-cỏ vừa mới
nhú, thì ở đất Tần-nơi người chinh phụ sống-mùa xuân đã đến từ lâu, cành dâu
đã nặng trĩu. Tác giả dùng quan hệ thời gian để nói lên sự xa cách về không
gian.
*Cặp thứ hai:
Quan hệ tình cảm giữa chàng và thiếp. Nơi thiếp xuân đến từ lâu rồi nên
thiếp đã “đứt ruột”khi chàng vừa mới bắt đầu nghĩ đến thiếp. Từ cặp câu thứ hai
có thể phát hiện thêm ý nghĩa mới của cặp câu thứ nhất: ”cỏ Yên”,”dâu Tần” có
thể được tiếp nhận như những cảnh vật khách quan của mùa xuân được miêu tả
nhưng cũng có thể xem như những hình ảnh ẩn dụ nói lên mức độ của sự nhớ
thương.

*Cặp thứ ba:
Xuất hiện một quan hệ đối lập giữa hai hình ảnh ẩn dụ: ”gió xuân”, ”màn
the”. Quan hệ đối lập ở đây càng nổi rõ sự thống nhất ở trên, đặc biệt càng làm
nổi rõ sự thủy chung của người chinh phụ…
Trong bài thơ “Thạch Hào lại”, Đỗ Phủ chỉ dùng hhai câu để tả tên lại
nhưng qua lời trân tình vừa liên tục, vừa gián đoạn (tạo khoảng trống) của bà
lão, có thể thấy được giọng điệu hạch sách, những đòi hỏi phi lý của tên lại mặc
sức tuôn vào trí tưởng tượng của độc giả.
Một ví dụ khác, bài thơ”Điểu minh giản”của Vương Duy:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh tại giản trung
Dịch:
KHE CHIM KÊU
Người thảnh thơi hoa quế rụng
Trang 6
Đêm im ắng núi xuân vắng tanh
Trăng lên làm chim núi giật mình
Thỉnh thoảng kêu lên trong khe núi
Linh hồn của bài thơ là ở câu thứ ba: không khí yên tĩnh tới mức mà một
ấn về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động. Và tiếng động
ở câu bốn cũng chỉ làm nổi thêm không khí yên tĩnh cho bài thơ mà thôi. Dùng
cái này để nói cái kia (quá khứ để nói hiện tại, dùng cái hư để nói cái thực, cái
động để nói cái tĩnh…) là thủ pháp vẫn thường thấy trong thơ Đường…
Thơ Đường là thơ của các mối quan hệ cho nên đọc thơ Đường phải đặc
biệt lưu ý phát hiên cho ra những mối quan hệ và ý nghĩa của chúng. Đứng đầu
trong các mối quan hệ giữa tình, ý và cảnh…
3. Nghệ thuật vận dụng thi luật
Đời Đường mọi thể loại thơ hầu như đều đạt đến sự hoàn chỉnh. Nhạc

