Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.58 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT, ĐHQG TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Bài tiểu luận:
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
GVHD: ThS NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
LỚP : K09.404.A
SVTH : NHÓM 18
NGUYỄN THỊ BÌNH K094040516
NGUYỄN THANH HƯƠNG K094040557
ĐẶNG THỊ ANH THÙY K094040608
TP Hồ Chí Minh, Năm 2013
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
NHTM CP: Ngân hàng thương mại cổ phần
TCTD: Tổ chức tín dụng
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 3 NHÓM 18
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN TỪ HIỆP ƯỚC BASEL I ĐẾN BASEL III. VIỆC THỰC
THI HIỆP ƯỚC BASEL TRÊN THẾ GIỚI
1.1 Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có
những dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng cố
hoạt động và tạo ra một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Uỷ
ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision -
BCBS) được thành lập bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan
giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Ủy ban được


nhóm họp 4 lần trong một năm. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất
bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà
giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ
chức tín dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ
quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất
kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính
pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào
đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn
giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ
vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi
tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban
khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 4 NHÓM 18
gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo
thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của
nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban.
Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu
quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế
trên hai nguyên lý cơ bản là:
 Không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự
giám sát
 Việc giám sát phải tương xứng.
1.2 Sơ lược về Basel I
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng đã phê duyệt một văn bản
đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (the Basel Capital Accord hay Basel
I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu
để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ
lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng

được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Basel I
không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở
hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Thời đó, các nhà
hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10
nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng. Vì vậy, mức rủi ro tín
dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của
ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro
tín dụng của ngân hàng đó. Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988,
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 5 NHÓM 18
Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại
các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương
mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn
đối với rủi ro thị trường.
Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị
trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị
trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những
thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm
phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng
hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc là bằng mô hình
Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân
hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả
mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
Mục đích của Basel I:
 Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa nhằm củng
cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
 Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm
cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế
Thành tựu của Basel I:
 Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc

tế chung nhất về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia
làm 2 loại: Vốn cấp 1, Vốn cấp 2. Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1 + Vốn
cấp 2.
Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng
được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở
hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số tại các công ty
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 6 NHÓM 18
con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh.
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm tất cả các vốn khác như: Lợi nhuận giữ
lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất
thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các
công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.
 Đưa ra tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS
với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là
những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên
hơn 100 quốc gia.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro
gia quyền (RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức
vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi
CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
Những hạn chế của Basel I:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm
1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Trong đó, điểm hạn chế cơ bản của Basel I
là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ
ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro
tác nghiệp).
Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: Không phân biệt theo loại
rủi ro; Việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản vay; Chưa tính đến lợi

ích từ việc đa dạng hóa hoạt động (theo lý thuyết thì rủi ro sẽ giảm thông qua đa
dạng hóa danh mục đầu tư…).
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 7 NHÓM 18
1.3 Sự ra đời của Basel II và Base III
1.3.1 Basel II
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề
xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước
quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành. Sự khác biệt lớn
nhất của Basel II so với Basel I được thể hiện ở việc cấu trúc của Basel II tập trung
vào định lượng rủi ro cho các mục đích phân bổ vốn. Theo đó, Basel II hướng tới
03 mục đích chính sau đây:
 Đảm bảo vốn phân bổ theo hướng nhạy cảm rủi ro.
 Phân biệt rủi ro hoạt động và rủi ro tín dụng, đồng thời định lượng 02 loại rủi ro
này.
 Thu hẹp khoảng cách giữa vốn theo quy định và vốn kinh tế
Ba trụ cột chính
 Trụ cột thứ I
Liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro
được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng,
rủi ro tác nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách
tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường
có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất
nhạy cảm với xếp hạng.
 T rụ cột thứ II
Liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 8 NHÓM 18

các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột
này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như
rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro
pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại.
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát
Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ
đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn
nhằm duy trì mức vốn đó.
Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ
vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo
tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát
phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao
hơn mức tối thiểu theo quy định.
Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn
của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu
sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
 Trụ cột thứ III
Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân
hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ
vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro
tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng
đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 9 NHÓM 18
cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do
vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.

