Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY TOÁN LỚP 4 THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.81 KB, 13 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY TOÁN LỚP 4 THEO HƯỚNG:
“TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ”
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
1)Cơ sở lí luận

:
Giáo dục Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỉ 21 chứng kiến sự bứt phá ngoạn
mục từ nội tại và cả sự tác động từ phía xã hội. Lộ trình đổi mới chương trình, đổi mới
phương pháp, thay sách giáo khoa như là một bước đột phá sống còn của giáo dục nhằm
nâng cấp sản phẩm bắt kịp xu thế toàn cầu hóa của thời đại và bước đầu đã cho thấy
những kết quả rất đáng ghi nhận. Cuộc chiến chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục, việc nói không với hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo, nói không với
việc học sinh ngồi nhầm lớp cho dù vẫn đang rất gian nan song bước đầu đã nhận được
sự đồng thuận cao từ các thầy cô giáo, các em học sinh và cả dư luận xã hội. Phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đang từng bước tạo ra môi
trường giáo dục lành mạnh, gắn bó và đáp ứng tối đa dự đòi hỏi của thực tiễn.Những năm
gần đây Đảng, nhà nước, ngành đã dành những sự quan tâm đầu tư đáng kể cho giáo dục.
Những chính sách, chủ trương mới liên tục được cập nhật đã mở ra những lối đi mới cho
sự phát triển của giáo dục nước nhà. Chỉ thị 40CT/TW của Ban Bí thư Trung Ương Đảng
về việc nâng cao phẩm chất chính trị và năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ quản lí
và giáo viên, Luật giáo dục 2005 được Quốc hội thông qua, các chỉ thị của chính phủ
quan tâm đến đạo đức nhà giáo. Hay chỉ thị 40/2008/CT- BGDDT; kế hoạch liên ngành
số 7575/ KHLN/BGDDT – Giữa bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch- Bộ GD-ĐT- Trung
Ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai phong trào thi đua “Xây sựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” là những minh chứng rõ nét nhất cho tham vọng
đổi mới toàn diện nền giáo dục nước nhà. Tuy nhiên, do hạn chế năng lực của người dạy,
người học, hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất và môi trường dạy học nên công bằng mà
nói để nhanh chóng đuổi kịp các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới thì
sự nỗ lực tự vận động là điều chúng ta không thể không quan tâm. Trong đó, vai trò của


người thầy được xác định như là yếu tố mấu chốt để giải quyết kịp thời những bức bách,
mâu thuẫn đang hiện hữu trong nền giáo dục chúng ta. Vì vậy, sự trăn trở cho mỗi giờ
dạy, mỗi môn học là điều mà mỗi giáo viên như chúng tôi không thể không quan tâm.
2) Cơ sở thực tiễn :
Với bề dày gần 20 năm trực tiếp đứng lớp, qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ
các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy, việc
học tại trường TH Lê Hồng Phong- Đông Hà- Quảng Trị, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn
nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Cho dù lộ trình đổi mới phương pháp đã có một
thời gian dài thực hiện và những ưu thế của nó là điều không thể phủ nhận, song chưa có
ai dám khẳng đinh rằng ở mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo nhất các tiêu
chí của dạy học hiện đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật
mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới.
Một bộ phận học sinh tiếp cận với phương pháp mới một cách hờ hửng, thiếu sẳn sàng và
thiếu tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xử lí thông tin còn hạn chế.Trường TH Lê
Hồng phong- Đông Hà- Quảng Trị nơi tôi đang công tác cũng không thể tránh khỏi
những khiếm khuyết chung của nền giáo dục nước nhà. Trước thực tế đó, bản thân đã
dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn
toán, sau nhiều lần thử nghiệm, bước đầu chúng tôi đã tìm được một số giải pháp hữu
hiệu giúp học sinh tiếp cận nhanh với phương pháp dạy học hiện đại.Chính vì vậy tôi đã
đi sâu vào tìm hiểu “ Một số phương pháp dạy Toán lớp 4 theo hướng “ Tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh ”, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn
học này.
II. Mục đích, phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu :
1. Mục đích :
Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở trường TH Lê Hồng
Phong nói riêng. Thu thập, tập hợp xử lí thông tin, tìm ra những giải pháp cần thiết để
hoàn thiện dần phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học.
2. Phạm vi nghiên cứu :
Nghiên cứu việc dạy và học môn toán lớp 4 tại trường TH Lê Hồng Phong- Đông
Hà- Quảng Trị.