điệu hài hòa, cân đối, tiết tấu nhẹ nhàng, ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người
đọc
Khuê trung /thiếu phụ/ bất tri sầu
Xuân nhật/ngưng trang/thướng thúy lâu
Hốt kiến/mạch đầu/dương liễu sắc
Hối giao/phu tế/mịch phong hầu.
(Khuê oán-Vương Xương Linh)
Tuy nhiên khi cần tác giả cũng biến đổi nhịp điệu, làm cho câu thơ gợi
cảm hơn, những câu được ngắt nhịp đặc biệt như thế sẽ nổi bật lên giữa bài thơ:
Ngũ canh/cổ giác thanh/bi tráng
Tam giáp/tinh hà ảnh/động dao
(Các dạ-Đỗ Phủ)
Cùng với nhịp điệu, nhiều tác giả còn dùng hệ thống vần để diễn đạt bổ
sung cho ý nghĩa: Đỗ Phủ có những bài rất dài,chỉ dùng độc vẩn trắc như: ”Tự
kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bất tự”(năm chục vần), ”Bắc chinh
”(bảy chục vần), miêu tả bước đường bôn tẩu long đong vất vả và phản ánh cảnh
ngộ ly loạn đau thương của nhân dân. Còn bài”Tráng du”thì độc vần bằng. Đỗ
Phủ quả là ông thánh về tài dùng vần trong thơ…
Trang 7
4. Nghệ thuật vận dụng loại thể:
Thơ Đường có hai loại hình phổ biến là miêu tả và tự sự, trong đó miêu tả
chiếm vị trí chủ đạo vì nó rất giàu khả năng biểu hiện. Tả cảnh được sử dụng
nhiều nhất nhưng các nhà thơ tả cảnh không phải nhằm mục đích tái hiện thiên
nhiên thuần túy mà cốt để khắc họa cụ thể một suy tư,một cảm xúc, một tâm
trạng. Tất cả đều biến dạng bao phủ một lớp sương khói hồn người. Bài
thơ”Hoàng Hạc lâu”của Thôi Hiệu chỉ có hai câu tả cảnh:
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Cảnh đã “tha hóa” thành cảm nghĩ, con sông tạnh và đám cỏ thơm kia
chính là niềm lữ thứ, từ đó gợi ra nỗi sầu nhớ quê nhà trong cặp kết. Lại như

bài”Độc tọa Kính Đình sơn” của Lí Bạch: cảnh cũng chỉ có hai câu tả:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Đặc biệt là miêu tả âm thanh và hoạt động nghệ thuật. Các tác giả dùng
lối so sánh ẩn dụ, huy động nhiều nhân tố của thế giới tự nhiên thông qua cảm
nhận chủ quan của người nghệ sĩ, làm cho đối tượng nổi bật lên, khiến người
đọc như nghe như thấy một cách trực tiếp:
Tào tào thiếp thiếp thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Nhàn quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy hạ than
Dịch nghĩa:
Rào rào tỉ tê các điệu xen lẫn nhau
Như những hạt châu lớn nhỏ rơi vào mâm ngọc
Tiếng oanh ríu rít thanh thoát dưới hoa
Tiếng suối róc rách thì thầm đổ xuống thác
Miêu tả nhân vật nhà thơ cũng dùng ít nét như thế. Qua vài chi tiết miêu
tả diện mạo và tâm trạng tính cach nhân vật nổi bật hẳn lên:
Hạnh hữu nha xỉ tồn
Sở bi cốt tủy can
Trang 8
Bên cạnh loại hình miêu tả được sử dụng trong mọi thể tài văn học, loại tự
sự hạn chế hơn chỉ phổ biến trong mảng thơ hiện thực. Mỗi câu chuyện được
miêu tả một cách nhất quán tình tiết không nhiều nhưng gắn bó với nhau chặt
chẽ, hữu cơ đầy kịch tính
5. Nghệ thuật ngôn từ:
Ngôn ngữ thơ Đường kết tinh được nhiều cái đẹp, mang tầm khái quát rất
cao, không những có khả năng biểu cảm mà còn có khả năng biểu ý, kết hợp
cảm quan và nhận thức, truyền thống và cách tâ,kế thừa và sáng tạo. Ngôn ngữ
giàu hình ảnh và cảm xúc ấy phần lớn là do các biện pháp tu từ tạo nên. Nhiều