Mục tiêu của Basel II:
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo
lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện
quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực
quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước
vốn Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển
dần từ cơ chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới,
hướng đến một sự điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ
và các mô hình.
Ư u điểm của Basel II so với Basel I:
 Về cấu trúc và nội dung
Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn
tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội bộ
của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường.
 Về tính linh động của ứng dụng
Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các ngân hàng. Basel II
linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp khuyến khích
để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
 Về tính nhạy cảm với rủi ro
Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với rủi ro thông qua
độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công khai bắt
buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
 Về trọng số rủi ro
Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 10 NHÓM 18
Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào,

bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
 Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng
Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi
ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập
mạng lưới vị thế.
Những hạn chế của Basel II:
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng
cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng
tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Đó là:
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu
chuẩn có thể được chấp nhận rộng rãi.
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động
của chu lỳ kinh doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản
phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
1.3.1 Basel III.
Mới đây, lãnh đạo hàng đầu của các nền kinh tế thuộc G20 đã hối thúc Ủy
ban Basel đưa ra biện pháp cải thiện chất lượng và số lượng vốn của các ngân
hàng và thắt chặt yêu cầu thanh khoản (Basel III) để các ngân hàng ứng phó tốt
hơn với khủng hoảng và ngăn khủng hoảng tài chính lặp lại mà không cần đến hỗ
trợ từ chính phủ.
Theo dự thảo đưa ra tại G20, đến cuối năm 2012, Basel khuyến cáo các
nước cần áp dụng tiêu chuẩn mới về vốn và đưa ra các biện pháp linh hoạt hơn để
khuyến khích các ngân hàng thay đổi. Hiệp định Basel III được thống đốc các
ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý ngân hàng 27 thành viên (gồm
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 11 NHÓM 18
Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ,
Indonesia, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê
Út, Singapore, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và

Mỹ) ký kết hôm 12/9/2010 tại Thành phố Basel, Thụy Sỹ.
Basel III với những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu
cao hơn, cùng phương pháp giám sát an toàn vĩ mô được đánh giá là sự thay đổi
lịch sử trong quy định về hoạt động ngân hàng. Trong đó, hệ số an toàn vốn tối
thiểu (CAR) được giữ nguyên ở mức 8%, nhưng Basel III yêu cầu vốn chủ sở hữu
(vốn cấp 1) của các ngân hàng phải nâng từ 4% lên 6%. Trong 6% vốn cấp 1 đó,
4,5% phải là vốn của các cổ đông phổ thông. Thời hạn để thực hiện riêng quy
định này là ngày 1/1/2015. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu từ tháng 1/2013
và hoàn thành vào cuối năm 2018.
1.4 Việc thực thi Basel trên Thế giới
Như đã nói ở trên, Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi Thống
đốc NHTW của 10 nhóm nước (G10). Các quốc gia thuộc nhóm G10 được đại
diện bởi NHTW hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng, vì không phải
NHTW ở quốc gia nào cũng đồng thời là cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng.
Ví dụ ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng thời phụ trách việc giám
sát hoạt động hệ thống NHTM. Ở Trung Quốc, bên cạnh Ngân hàng Nhân dân
Trung quốc còn có hẳn một cơ quan riêng được thành lập để giám sát hoạt động
ngân hàng.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 12 NHÓM 18
quan giám sát hoạt động ngân hàng ở các nước. Ủy ban Basel không có bất kì
một cơ quan giám sát nào và những kết luận của nó không có tính pháp lý và yêu
cầu tuân thủ đối với hoạt động giám sát ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban chỉ xây
dựng và công bố những tiêu chuẩn, những hướng dẫn giám sát rộng rãi. Đồng
thời, giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất với kỳ vọng rằng các tổ chức riêng
lẻ sẽ áp dụng thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống
CHƯƠNG II: TRỤ CỘT II TRONG BASEL II VÀ VIỆC THỰC
THI HIỆP ƯỚC BASEL TẠI VIỆT NAM
2.1 Nội dung chính của trụ cột II Basel II