3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :
- Nghiên cứu việc dạy môn toán của giáo viên, việc học môn toán của học sinh lớp
4A nói riêng và tại trường Th Lê Hồng Phong nói chung.
- Chủ yếu sử dụng các phương pháp thông thường. Thu thập thông tin thực tế, xử lí
số liệu, kiểm chứng bằng thực tiễn dạy học để đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc
xây dựng phương án dạy học môn toán bậc tiểu học một cách tối ưu nhất.
B . P H Ầ N N Ộ I D U N G
I . K h ả o s á t t ì n h h ì n h

:
1 . K h ả o s á t s ố l i ệ u
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4A đầu năm học 2011 – 2012 như
sau:
Tổng số
học
sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
25 TS % TS % TS % TS %
9 36 8 32 4 16 4 8


2. Thuận lợi :
- Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở bậc tiểu học nên kính nghiệm thực tế tích

lũy được tương đối nhiều.
- Hội đồng sư phạm trường nhiều đồng chí có kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy lại
luôn có quyết tâm nhất quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân học hỏi và rút kinh
nghiệm được nhiều vấn đề hữu ích.
- Học sinh phần lớn chăm ngoan và rất chịu khó, lại tiếp cận khá nhanh với phương
pháp mới nên việc thử nghiệm đề tài luôn nhận được sự ủng hộ từ phía các em.
3. Khó khăn :
- Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên cho dù đã rất
cố gắng, kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
- Tài liệu tham khảo thiếu, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn hẹp ảnh hưởng khá
nhiều đến việc sử dụng các giải pháp mới.
- Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình lại không quan tâm nên việc
tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn rất kĩ nhưng chưa thể đáp ứng
được yêu cầu đề ra.
- Đối tượng học sinh trong mỗi lớp không đồng đều, nhiều em quá yếu. Việc chú ý đối
tượng đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình nghiên cứu.
- Phương tiện dạy học vẫn chưa thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tiễn dạy học
hiện đại.
II. Những nội dung và giải pháp đã thực hiện :
1.Các nội dung và phương pháp dạy học theo hướng tích cực:
1.1 .Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với
một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một
hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý
đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò.
Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số”. Hình thành phép tính nhân của 2 phân
số và . Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn
đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không
phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ,
chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách

tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu
hỏi sau:
Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết
x = ? (HS nêu: x = )
- Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích?
(8 là tổng số ô của hình chữ nhật.)
* HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số
ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8.
- 4 và 2 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 4 và 2 là tử số của các phân
số trong phép nhân x ).
- Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m
2
ta làm thế nào? ( lấy 5 x 3 = 15
(ô)).
- Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 5 và 3 là mẫu số của
các phân số trong phép nhân x ).
- Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? ( ta lấy tử số nhân tử
số, mẫu số nhân mẫu số).
- Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc
nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.
1.2.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và
giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ).
* Bài toán: Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy.
Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ( Toán 4 trang 127 ).
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện
kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau: Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần
thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ).

Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình
huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng
vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân
số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm
cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng
mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt
động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.
1.3. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm
nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính
chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức
mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát
hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra
thống kê.
Ví dụ bài: Diện tích hình thoi.
- Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m,
BD = n (hình a)
- Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có
thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam
giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).
Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) = m
= .
* Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam
giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c).
Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD)


( Hình a ) ( Hình b ) ( Hình c )

Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp
tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động
dạy học.
1.4. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ
sở giải loại toán sắp học.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ
dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và
các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”.
Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bắng nhau.
Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”.
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”.
Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cà 15.000
đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”.
- Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập:
+Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng con làm
2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng.
+Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia
đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước (đặt 5 que tính vào phần lớn).
- Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ).
- Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ).
- Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính )
- Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ).
- Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ).
- Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.
1.5.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát
huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính
chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự
phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.

Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh
cùng thực hành trên băng giấy
– Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều
ngang:
+ Tô màu vào băng giấy
+ Tô màu vào băng giấy
Nhìn vào băng giấy HS dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy.
Học sinh nêu: + = = .
Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và
giữ nguyên mẫu số.
1.6. Khi dạy thực hành luyện tập GV cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia
vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách:
– Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả
bài dễ, bài khó.
- Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp
theo.
- Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác:
- Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”
- + + = + ( + ) = + =
Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết
quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính
chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện.
Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại
kiến thức đã học đó là:
v Tính chất giao hoán của phép nhân.
v Tính chất kết hợp của phép nhân.
v Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ).
v Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ).
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính

chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 10 = 20 ( Áp dụng tính chất nhân một
số với một tổng ).
2. Giải pháp đã thực hiện:
1. Đối với học sinh :
- Chủ yếu là xây dựng phương pháp học tập và phong cách học kết hợp tự rèn luyện
và hình thành mạng lưới học nhóm, học tổ, học bất kì nơi nào, dù ở nhà, ở trường cũng
luôn phải nghiêm túc và tập trung trong khi học tập.
- Không được bỏ qua hay lơ là dù một bài tập nhỏ, dù một bài tập đơn giản, hay một
nội dung ngắn gọn.
- Từ kiến thức toán đã học phải rèn luyện kĩ năng thực nghiệm, tư duy, sáng tạo.
- Mỗi học sinh đều phải có vở ghi chép những kiến thức trọng tâm của từng phần,
từng chương, hoặc ghi chép những công thức, những ý tưởng sáng tạo, những gì mà học
sinh cảm thấy cần phục vụ cho việc học môn Toán,…
- Mỗi học sinh đều phải có sách Sách giáo khoa, vở, dụng cụ học tập đầy đủ.
- Chuẩn bị cho một tiết học, từng đối tượng học sinh được giao nhiệm vụ cụ thể.
Trưởng nhóm học tập giúp giáo viên kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở bước đầu và có nhiệm
vụ báo cáo việc chuẩn bị của các thành viên cho thầy cô giáo.
- Trong mỗi bài học mỗi học sinh đều phải thực hành được những phép tính , bài tính
(tùy theo đối tượng) để đặt ra yêu cầu thấp hay cao nhằm kích thích sự tập trung và tinh
thần hưng phấn của học sinh trong giờ học và nêu ra phát minh mới mà học sinh tìm
được.
- Chú ý quan tâm đến từng đối tượng học sinh, không để học sinh đứng ngoài lề bài
giảng.
2. Đối với giáo viên :

Gồm một chuỗi hệ thống những công việc phải chuẩn bị như trong quá trình lên lớp
đó là:
- Xác định nội dung yêu cầu kiến thức kĩ năng cần cung cấp truyền đạt và rèn luyện
cho học sinh.

- Nắm bắt được trình độ, khả năng từng đối tượng để có những yêu cầu đặt ra cho phù
hợp.
- Nghiên cứu nội dung bài soạn, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và Hướng dẫn điều
chỉnh nội dung dạy học; nghiên cứu sách tham khảo,… để có biện pháp đưa ra PPDH hợp
lí và hữu hiệu phát huy tính tích cực của học sinh.
- ĐDDH cũng hết sức lưu ý phù hợp với tâm sinh lí của từng đối tượng học sinh, từ
ngữ, ngôn ngữ phải trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu. Bài soạn phải thay đổi linh hoạt các
phương pháp dạy học tích cực, sự chủ động học tập của học sinh, kích thích mỗi học sinh
đều phải tham gia xây dựng bài ngay tại lớp và có nội dung thực nghiệm, phát minh cái
mới. Tránh hiện tượng thụ động của học sinh .“ Thầy hướng dẫn, trò tìm tòi nghiên cứu”
phát minh cách giảng giải tranh luận và đi đến thống nhất kết quả chung.
- Kiểm tra bài học là một việc thường xuyên không thể thiếu dù thời gian và lượng
kiến thức nào cũng bố trí kiểm tra đầy đủ để có cơ sở nắm chắc được mức độ hiểu bài của
học sinh, củng cố kịp thời kiến thức cũ, khắc sâu kiến thức mới. Đồng thời tổ chức nhiều
hình thức trò chơi toán học.
- Công tác luyện tâp thực hành là nhiệm vụ hàng đầu trong môn học Toán. Người giáo
viên cần phải hướng dẫn gợi ý để các em có điều kiện thực hành và thực nghiệm sáng
kiến cái mới.
- Mặt khác hết sức coi trọng công việc học nhóm, đôi bạn học tập, học ở nhà của học
sinh, khai thác tốt sự hổ trợ, giúp đỡ của bạn bè, của gia đình.
* Tóm lại: Với những nội dung nêu trên đòi hỏi từng học sinh, mỗi thầy cô đều phải có
sự nổ lực và phấn đấu mới mong được dạy học có hiệu quả.
3 . K ế t q u ả đ ạ t đ ư ợ c

:
Từ việc đổi mới các phương pháp dạy học như trên tôi thấy chất lượng học sinh dần
dần được nâng cao. Học sinh đã tự giác, hứng thú, chủ động và tích cực tham gia các hoạt
động dạy học, không rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày một tiến bộ do
trình độ nhận thức của các em ngày càng được nâng cao, tích cực phát biểu xây dựng bài
hứng thú và ham thích học toán, làm bài, học bài đầy đủ . học sinh dần dần chiếm lĩnh

kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu
hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Kết quả kiểm tra giữa HKI năm học 2011-2012:
Tổng số
học sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
25
TS % TS % TS % TS %
10 40 6 24 7 28 2 8