khi các biện pháp tu từ xen kẽ, chồng chéo nhau làm bật lên cái tứ sâu xa như
người ta thường nói”ý tại ngôn ngoại”. Những bài thơ nhất là tứ tuyệt và bát cú
rất ngắn gọn…Chính vì thế mà ngôn ngữ thơ Đường là một thứ ngôn ngữ tinh
luyện, chính xác, cô đọng và hàm xúc.
Câu”Quân bất kiến Hoàn Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất
phục hồi ”(Anh có thấy nước sông Hoàng Hà từ trên trời đổ xuống, chảy tuột
một mặt ra biển chẳng quay về)-“Tương tiến tửu”-Lý Bạch là một hình ảnh
tượng trưng, một nhận thức triết lý hiện thân thành thơ. Câu”Bạc vân nham tế
túc. Cô nguyệt lãng trung phiên”(Mây mỏng ngủ đêm nơi đá núi.Vầng trăng cô
đơn vươn mình lên trên làn sóng cả.) của Đỗ Phủ cũng là một ẩn dụ tuyệt vời.
Vầng trăng ở đây không chỉ là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên mà còn là hình
bóng đơn côi của chính tác giả trong giai đoạn cuối đời.
Cách dùng điển cố trong thơ Đường-một hình thức khác của ẩn dụ cũng
uyển chuyển, linh hoạt trở thành phương thức biểu đạt tư tưởng hàm súc nhất.
Đỗ Phủ viết:
Khuông Hành kháng sớ công danh bạc
Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi
(Thu hứng)
(Như Khuông Hành dâng sớ mà công danh mỏng
Như Lưu Hướng giảng sách mà tâm sự ngang trái)
Trang 9
Thì không phải ông nói về Khuông Hành, Lưu Hướng vì hai người này
đâu có công danh bạc”,”tâm sự vi”. Vậy là Đỗ Phủ tự nói mình đấy. Ông cũng
có tài không thua gì Khuông Hành, Lưu Hướng thế mài đường công danh trắc
trở không bằng người xưa. Câu “càn khôn nhật dạ phù”(Đỗ Phủ-Đăng Nhạc
Dương lâu) miêu tả hồ Động Đình là dựa vào “Thủy kinh chú”.Sasch này viết:
Hồ Động Đình rộng năm trăm dặm, mặt trời mặt trăng như mọc và lặn trong
đó”. Cho nên câu thơ biểu hiện vẻ đẹp bao la, bát ngát của hồ.Thơ Đường
thường dùng điển cố một cách tự nhiên, còn làm cho người đọc dù không biết
được điển cố đó cũng hiểu ngay điều tác giả muốn diễn đạt,còn như năm được

điển cố thì giúp cho sự lãnh hội, cảm thụ sâu sắc hơn mà thôi.
II/ MỘT VÀI BÀI THƠ ĐƯỜNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH THCS:
1.
VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ
Lý Bạch
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cử thiên
Dịch thơ:
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
Đây là một bài thơ nổi tiếng cuả Lý Bạch về đề tài thiên nhiên. Những
hình ảnh thiên nhiên trong thơ Lý Bạch thường rất sống động kì vĩ. Chúng vừa
thể hiện những vẻ đẹp có thật cũa những thắng cảnh, vừa thể hiện nhiều khía
cạnh trong tính cách tâm hồn nhà thơ. Do vị trí đứng ngắm của nhà thơ (từ phía
xa và ở vị trí thấp hơn so với chiều cao của thác) mà cảnh dòng thác và núi Lư
tựa như một bức tranh sơn thủy treo ở lưng chừng trời. Bức tranh này có lắm cái
kì thú. Ở độ cao ba nghìn thước,dòng thác đổ xuống như bay làm cho hơi nước
Trang 10
bốc lên thành những làn khói. Thế núi lại gợi hình, gợi vẻ giống như một chiếc
bình hương, khiến nhà thơ nghĩ đến một chiếc bình hương khổng lồ đang tỏa
khói nghi ngút giữa trời và nước. Là hơi nước với muôn ngàn thấu kính li ti
được ánh mặt trời rọi vào tạo nên một sắc tía cầu vòng kì ảo. Bức trranh sơn
thủy này như được người thợ vẽ tài hoa pha màu tạo sắc.Giữa nền xanh của
núi,hơi nước tỏa bay tựa khói nhang, là dòng nước bạc tuôn dài như một tấm vải
trắng, nối liền thiên đình với hạ giới.