 Nguyên tắc 1
Các ngân hàng cần có một quy trình đánh giá mức độ vốn nội bộ theo danh
mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
Trong nội dung này, quản lý ngân hàng phải gánh một trách nhiệm cơ bản đối với
việc khẳng định rằng ngân hàng phải có vốn đủ để hỗ trợ các rủi ro xảy ra. Quá
trình quản lý rủi ro ngân hàng bao gồm các nội dung sau: giám sát quản lý của
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 13 NHÓM 18
ban giám đốc và cấp cao, đánh giá vốn chắc chắn, đánh giá về rủi ro toàn diện,
thanh tra và báo cáo, kiểm tra kiểm soát nội bộ.
 Nguyên tắc 2
Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ
và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ
lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp
nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này. Các tổ chức giám sát cần
kiểm tra các nội dung sau: kiểm tra tính đầy đủ của vốn của các đánh giá rủi ro,
đánh giá về tính đầy đủ vốn, đánh giá về môi trường kiểm soát, kiểm tra giám sát
về sự tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu, đáp ứng giám sát.
 Nguyên tắc 3
Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối
thiểu theo quy định.
 Nguyên tắc 4
Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân
hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay
lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
2.2 Sơ lược về thực tiễn áp dụng Basel tại Việt Nam:
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam và các TCTD Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng
lực quản trị rủi ro của các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn

mực quốc tế. Theo đó, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II được
đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 14 NHÓM 18
toàn cầu thời gian qua.
Việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Các
TCTD phải sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, bao gồm các qui trình,
thủ tục và công nghệ thông tin để đánh giá khách hàng với mức độ rủi ro tín dụng
khác nhau. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát
triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn, thách
thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính - ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới,
việc áp dụng Basel II tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực
hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các NHTM.
2.2.1 Về phía cơ quan quản lý, NHNN
Chỉ sau 2 năm kể từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín
dụng được ban hành vào năm 1997, những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an
toàn lần đầu tiên đã được NHNN nghiên cứu và cụ thể hóa bằng 2 Quyết định: (i)
Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN ngày 25/8/1999 quy định về giới hạn cho
vay với một khách hàng của TCTD; và (ii) Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN
ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD
– Đến ngày 23/4/2003, NHNN có Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 297/1999/QĐ-
NHNN ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN.
Tiếp theo đến năm 2005, để cụ thể hơn các quy định của Basel, NHNN đã
ban hành các quyết định nhằm thay thế các QĐ 296, 297, bao gồm:
(i) Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định về các tỷ
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 15 NHÓM 18

lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trong đó quy định về: (i) Cách xác
định Vốn tự có=vốn cấp I + vốn cấp II; (ii) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Tổ chức
tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa
vốn tự có so với tổng tài sản "Có" rủi ro.
(ii) Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của TCTD. Theo đó, nợ của TCTD được chia làm 5 loại: Nhóm 1(Nợ
đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4
(Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn).Tương ứng với từng nhóm
nợ có các mức trích lập dự phòng khác nhau: Nhóm 1: 0%, Nhóm 2: 5%, Nhóm
3: 20%, Nhóm 4: 50% và Nhóm 5: 100%. Các quy định tại QĐ 493 đã tiến dần
đến những đánh giá mang các yếu tố định tính và dự phòng được chia thành dự
phòng chung và dự phòng cụ thể đã hướng tới khuôn khổ thuộc dự phòng theo
Basel II.
Các quy định tại QĐ 457 và 493 tuy đã đề cập đến 1 số vấn đề liên quan
đến các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn còn ở mức hạn chế. Chính vì
vậy, vào tháng 5/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày
20/5/2010 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
(thay thế QĐ 457 và các sửa đổi có liên quan). Trong đó ngoài việc quy định lại
về việc xác định Vốn tự có= vốn cấp I + vốn cấp II, NHNN đã hướng dẫn cách
xác định tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, nâng tỷ lệ an
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 16 NHÓM 18
toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng lên 9%. Hiện tại, NHNN Việt Nam đang
khẩn trương hoàn thiện để ban hành quy định mới về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
(thay thế QĐ 493 và các sửa đổi có liên quan). Đây là bước tiến quan trọng trong
việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel II tại Việt Nam.
2.2.2 Về phía các tổ chức tín dụng Việt Nam
Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều

hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt
buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống
quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể
của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của Basel II. Các
NHTM đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ động (với các đặc trưng: Quản lý sau đối
với các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Đơn thuần thực hiện báo cáo
các kết quả đã xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ động (với các đặc trưng: Quản lý
trước và trong quá trình của các hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro; Thực
hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo những ngưỡng rủi ro; Đưa ra
các báo cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Theo đó:
- Các NHTM đã có bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt, ngoài việc quản lý
rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, các TCTD đã quan tâm đến rủi ro tác nghiệp,
một số NHTM lớn như BIDV, VCB, Vietinbank, Agribank, Techcombank,
ACB… đã thành lập bộ phận quản lý rủi ro tác nghiệp
- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ví dụ: BIDV đang hoàn
thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thông lệ quốc tế với 3 nhóm khách
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 17 NHÓM 18
hàng: khách hàng doanh nghiệp, khách hàng cá nhân và khách hàng là các tổ
chức tín dụng. Căn cứ vào các thông tin tài chính và phi tài chính của khách hàng,
BIDV chấm điểm và xếp khách hàng thành 10 loại: AAA, AA, A, BBB, BB, B,
CCC, CC, C và D. Đối với mỗi hạng khách hàng, BIDV có chính sách riêng, cụ
thể như: chính sách về tiếp thị, chính sách về cấp tín dụng, chính sách về tài sản
đảm bảo…
2.3 Thực tiễn áp dụng trụ cột 2 Hiệp ước Basel II tại Việt Nam
Công tác thanh tra, giám sát thực hiện thông qua 2 phương thức: thanh tra
tại chỗ và giám sát từ xa
Thanh tra tại chỗ: đây là hoạt động kiểm tra trực tiếp của Thanh tra Ngân
hàng tại các NHTM thông qua các đoàn kiểm tra. Hàng năm Thanh tra ngân hàng
xây dựng chương trình kế hoạch thanh tra trình Thống đốc phê duyệt và xây dựng

Đề cương chi tiết chỉ đạo toàn hệ thống thực hiện.
Hoạt động giám sát từ xa: được thực hiện thông qua việc thu thập và xử lý
các số liệu báo cáo của NHTM để đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn cơ
bản trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời, tổng hợp đánh giá chung hoạt động
của cả hệ thống, phục vụ cho sự chỉ đạo, điều hành toàn ngành của Thống đốc
NHNN. Hiện nay, hoạt động giám sát từ xa được tiến hành hàng tháng và được
thực hiện qua mạng máy tính.
Trong thời gian qua, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã từng
bước được đổi mới trên cơ sở các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro
và giám sát an toàn hệ thống ngân hàng. Cụ thể: NHNN đã có quy định, thông tư
về việc yêu cầu các ngân hàng phải đảm bảo, duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là
8%. Đồng thời, cũng quy định về việc NHNN có thể yêu cầu các NHTM duy trì
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 18 NHÓM 18
các tỷ lệ đảm bảo an toàn cao hơn mức quy định dựa vào kết quả thanh tra, kiểm
tra của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.
Tuy nhiên công tác thanh tra, giám sát các tổ chức tài chính vẫn còn nhiều
bất cập:
 Bộ máy giám sát tài chính tại ngân hàng Việt Nam chưa được xây
dựng đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo giảm thiểu rủi ro. Hiện nay,
thanh tra ngân hàng được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động
giám sát an toàn hệ thống ngân hàng trong khi vẫn có chức năng
thanh tra chuyên ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các Bộ, cơ
quan ngang Bộ khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự hạn chế việc thực thi có hiệu quả chính sách giám sát ngân hàng.
 Mô hình tổ chức, giám sát của Việt Nam là phân tán nhưng rất chồng
chéo, làm giảm hiệu quả công tác giám sát gây khó khăn cho các định
chế tài chính. Cụ thể: việc phân định chức năng, phối hợp nghiệp vụ
và trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực hiện giám sát chưa được
quy định cụ thể gây khó khăn trong quá trình tác nghiệp, hoạt động

