Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số phương pháp dạy toán lớp 4 theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.47 KB, 19 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY TOÁN LỚP 4 THEO HƯỚNG:
“TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ” ”
PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU.
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong chương trình môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm số giờ
rất lớn. Việc sử dụng phương pháp dạy học ( PPDH ) giống như đồ nghề
của người thợ mộc, chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tùy
thuộc vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và học, tùy thuộc
vào hoàn cảnh dạy học cụ thể: Đối tượng học sinh, thiết bị dạy học và
không khí học tập. Trong thực tiễn không một giáo viên có kinh nghiệm
nào lại sử dụng đơn điệu một phương pháp trong hoạt động dạy học của
mình. Dạy học cũng như người thợ mộc, để thực hiện một thao tác nhằm
tạo ra một chi tiết thì chỉ cần một công cụ, nhưng muốn có một sản phẩm
trọn vẹn ( bàn, nghế, tủ,…) thì phải phối hợp nhiều thao tác, sử dụng nhiều
công cụ khác nhau. Nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối hợp các PPDH
trong một bài dạy của một người giáo viên.
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Toán ở tiểu học nói
riêng người giáo viên phải biết kết hợp nhiều PPDH vào trong một tiết dạy.
Không được xem nhẹ một phương pháp nào, mỗi PPDH có những mặt tích
cức và hạn chế riêng, không nên tuyệt đối hóa một PPDH nào. Để tổ chức
hoạt động dạy học hiệu quả, giáo viên cần biết cách lựa chọn, sử dụng ưu
thế của từng PPDH phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở
từng lớp học, ở tửng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho ngành Giáo dục là
phải đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học để sao cho nền giáo dục
Trang 1
nước nhà đem lại kết quả ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như
các nước tiên tiến trên thế giới.


Bộ Giáo dục đang triển khai đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục –
đào tạo trong đó có đổi mới chương trình giáo dục các cấp học nói chung,
chương trình Tiểu học nói riêng và góp phần phát triển nhanh chóng quy
mô cũng như chất lượng giáo dục phổ thông, Nhưng trước yêu cầu cấp
bách đến việc chuẩn bị cho lớp người lao động mới phục vụ công nghiệp
hóa , hiện đại hóa đất nước, việc đổi mới các phương pháp dạy học, đổi
mới PPDH Toán lớp 4 là yêu cầu cần thiết.
Trong đó môn Toán nói chung, môn Toán lớp 4 nói riêng là nền tảng
cho nền kiến thức sau này. Các em mà hổng kiến thức ở bậc Tiểu học thì
sau này các em khó có thể giải các bài toán ở bậc cao hơn. Mà bất cứ một
ngành nào hay một lĩnh vực nào thì Toán học cũng giúp chúng ta thành
đạt, giúp mọi nhà doanh nghiệp hay các nhà khoa học thành công trong
việc nghiên cứu. Vậy muốn có được kết quả như mong muốn chúng ta phải
gây dựng, kèm cặp ngay từ bậc Tiểu học là quan trọng nhất. Như chúng ta
đã biết: Toán là “ sai một li đi một dặm ”, có nghĩa là Toán rất cần sự tuyệt
đối chính xác.
Quan điểm chương trình mới cần thực hành, vận dụng, nên nói
chung nội dung chương trình thường tinh giảm, tập chung vào các kiến
thức kỹ năng cơ bản bám sát thực tế, tích hợp được nhiều mặt giáo dục.
Chương trình toán mới đã có những đổi mới để tăng cường thực
hành và ứng dụng kiến thức mới nhằm giúp học sinh học tập tích cực, linh
hoạt, sáng tạo theo năng lực của học sinh. Để đạt được mục tiêu chương
trình đề ra, trước hết giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung, khả
năng có thể khai thác trong từng bài. Điều quan trọng là giáo viên phải xây
dựng những phương pháp huy động tính tích cực của học sinh trong hoạt
động học để các em nắm chắc và vận dụng thành thạo các nội dung trong
Trang 2
từng bài, góp phần phát triển năng lực tư duy và năng lực thực hành của
học sinh.
Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế,

để giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp
dạy học. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm gì, làm
như thế nào để các em có hứng thú trong học tập, nhất là đối với môn
Toán. Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu “ Một số phương pháp dạy
Toán lớp 4 theo hướng “ Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
”, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này
Trang 3
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH.
- Trong chương trình môn Toán lớp 4, ở học kỳ I chủ yếu tập trung
vào bổ sung, hoàn thiện, tổng kết, hệ thống hóa, khái quát hóa về số tự
nhiên và dãy số tự nhiên, các phép tính và một số tính chất. Ở học kỳ II tập
trung vào dạy phân số, dấu hiệu chia hết và một số dạng về hình học.
Nội dung chương trình toán lớp 4 gồm 6 chương:
 Chương I: Số tự nhiên, bảng đơn vị đo khối lượng.
 Chương II: Bốn phép tích với các số tự nhiên. Hình học
 Chương III: Dấu bị chia hết cho 2,5,3,9. Giới thiệu hình bình hành
 Chương IV: Phân số- các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi.
 ChươngV: Tỉ số- Một số bài toán liên quan đế tỉ số. Tỉ lệ bản đồ.
 Chương VI: Ôn tập.
Về nội dung chương trình toán lớp 4: Mỗi chương là một mảng kiến
thức
Bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phần giảng dạy phù hợp với yêu cầu
bài học và đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên phải giúp các em có phương
pháp lĩnh hội tri thức Toán học. Học sinh có phương pháp học phù hợp với
từng dạng bài toán thì việc học mới đạt kết quả cao. Thực tế cho thấy ở
đơn vị tôi các em học Toán rất yếu, trường chưa có lớp dạy học 2
buổi/ngày, cho nên khi học sinh học Toán còn nhiều khó khăn.
Trang 4
II. NHỮNG HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN:

1. Về phía giáo viên:
Ở các lớp 1,2,3 học sinh chủ yếu nhận biết các khái niệm ban đầu,
đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thực hoặc mô hình,
tranh ảnh,…do đó chỉ nhận biết cái toàn thể, cái riêng lẻ, chưa làm rõ các
mối quan hệ, tính chất của sự vật, hiện tượng. Lên lớp 4 các em được học
các kiến thức trừu tượng, khái quát, vận dụng một số tính chất của số, phép
tính, hình học dạng khái quát hơn. Các em thực hành, vận dụng nhiều: Dạy
học dựa vào hoạt động học của học sinh.
Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự
chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được
lượng kiến thức. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nhiệt tình trong công
tác giảng dạy cũng như chưa đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Tổ chức các hình thức dạy và
học chưa phong phú và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy, chưa
lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Từ đó dẫn đến
tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.
Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc
giới thiệu bài cũng hết sức quan trọng vì nó là một sự chuyển tiếp giữa
mảng kiến thức cũ và mảng kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo
viên chưa đầu tư, các kiến thức liên quan đến bài giảng chưa biết sử dụng
bài trước để giới thiệu dẫn dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn vào bài
mới. Ví dụ: Bài nào giáo viên cũng chỉ giới thiệu một cách khô khan
( Hôm nay chúng ta học bài: Phép cộng phân số ( tiếp theo ) ). Khai thác
nội dung kiến thức giáo viên cũng chưa làm nổi bật được khi nào bắt đầu,
khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết thúc,…Cách đặt ra tình huống có
vấn đề, tự nhớ lại kiến thức cũ và vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo
trong giờ học.
Trang 5
Ví dụ: Bài: “ So sánh hai phân số khác mẫu số ”. Giáo viên không
cho học sinh tự tìm cách làm để cho hai phân số có mẫu số bằng nhau mà