Ai đã có dịp đến bên một dòng thác thì hoàn toàn cảm nhận được hình
ảnh so sánh đầy thi vị này. Chỉ với ba câu thơ Lý Bạch đã làm cho cảnh thác núi
Lư hiển hiện với đầy đủ sắc màu, hình khối, đường nét…Nhưng dường như tất
cả sự huyền ảo, cái kì vĩ của dòng thác núi Lư lại được nhà thơ dồn hết cho câu
kết:
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Ba câu thơ trên như để chuẩn bị cho câu kết. Cái đẹp kì vĩ và hùng tráng
của dòng thác núi Lư. Đặc biệt là độ cao của thác và sắc trắng bạc của dòng
nước đã gợi lên cho nhà thơ sự liên tưởng thật bất ngờ và sáng tạo ở câu thơ này.
Dải Ngân Hà là nơi tập trung dày đặc những vì tinh tú vắt ngang trời. Ánh sáng
của dải sao này được ví như một dòng sông bạc. Sự liên tưởng so sánh này lại có
tác dụng tôn thêm vẻ kì vĩ của dòng thác núi Lư-một cảnh đẹp ngay giữa trần
gian: dòng thác đồ sộ đến mức tưởng như dải Ngân Hà-Cái dòng sông bạc ấy
tuột khỏi mây xuống với hạ giới. Thế mới hay dòng thác kia hùng vĩ, tráng lệ
biết bao! Dòng thác núi Lư đã đem đến cho thi nhân sáng tạo nghệ thuật bằng
ngôn từ và sức tưởng tượng điệu kì của một hồn thơ khoáng đạt. Ở đây tác giả
đã khéo léo đồng nhất cái “thực” với cái “hư”, cái “hữu hạn” với cái “vô cùng”
để lại một dư vị khá đậm đà cho người đọc.
Bài thơ mang đậm phong cách thơ Lý Bạch ở sự phóng khoáng, sự liên
tưởng độc đáo, mạnh mẽ của một trí tuệ dồi dào, ở sự rung động sâu xa của một
Trang 11
tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước nồng nàn,tha thiết. Đó phải chăng cũng
là một dặc sắc của “Thi Tiên” Lý Bạch.
2.
TĨNH DẠ TỨ
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương

(Lý bạch)
Dịch thơ:
CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Có người nói thơ Lý Bạch tràn trề ánh trăng. Đúng thế, trong hình ảnh
trong thơ Lý Bạch hết sức đa dạng và ý nghĩa của chúng cũng vô cùng phong
phú. Chủ đề của bài thơ rất quen thuộc:”Vọng nguyệt hoài hương”(Trông trăng
nhớ quê), song cách thể hiện rất độc đáo.
Đây là một đêm đẹp trời và vô cùng thanh vắng, bầu trời và mặt đất đầy
trăng. Trăng với thi nhân thường có nhiều duyên nợ.Với Lý Bạch điều ấy càng
đúng. Thủa nhỏ ông thường lên đỉnh núi Nga My ngắm trăng để rồi nhớ mãi
“Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga My”. Lúc trưởng thành,ông đã từng ngắm
mảnh trăng buồn nơi biên ải,rồi có lúc ngồi uống rượu một mình dưới ánh trăng
và “Cất chén mời trăng sáng”.
Trang 12
Đêm thanh tĩnh thi nhân không ngủ được có biết bao nỗi niềm hoài cảm
đến với ông. Ánh trăng sáng nơi đầu giường, ràn rụa trên mặt đất khiến nhà thơ
ngỡ là sương xa…
Trăng trong cái đêm này là trăng trĩu nặng suy tư. Ông ngẩng đầu ngắm
trăng như đẫ bao lần từng ngắm, nhưng vầng trăng đêm nay - cái đêm thanh tĩnh
này lại có sức lay động tới miền sâu thẳm nhất trong kí nhà thơ về vầng trăng
quê hương thủa nào. Vì cái ngoại cảnh ấy còn như là cái cớ để nhà thơ trở lại
với chính mình. Hai câu thơ:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Đối nhau thật thú vị. Hai tư thế, hai tâm trạng nhưng chỉ trong một con
người. Niềm vui trăng sáng là bất tận và nỗi nhớ cố hương là khôn cùng. Trăng