chồng chéo.
 Quy định giám sát còn chưa đồng bộ, nhiều quy định còn chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế.
 Năng lực quản lý so với yêu cầu quản lý mới còn khoảng cách đáng
kể. Năng lực phát hiện, xử lý sai phạm còn hạn chế trong khi chế tài
xử lý vi phạm chưa đủ mạnh. Chính vì vậy, đã không hiếm trường
hợp các thành viên tham gia thị trường “chủ động” vi phạm và chịu
phạt để thu được khoản lợi nhuận nhiều hơn mức thiệt hại do bị phạt.
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 19 NHÓM 18
 Tình trạng nhiều “lượng” nhưng ít “chất”, thậm chí dẫm chân lên
nhau cũng đang khiến hệ thống giám sát thị trường tài chính bộc lộ
nhiều lỗ hổng đáng ngại.
 Phương pháp thanh tra, giám sát đang từng bước được đổi mới nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Kiểm tra tại chỗ, thanh tra tuân
thủ vẫn là vẫn là nội dung hoạt động chủ yếu, khả năng giám sát toàn
bộ thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn yếu.
 Kiểm toán nội bộ chưa phát huy được vai trò, trong nhiều trường hợp
chỉ là hình thức.
 Khuôn khổ thể chế, pháp lý chưa thích ứng được với sự thay đổi
mạnh mẽ của môi trường hoạt động thị trường tài chính.
Hiện công tác thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam chưa đáp ứng
được yêu cầu của Trụ cột II hiệp ước Basel II
2.4 Những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc áp dụng Basel II nói chung và trụ cột
2 nói riêng trong hệ thống các NHTM Việt Nam
2.4.1 Những nguyên nhân thuộc về nội dung của Basel
II
 Nội dung Basel II Quá phức
t


p
Một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc tiếp cận các quy tắc trong
hiệp ước Basel
(kể

cả
phiên bản I và II) chính sự khác biệt về ngôn ngữ. Ngôn
ngữ được thể hiện trong hiệp ước Basel

tiếng Anh, hoàn toàn chưa có một tài
liệu nghiên cứu hoặc dịch thuật chính thức nào về hiệp ước
Basel
bằng tiếng
Việt. Vì vậy, cho dù rất nhiều chuyên gia quản lý ngân hàng muốn tiếp cận
nhưng
cũng

rất
khó khăn. Mỗi văn bản ban hành từ Ủy ban Basel kể cả là văn
bản chính thức lẫn những văn
bản
bổ sung hướng dẫn thi hành đều có độ dài
từ
400 đến hơn 500 trang giấy, những thuật ngữ được sử dụng cũng thật sự không
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 20 NHÓM 18
dễ hiểu, là những
từ
mới và từ khó. Ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các văn bản
của Basle với nhiều công thức tính

toán
phức tạp, chưa gần gũi với tình hình
thực tế trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
cùng


lý do để các
chuyên gia chưa dành nhiều thời gian tìm hiểu và nghiên
cứu.
 Chi phí thực hiện ứng dụng Basel II quá
l

n
Một trong những khó khăn ảnh hưởng đến việc quyết định áp dụng Basel
II vào hệ thống
giám
sát và quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam đó chính là
chi phí vận hành theo toàn bộ chuẩn mực
của
Basel II quá lớn.
Đối
với các
ngân hàng quốc tế lớn, họ đã áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro gần
tương
thích
với Basel II và có thể tiết kiệm chi phí thông qua quy mô hoạt động.
đối
với
các nước
đang