Kết quả kiểm tra cuối HKI năm học 2011 – 2012:
Tổng số
học
sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
25 TS % TS % TS % TS %

10 40 8 32 6 24 1 4

Kết quả kiểm tra giữa HKII năm học 2011 - 2012:
Tổng số
học
sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
25 TS % TS % TS % TS %
11 44 7 28 7 28 0 0
Qua bảng thống kê chất lượng trên phần nào cho thấy số lượng học sinh khá giỏi
tăng lên giảm được học sinh yếu, số học sinh ham thích học môn toán cũng tăng lên so
với đầu năm học. Nếu chúng ta vận dụng linh hoạt việc đổi mới phương pháp dạy học thì
chắc chắn chất lượng cuối năm sẽ tăng cao.
4. Bài học kinh nghiệm :
Chất lượng môn toán rất quan trọng dối với việc giáo dục hiện nay. Là nền móng của
việc dạy học toán sau này. Trong quá trình dạy học tôi rút ra kinh nghiệm:
-Trước hết phải nói đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy tích cực và nhiệt tình trong
đổi mới PPDH, góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả việc giảng dạy môn toán.
- Muốn nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu học chúng ta cần lưu ý:
+ Linh hoạt trong đổi mới PPDH.
+ Tạo cho học sinh hứng thú và ham thích học môn toán.
+ Nắm được từng đối tượng học sinh, tạo được nhu cầu học tập trong các em.
+ Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập chu đáo( học nhóm, học tổ,…)

+ Công tác chuẩn bị từng bài dạy thật kĩ phù hợp từng nội dung, soạn giảng chu đáo
gọn nhẹ.
+ Dụng cụ, phương tiện dạy- học phải đầy đủ.
+ Tổ chức nhiều hình thức học tập cho có tính hấp dẫn.
+ Thường xuyên kiểm tra, củng cố hệ thống kiến thức.
+ Phát huy tính tích cực, tính tự học, tìm tòi, tự phát hiện cái mới, cái hay,… để tự
chiếm lĩnh tri thức.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận chung :
Dạy toán, học toán ở trường Tiểu học là một phạm trù rộng lớn. Nó chứa đựng một
chuỗi hệ thống các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học. Vì thế, bản thân luôn
xác định đổi mới phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học không hề đơn giản và cũng
không thể thực hiện nhanh chóng trong ngày một ngày hai. Vì thế, khi nghiên cứu đề tai
này, thực sự chúng tôi không có tham vọng tạo chuyển biến có tính chất đột phá trong
việc dạy, việc học môn toán ở trường tiểu học mà chỉ hi vọng góp một phần nhỏ tháo gỡ
một vài khía cạnh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán tại trường TH Lê Hồng
Phong nói riêng và bậc tiểu học nói chung. Tuy nhiên, do ràng buộc hạn chế về kinh
nghiệm, sự thiếu hụt về mặt thời gian và tầm nhìn. Chúng tôi biết chắc đề tài vẫn còn
chứa đựng quá nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong được quan tâm tham gia bàn bạc
của quý cấp quản lí và các đồng nghiệp.
2. Kiến nghị đề xuất :
*Đối với giáo viên :
- Tất cả các giáo viên giảng dạy ở tiểu học phải sử dụng các PPDH linh hoạt, phù hợp
với lớp, với từng học sinh.
- Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ ĐDDH, thiết bị dạy học.
- Tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới
phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán.
- Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo học sinh về môn toán.
*Đối với nhà trường và các cấp :
- Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo cho giáo viên.

- Bổ sung đồ dùng dạy học đủ cho các lớp sử dụng.
- Tổ chức thi, kiểm tra chất lượng từng kì.
- Tổ chức thi học sinh giỏi.
- Có thể bố trí giáo viên dạy chuyên toán.
- Cần thường xuyên mở chuyên đề, tổ chức thao hội giảng, bồi dưỡng thường xuyên
cho giáo viên.
*Đối với phụ huynh :
- Quan tâm đến việc học tập của con em, thường xuyên kiểm tra sách vở, đốc thúc,
quản lí việc học ở nhà.
- Chú ý đến học sinh nghèo, khuyết tật, cần mở quỹ khuyến học giúp đỡ, khen thưởng
kịp thời.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi nhận thấy, mong quí đồng nghiệp góp ý, bổ sung
thêm cho tốt hơn, tôi chân thành cảm ơn.
Đông Hà, ngày 20 tháng 4 năm 2012
Người viết

Nguyễn Thị Như Lệ

×