sáng là hôm nay còn cố hương là hôm qua nhưng cái hôm qua lại là nền tảng
cho những cái gì có ở hôm nay
Câu thơ kết mở ra một thế giới mênh mang của tâm trạng. Có biết bao
điều để nói sau cái động tác”cúi đầu nhớ cố hương”ấy. Một thời trai trẻ với bao
ước mơ, kỳ vọng như sống lại trong tâm tưởng nhà thơ; những kỉ niệm ngọt bùi
và cay đắng của một thời phiêu lãng cũng lần lượt trở về…
Quá khứ và hiện tại, xa xôi và gần gũi,mộng mơ và hiện thực…dường
như cứ đan xen trong nỗi niềm hoài cảm của Lý Bạch. Lời thơ tuy đã dứt nhưng
một biển tình lại rộng mở mà không cần thêm một lời nào nữa ngoài bốn dòng
thơ với hai mươi chữ. Thật kì diệu lắm thay!
Qua quá trình giãng dạy và áp dụng 1 số biện pháp ở phân môn này tôi
nhận thấy học sinh rất hứng thú, tích cực trong học tập, chất lượng học tập của
học sinh cũng được nâng cao đặc biệt là học sinh yếu kém .
Qua quá trình áp dụng một số biện pháp trên đã tiến hành khảo sát chất lượng
học tập của học sinh ở phân môn từ ngữ đã thu được kết quả như sau :
Học sinh được
khảo sát
Giỏi Khá TB Yếu
36 HS 03 HS 10 HS 23 HS 01 HS
Trang 13
9,7 % 32,3 % 63,9 % 3,2%
C - PHẦN KẾT LUẬN
I/ KẾT LUẬN CHUNG:
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được
môn văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn.
Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh ,môn văn sẽ giữ
lại tâm hồn con ngời, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với
con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu ,tham khảo
sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới
mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và học thơ Đường. Từ đó, rất hi vọng kết

quả học văn của các em sẽ tốt hơn; các em sẽ yêu thích, ham mê môn văn hơn
nữa.
II/ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
1/ Đối với phụ huynh:
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời
gian cho con cái học tập, không nên để cho các em phụ giúp nhiều công việc gia
đình
- Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định
hướng ,bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc
lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống cũng như trong việc hoc-
cảm thụ thơ văn nói chung và thơ Đường nói riêng.
- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu,
nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình
2/ Đối với phòng giáo dục:
- Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm
để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích
cực nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn
Trang 14
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với
giáo viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn
- Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ
thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy văn
3/ Đối với địa phương:
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ
không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư
cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học

Đăk Mil, ngày 25 tháng 4 năm 2012
Người viết

Trần Thị Hoa
Trang 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 7
2. Tuyển tập “Thơ Đường" bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS
chu kì III (2004–2007 ) môn ngữ văn – quyển 1 và 2 – NXB Giáo dục
3. Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và
tích cực – Đoàn Thị Kim Nhung - NXB Đại học quốc gia.

Trang 16
MỤC LỤC
A-PHẦN MỞ ĐẦU
I. MỤC ĐÍCH, LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trang 1
II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Trang 1
III. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH Trang 2
B- PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Trang 2
I.MỘT VÀI NÉT ĐẶC SẮC CỦA THƠ ĐƯỜNG Trang
2,3,4,5,6
II. MỘT VÀI BÀI THƠ ĐƯỜNG TRONG CHƯƠNG TRINH THCS Trang
7,8,9
C-KẾT LUẬN Trang 10
I. KẾT LUẬN CHUNG Trang 10
II.MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ,KIẾN NGHỊ
Trang 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 12
Ý kiến nhận xét của tổ chuyên môn:
TỔNG ĐIỂM:
XẾP LOẠI:
ĐăkMil, ngày……… tháng……năm2012
Người đánh giá:

Trang 17
Tổ trưởng.
Ý kiến nhận xét của Ban giám hiệu nhà trường:
TỔNG ĐIỂM:
XẾP LOẠI
Đăk mil,Ngày…… tháng……năm2012
Người đánh giá:
TM. BAN GIÁM HIỆU:
Hiệu trưởng.
Trang 18
Trang 19
Trang 20

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×