phát triển, nhiều ngân hàng của các nước mới nổi sẽ gặp khó
khăn, vì việc chuyển sang Basel II là rất
tốn
kém, các ngân hàng cỡ nhỏ khó có
thể chịu được chi phí cố định liên quan đến việc nâng cấp
ngân
hàng. Đ
ây

một thách thức lớn đối với hệ thống tài chính Việt Nam. Theo ước tính, các
NHTM cỡ
nhỏ
phải tốn xấp xỉ 10 triệu đ
ô
la Mỹ, tương đương với 160 tỷ đồng
Việt Nam, khoảng 15% vốn điều
lệ
của các NHTM CP. Trong khi đó, nếu là
ngân hàng cỡ lớn thì chi phí vận hành hệ thống Basel này

thể lên đến 200
triệu đ
ôla
Mỹ, tương đương với 3.200 tỷ đồng Việt Nam, cao hơn mức vốn
pháp
định
của các NHTM được quy định theo nghị định 141 của Chính
phủ.
 Yêu cầu của Basel II về vốn khá
c

a
o
Hiệp ước Basel II nhằm điều chỉnh hoạt động của các tập đoàn ngân hàng
hoạt động trên
phạm
vi nhiều quốc gia, vì vậy yêu cầu an toàn vốn là một trong
những mục tiêu đặt ra hàng đầu đối
với
những ngân hàng này. Vốn này nhằm
giảm thiểu đến mức tối đa khả năng xảy ra vỡ nợ đối với
các

ngân
hàng. Mặc dù
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 21 NHÓM 18
tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu trong Basel II vẫn giữ mức 8% nhưng trên thực tế, các
ngân hàng phải duy trì mức vốn cao hơn so với mức quy định ở Basle I bởi
các
ngân hàng phải bổ sung thêm vốn để dự phòng các rủi ro hoạt động và rủi ro thị
trường. Đ
iều
này
sẽ
cực kỳ bất lợi cho các ngân hàng Việt Nam vì rủi ro hoạt
động cũng như rủi ro thị trường thấp hơn
các
ngân hàng quốc tế lớn bởi phạm vi
hoạt động của các ngân hàng tương đối
hẹp.

2.4.2 Những nguyên nhân
trong
nội tại của hệ thống ngân
hàng Việt
N
a
m
 Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel
II một cách cụ thể và chi tiết
 Nguồn nhân
l

c
Một trong những khó khăn khi xem xét việc ứng dụng hiệp ước Basel II
tại các NHTM Việt Nam đó chính là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đ
ây



vấn
đề chung đối với tất cả các NHTM và kể cả đối với cơ quan
giám sát NHTM như NHNN. Thông qua tìm hiểu những chuẩn mực Basel II
trong chương I, có thể thấy rằng để nắm vững

vận dụng được các chuẩn
mực này đòi hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát
ngân
hàng và
nhân viên phụ trách phải có một tầm hiểu biết nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn

kiến
thức

toán
học và kiến thức quản trị. Ngoài ra các kỹ năng phân tích, dự
báo cũng là những kỹ năng
không
thể thiếu. Đ
ây
thực sự là những yêu cầu cao
đối với các chuyên gia ngân hàng Việt Nam tại thời
điểm

này.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang cạnh tranh nhau rất lớn để có
thể giữ chân
những
chuyên gia giỏi, am hiểu trong lĩnh vực ngân hàng thông
qua việc ưu đãi về mức lương, thưởng

các hình thức khác như thưởng cổ
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 22 NHÓM 18
phiếu, trang bị nhà ở và phương tiện đi lại… Nhưng với tốc độ
phát
triển mạnh
mẽ như hiện nay của hệ thống ngân hàng thì số lượng chuyên gia giỏi vẫn
chưa đủ và cần một sự đào tạo và bổ sung rất
lớn.
Ngoài ra, cũng có nhiều chuyên gia giỏi đang đảm nhiệm những vị trí cấp