yêu cầu luôn học sinh quy đồng rồi so sánh tử số của 2 phân số mới. Hoặc
bài: “ Diện tích hình thoi ”, giáo viên chỉ yêu cầu tính diện tích dựa vào
hình chữ nhật, chứ không yêu cầu các em ghép hình rồi tự tìm cách tính
dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng . Đồ
dùng dạy học phong phú, lạ lẫm cũng thu hút học sinh chú ý vào bài giảng
rất là nhiều, đặc biệt những đồ dùng dạy học càng thu hút và huy động
được nhiều các giác quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số giáo
viên chỉ vẽ hình và cho học sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình:
Không cho các em thao tác và như thế các em chỉ huy động được giác quan
thị giác ( nhìn lên bảng ) và thính giác ( nghe cô giảng bài ). Ví dụ bài: “
So sánh hai phân số khác mẫu số ”. Học sinh so sánh trên hai băng giấy sẽ
dễ tiếp thu kiến thức hơn vì trực quan tác động được nhiều đến các giác
quan của các em ( có thêm xúc giác – tiếp xúc với băng giấy ) Một số giáo
viên ít dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị hay chuẩn bị đồ dùng dạy học
phục vụ cho tiết dạy thêm phong phú ( Sợ tốn thời gian ) dẫn tới việc tiếp
thu bài môn Toán chưa cao.
2. Về phía học sinh:
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2009 - 2010
như sau:
Tổng số
học sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )

32
TS % TS % TS % TS %
1 3,12 6 18,75 16 50 9 28,12
Trang 6
Qua giảng dạy tôi thấy, rất nhiều em do điều kiện kinh tế gia đình
còn khó khăn, một buổi đi học, một buổi các em phải làm việc kiếm tiền
giúp gia đình, nên chủ yếu các em học ở trên lớp là chính. Vì thế việc học
của các em gặp rất nhiều trở ngại. Đặc biệt chưa nhận thức đúng vai trò
của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu
khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học
đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong
bài, các em chưa nắm được lượng kiến thức thầy giảng, rất nhanh quên và
kỹ năng tính toán chưa nhanh. Ví dụ: Khi học xong các cách giải toán về
phân số các em làm rất lộn xộn: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy
đồng rồi cộng tử số, có khi nhân phân số các em cũng quy đồng…mặc dù
khi học xong bài mới, ở lớp các em vân dụng làm bài rất tốt, nhưng khi
làm luyện tập chung lại lộn xộn. tinh thần hợp tác học tập chưa cao nhiều
em còn chưa tự tin, học thụ động.
Trang 7
PHẦN III: GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ.
I. GIẢI PHÁP.
1.Các phương pháp dạy học theo hướng tích cực:
1.1 .Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp
kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo
viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động
dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập
của trò.
Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số”. Hình thành phép tính nhân
của 2 phân số

4
3

5
2
. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số
4
3

5
2
cho học sinh là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính
sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư
duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ
thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một
cách tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ
thống câu hỏi sau:
- Hãy tính
4
3
của
5
2
.
Đây là một tình huống mà học sinh chưa thể thực hiện được ngay.
Nhưng nếu học sinh chịu khó suy nghĩ, vận dụng kiến thức đã học ( Cách
cấu tạo phân số ) hoặc giáo viên hướng dẫn thì học sinh có thể thực hiện
được. Ở đây, giáo viên muốn học sinh thực hiện câu hỏi trên để dẫn đến
cách tính

4
3
x
5
2
.
- Hãy phân tích
5
2
thành tổng của 4 phân số bằng nhau?
Trang 8
Ta có:
5
2
=
45
42
×
×
=
20
8
=
20
2
+
20
2
+
20

2
+
20
2
.
- Từ kết quả trên, hãy cho biết,
4
3
của
5
2
là bao nhiêu?
Ta có:
4
3
của
5
2

20
2
+
20
2
+
20
2
=
20
6

.
- Hãy so sánh
54
32
×
×
với kết quả
4
3
của
5
2
? (
54
32
×
×
=
20
6
).
Kết luận: Ta nói tích của
4
3
với
5
2
=
20
6

.
Viết
4
3

×

5
2
=
54
23
×
×
=
20
6
.
Giáo viên nêu công thức tổng quát:
b
a

×

d
c
=
db
ca
×

×
và yêu cầu học
sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.
1.2.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp
phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt
động dạy học.
Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ).
Bài toán: “ Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy
2
1
băng giấy, Bạn An lấy
3
1
băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ” ( Toán 4
trang 127 ).
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số
và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau:
+ Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực
hiện phép tính gì? ( phép cộng:
2
1
+
3
1
).
Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là
một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể
Trang 9
giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học

sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên
hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số
có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề
kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép
cộng 2 phân số khác mẫu số.
1.3. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác
theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy
học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học
sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh
khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải
đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê.
Ví dụ bài: Diện tích hình thoi.
Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC =
m, BD = n (hình a)
- Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo,
học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép
với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).
Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật
AMNC ) = m
×

2
n
=
2
nm×
.

* Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với
hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c).
Trang 10
Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật
MNBD) =
2
m

×
n =
2
nm×
.

( Hình a ) ( Hình b ) ( Hình c )
Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và
tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo
nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học.
1.4. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các
bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra
được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ
váo các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và
tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 bút chì,
chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần.
Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”.
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và
hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và
Hùng có tất cà 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi

bạn có bao nhiêu tiền?”.
-Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập:
Trang 11
A
B
C
D
O
A
B
C
A
B
O
D
NM
M
N
+Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia
bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của
Hùng.
+Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam
trước rồi chia đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước
(đặt 5 que tính vào phần lớn).
- Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ).
- Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 =
5.000 đồng ).
- Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính )
- Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ).
- Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ).

- Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.
1.5.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài
toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động
mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực
quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.
Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên
và học sinh cùng thực hành trên băng giấy
– Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần
theo chiều ngang:
+ Tô màu vào
8
3
băng giấy
+ Tô màu vào
8
2
băng giấy
Trang 12
Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được
8
5
băng giấy.
Học sinh nêu:
8
3
+
8
2

=
8
23 +
=
8
5
.
Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng
với nhau và giữ nguyên mẫu số.
1.6. Khi dạy thực hành luyện tập Giáo viên cần lưu ý giúp mọi học
sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng
của mình, bằng cách:
– Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ
bài nào, kể cả bài dễ, bài khó.
- Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong
chuyển sang bài tiếp theo.
- Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác:
- Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”
-
5
3
+
10
6
+
10
8
=
5
3

+ (
10
6
+
10
8
) =
5
3
+
10
14
=
10
20
Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu
thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên
hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải
thuận tiện.
Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học
sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là:
 Tính chất giao hoán của phép nhân.
 Tính chất kết hợp của phép nhân.
 Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ).
 Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ).
Trang 13
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào
vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Ví dụ: 2
×

10 + 10
×
5 = 10
×
( 2 + 5 ) = 10
×
10 = 20 ( Áp dụng tính
chất nhân một số với một tổng )
II. KẾT QUẢ:
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên, tôi
nhận thấy học sinh lớp tôi hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý
kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin,
chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học
Toán, học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề
gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả
như sau:
Kết quả kiểm tra giữa HKI năm học 2009 – 2010:
Tổng số
học sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
32
TS % TS % TS % TS %
3 9,4 10 31,25 17 53,1 2 6,25

Kết quả kiểm tra cuối HKI năm học 2009 – 2010:
Tổng số
học sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
32
TS % TS % TS % TS %
5 15,6 14 43,75 12 37,5 1 3,1

Kết quả kiểm tra giữa HKII năm học 2009 - 2010:
Tổng số
học sinh
Điểm giỏi
( 9 - 10 )
Điểm khá
( 7 - 8 )
Điểm Trung
bình ( 5 - 6 )
Điểm yếu
( Dưới 5 )
32 TS % TS % TS % TS %
Trang 14
6 18,75 16 50 10 31,25 0 0
PHẦN IV: KẾT LUẬN

1. Tóm lược các giải pháp đã thực hiện:
Trang 15
Trong công tác giảng dạy, vai trò của người Thầy rất quan trọng, đặc
biệt là môn Toán. Người giáo viên chủ yếu cung cấp cho học sinh một cách
đầy đủ, chính xác, có hệ thống kiến thức. ngoài ra, còn thường xuyên rèn
luyện cho các em những kĩ năng cần thiết giúp các em có phương pháp,
vận dụng kiến thức đã học vào việc làm các bài tập liên hệ với thực tiễn. Vì
vậy, môn học này có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục
phổ thông. Cho nên tôi đã vận dụng những phương pháp này nhằm phát
huy tính tích cực trong học tập của học sinh như sau:
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp
với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện
và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy
học.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo
nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhẳm
phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán có
tính chất chuẩn bị cơ sở việc giải loại toán sắp học.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán
phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
- Khi dạy thực hành luyện tập Giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh
đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình.
Qua những phương pháp trên, tôi thấy các em đã có hứng thú học tập và
vận dụng vào làm bài tập tương đối tốt. Mặc dù chưa được hoàn thiện,
nhưng cũng chứng tỏ trong các môn học, môn Toán cần có sự đổi mới về
phương pháp dạy học, giúp học sinh phát huy cao tính tích cực trong học
tập.
2. Phạm vi áp dụng của đề tài:

Trang 16
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh trong lớp đã nắm bắt kiến thức
nhanh và vận dụng vào làm bài một cách vững vàng. Vì vậy tôi đã cùng
với Giáo viên trong tổ khối 4,5 trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời
xây dựng chuyên đề về môn học này để cùng nhau nâng cao chất lượng
môn Toán trong chương trình học tập ở Tiểu học. Từ đó giúp các em có tri
thức trong học tập, để các em tiến tới các bậc học cao hơn.
3. Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tế áp dụng các PPDH trên vào hướng dẫn học sinh học tốt
môn Toán, bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm cần có hướng
phấn đấu:
- Giáo viên phải nắm được toàn bộ chương trình môn Toán lớp 4, nắm
vững kiến thức Toán trong SGK; SGV; chuẩn kiến thức kĩ năng. Có đầy đủ
đồ dùng dạy và học cho giáo viên và học sinh ở các tiết học. có phần củng
cố bằng các trò chơi: “ Trò chơi học Toán ” và chuyển từ kiến thức cũ giúp
học sinh khai thác kiến thức mới một cách hấp dẫn, khoa học. Biết tổ chức
các PPDH gắn với các bài tập thực hành luyện tập. giúp học sinh tự chiếm
lĩnh kiến thức mới và vận dụng làm các bài tập một cách chính xác. Đây
cũng là cách giúp các em ghi nhớ lâu những qui tắc và vận dụng giải các
bài tập đã học để khi lên lớp trên Giáo viên nhắc tới những dạng bài tập đó
là các em nhớ và vận dụng làm được ngay. Như vậy sẽ tránh được những
em học sinh lên lớp trên mà kiến thức Toán tiểu học bị hổng.
- Giáo viên cần gần gũi với học sinh hơn nữa và có sự linh hoạt trong
cách tổ chức các PPDH , giúp học sinh tự tin, giúp các em tự giác biết cách
làm bài Toán một cách khoa học, chính xác, sửa chữa những điểm yếu,
điểm sai của mình.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục: gia đình –
nhà trường – xã hội.
Trang 17
- Riêng đối với bản thân tôi, điều cần thiết và không thể coi nhẹ là phải

dạy tốt lý thuyết, từ đó mới phát triển được các tư duy, suy luận cho học
sinh. Để rèn luyện kĩ năng giải Toán cho học sinh thì trong quá trình giảng
dạy, giáo viên phải lựa chọ các phương pháp dạy tốt. Khi dạy học sinh lớp
4 học Toán, giáo viên phải đặt ra tình huống để các em suy nghĩ, tìm tòi
cách giải khác nhau.
Trên đây là một số PPDH giúp học sinh học tốt môn Toán trong chương
trình Tiểu học nói chung và chương trình Toán lớp 4 nói riêng. Trong suốt
thời gian qua bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy
và chất lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự
phấn khởi, tự tin khi học Toán. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần
không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em – những mầm non tương
lai của đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không
tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự giúp
đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để đề tài này
được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi
trong việc dạy học môn Toán ở Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thổ Sơn, ngày 25 tháng 04 năm 2010
Người viết
VŨ THỊ HUYỀN

Nhận xét, đánh giá của
Trang 18
Hội đồng chấm SKKN:
…… …………………………………………………
…… …………………………………………………
…… …………………………………………………
…… …………………………………………………
…… …………………………………………………

Thổ Sơn, ngày … tháng … năm 2010.
HỘI ĐỒNG TĐKT
NGÀNH GIÁO DỤC
……
…………………………………………………
……
…………………………………………………
……
…………………………………………………
……
…………………………………………………
……
…………………………………………………
XẾP LOẠI: …….
……………………………………
Hòn Đất, ngày … tháng … năm 2010.

Trang 19
Trang 20

×