cao trong các
NHTM,
nhưng do không có điều kiện hoặc không đủ thời gian để
được đào tạo và tiếp cận những kiến
thức

mới
này nên cũng chưa có khả năng
vận dụng vào công việc thực tế. Chi phí cho những
khóa
học với
các
chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng thông thường là rất
lớn, đòi hỏi nhiều
thời
gian, công sức của những người được đi
học.
 Hạn chế về năng lực giám
s
á
t
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tuy chỉ mới gửi “tín hiệu” từ xa tới
thị trường tài
chính
Việt Nam nhưng đang đặt ra vấn đề rất thời sự, đó là năng
lực giám sát của nhiều quốc gia, trong đó

Việt
Nam
Giám sát tài chính ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống mà đang

được tiến hành
riêng
rẽ cho từng lĩnh vực. Ngay cả việc giám sát riêng rẽ đó
cũng nặng về giám sát tuân thủ hơn là
giám
sát rủi ro. Trong khi đó, nói đến hệ
thống tài chính là nói đến những rủi ro có tính hệ thống, là
những
rủi ro trong
từng lĩnh vực và rủi ro chéo từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Và nếu hiểu
theo
nghĩa
đó có thể thấy, hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam còn vô cùng
sơ khai. Đ
ó
là về tổ
chức.
Về kỹ thuật, cho đến giờ hoàn toàn chưa có một quy định chung nào về
giám sát hệ
thống

tài
chính tổng quát. Mặc dù các chỉ tiêu giám sát từ xa được
Thanh tra
ngân
hàng thuộc Ngân hàng trung ương áp dụng nhưng đó mới chỉ là
những chỉ tiêu mang tính định
lượng



chỉ áp dụng cho các NHTM CP, quỹ
tín dụng nhân dân. Những giá trị chỉ dẫn của chỉ tiêu định lượng thường rất
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 23 NHÓM 18
hạn chế bởi những chỉ tiêu này dựa trên chuẩn kế toán Việt Nam và phải căn
cứ
vào kết quả thống kê, mà kết quả thống kê thì phụ thuộc vào thời gian: cuối
quý, cuối năm Trong
khi
đó, rủi ro thì đến từng ngày. Vì thế, ở Việt Nam đang
rất cần một hệ thống chỉ tiêu định tính. Ở
các

nước,
ngoài hệ thống giám sát
tài chính công quyền còn có hệ thống định giá tài chính, xếp hạng tài chính
của
các tập đoàn xếp hạng tài chính như Standard & Poor’s, Fitch Ratings cũng
đưa ra những chỉ tiêu
gần
với hệ thống chỉ tiêu giám sát chung. Như vậy, thị
trường có đầy đủ các thông tin, kể cả thông tin
về
giám sát chung của Chính
phủ cũng như những thông tin về định giá hoặc thông tin về xếp hạng
tín
nhiệm của các công ty xếp hạng độc lập và nó tạo ra một hệ thống giám sát tài
chính tương đối
toàn


diện.
Về công nghệ, thực ra giám sát tài chính rất cần có công nghệ hiện đại,
ít nhất là phải có
hệ
thống thông tin quản lý (MIS) để có thể cập nhật thông
tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát nhanh
chóng


nhạy bén. Đ
iều
đó ở Việt
Nam chưa làm được. Ngân hàng Trung ương đang xây dựng hệ thống
MIS
hiện đại có tổng trị giá 70 triệu USD nhưng phải đến năm 2012 trở đi thì
mới có thể ứng dụng được, đến thời điểm đó sẽ có hệ thống phần cứng, hệ
thống data base để tiến hành
được
các phân tích tài chính vĩ mô, cập nhật
thông tin để phân tích, xác định rủi ro và đưa ra những
cảnh

báo
cho khu vực
tài chính một cách nhanh chóng và chính
xác.
Hiệp ước Basel II giao cho cơ quan quản lý ngân hàng được quyền
xem xét khả năng
ứng
dụng từng loại hệ thống đánh giá rủi để phân loại rủi ro

tài sản của TCTD. Trong thực tế, nếu như
ngân
hàng trung ương – cơ quan
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 24 NHÓM 18
quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng không đủ trình độ để kiểm
chứng
hệ thống đánh giá rủi ro của các TCTD có phù hợp hay không thì sẽ rất
nguy hiểm cho hoạt động
của
toàn hệ thống ngân hàng. Chẳng hạn như khi
được sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ,
nhiều
TCTD có thể quá lạc
quan về triển vọng khách hàng của mình và không có các biện pháp đối
phó
cũng như phòng ngừa thích hợp, dẫn đến khả năng vỡ nợ của khách hàng có
thể kéo theo sự vỡ nợ
của
ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói
chung.
CHƯƠNG
3
:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG
HIỆP
Ư

C
BASEL

II
TRONG HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NA
M
3.1 Sự cần thiết ứng dụng hiệp ước Basel II trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam
Những lý do có thể kể đến khiến hệ thống NHTM Việt Nam cần xem
xét ứng dụng
Basel
trong quản trị rủi ro và giám sát hoạt động ngân hàng
là:
Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi
một quốc gia


trải
rộng ra rất nhiều quốc gia, nhiều khu vực với những
danh mục sản phẩm dịch vụ
đa
dạng. Trên thực tế, một số NHTM của Việt
Nam đã và đang tìm cách mở chi
nhánh

của
mình ở nước ngoài nhằm tăng tính
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013
GVHD: ThS Nguyễn Thị Hai Hằng 25 NHÓM 18
chủ động trong hoạt động đồng thời tận dụng tốt
thị
trường tiềm năng trên thế

giới. Khi đã lựa chọn phương án mở chi nhánh ngân hàng tại
quốc
gia khác thì
phải tuân theo pháp luật hiện hành của họ, không thể chỉ giữ riêng theo
luật
pháp của Việt Nam.
Thứ hai, trong thời gian tới, hoạt động ngân hàng nước ngoài dự
báo sẽ
phát

triển
mạnh trên lãnh thổ Việt Nam, việc kiểm soát để hạn chế đến
mức tối đa rủi ro cho
hệ
thống ngân hàng Việt Nam cũng như bảo vệ quyền lợi
của những người gửi tiền là hết
sức
cần thiết. Nếu không có quy định luật pháp
đi trước một bước thì khi chậm chân hơn,
hệ
thống ngân hàng chúng ta sẽ phải
nhận những hậu quả có thể rất nặng
nề.
Thứ ba, hòan thiện theo các chuẩn mực quốc tế sẽ giúp các ngân hàng có
thể so sánh


đánh
giá một cách chính xác, khách quan nhất về những điểm
yếu, điểm mạnh, từ đó


những biện pháp kịp thời nâng cao năng lực cạnh
tranh của hệ thống, giảm thiểu
những
điểm yếu và bất lợi. Đ
iều
này sẽ giúp hệ
thống ngân hàng Việt Nam có thể phát triển
bền
vững và an toàn
hơn.
Với những lý do nêu trên, việc hướng đến ứng dụng hiệp ước an toàn
vốn Basel II
trong
quản trị rủi ro ngân hàng được xác định là một trong
những
mục tiêu quản trị rủi ro đối với các TCTD Việt Nam. Việc tuân thủ các chuẩn
mực quốc tế về
giám
sát ngân hàng, đặc biệt tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
Basel có ý nghĩa quan trọng trong việc
xây
dựng hệ thống ngân hàng tài chính
vững mạnh, đáp ứng các điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế còn giúp chúng
ta
xây dựng một hệ thống thanh tra
giám sát hiệu quả, hỗ trợ việc phát triển thị trường tài chính,
phát
triển hoạt động

ngân hàng vững mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh, gia tăng giá trị cho các
BÀI TIỂU LUẬN NĂM 2013

×