Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC QUY ĐỊNH GIÁ SÀN THU MUA TẠM TRỮ, DỰ TRỮ LÚA GẠO ĐẾN VIỆC CUNG ỨNG GẠO TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.05 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Tiểu luận:
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC QUY ĐỊNH GIÁ SÀN THU MUA TẠM TRỮ, DỰ TRỮ LÚA GẠO
ĐẾN VIỆC CUNG ỨNG GẠO TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU
GVHD: ThS. Mai Lê Thuý Vân
Nhóm thực hiện: nhóm 11
Nguyễn Thị Hoàng Anh K104010001
Phạm Quỳnh Anh K104010002
Trần Lê Mộng Diễm K104010012
Phan Thị Thu Hằng K104010022
Đặng Thu Hồng K104010032
Trịnh Hoàng Ngọc Dung K104010105
Bùi Hồng Uyên K104010096
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết, nông nghiệp là ngành làm việc theo mùa vụ, quá trình thu
mua lúa gạo chỉ diễn ra theo mùa vào thời gian thu hoạch. Tuy nhiên thực tế quá
trình thu mua lúa gạo còn diễn ra khá chậm chạp và có hiện tượng thương lái ép
giá nông dân, đẩy giá thu mua xuống thấp khiến người nông dân chịu nhiều thiệt
hại. Cụ thể, giá bình quân lúa tươi ngoài đồng đạt 4.400 đồng/kg đối với lúa
thường, 4.600 - 5.300 đồng/kg, nhưng với lúa chất lượng cao, lúa thơm thì giá thu
mua lúa tạm trữ được đánh giá phù hợp với tình hình thực tế trong nước và giá thị
trường quốc tế
Với dự thảo Quy chế tạm trữ lúa gạo hỗ trợ trực tiếp cho hộ nông dân trồng lúa,
một lần nữa bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thể hiện mong muốn giúp
nông dân nhận được giá gạo tối ưu, đặt mục tiêu đảm bảo hạn mức lợi nhuận tối
thiểu cho nông dân khi bán lúa là 30%.Theo tính toán của nhà nông, giá thành mỗi
kg lúa khô hiện khoảng 5.000 đồng/kg nhưng nhà nông khó đảm bảo lợi nhuận


30% như mong mỏi của ngành Nông nghiệp. Vì vậy cần có một biện pháp ổn định
giá thu mua lúa gạo nhằm bảo vệ lợi ích cho người nông dân. Trong đó việc quy
định giá sàn thu mua tạm trữ rất quan trọng, đảm bảo cho người nông dân có lãi ít
nhất 30%, đồng thời ưu tiên phân bổ chỉ tiêu mua tạm trữ ở những tỉnh có sản
lượng lúa hàng hoá lớn.
Theo Bộ Công thương, năm 2013, nước ta có khả năng xuất khẩu 7,5-8 triệu tấn
gạo. Song vấn đề lo ngại là xuất khẩu gạo năm nay chịu sức ép cạnh tranh quyết
liệt từ Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar, Pakistan trong khi những thị trường truyền
thống như Indonesia và Philippines giảm nhập khẩu, hướng tới mục tiêu tự cung tự
cấp lương thực.
Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) lo ngại, hiện giá xuất khẩu gạo của Việt Nam
đang thấp hơn giá gạo Ấn Độ và Pakistan nhưng cao hơn Myanmar và khó tăng giá
do cạnh tranh gay gắt. Hiện Thái Lan đang tồn kho khoảng 13 triệu tấn gạo, cộng
với 3 triệu tấn gạo sẽ thu hoạch trong vụ này, nâng sản lượng tồn kho lên 16 triệu
tấn. Một số thông tin cho biết, Thái Lan đang tính toán bán một lượng lớn gạo để
giảm áp lực dự trữ. Vì vậy, việc tiêu thụ lúa hè thu tới ở ĐBSCL là một thách thức
không nhỏ.
Vì vậy, việc xác định giá sàn thu mua lúa gạo hợp lý không chỉ để đảm bảo quyền
lợi của người nông dân mà còn nhằm đảm bảo giá gạo Việt Nam đủ sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. Giá sàn và vai trò của giá sàn:
1. Giá sàn:
Giá sàn là mức giá tối thiểu bắt buộc, nhằm điều chỉnh giá cao hơn mức giá cân
bằng của thị trường. Điều này gây nên hiện tượng dư thừa hàng hoá. Giá sàn được
đặt ra để bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất.
2. Vai trò của giá sàn:
Giá sàn được Chính phủ đặt ra để kiểm soát giá thị trường. Đôi khi sự thay đổi
trong cung hay cầu hàng hóa và dịch vụ đem đến giá cao hay thấp bất thường có
thể làm cho các thành phần nào đó trong xã hội được và mất một cách không công

bằng, do đó Chính phủ có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường, cố
gắng đạt đến mục tiêu công bằng trong phân phối hàng hóa và dịch vụ. Trong
trường hợp muốn bảo vệ người sản xuất, Chính phủ sẽ áp đặt mức giá sàn cao hơn
mức giá cân bằng. Chẳng hạn trong những năm gần đây Chính phủ quy định mức
giá sàn cho lúa gạo nhằm bảo vệ lợi ích cho người nông dân.
3. Giá sàn thu mua lúa gạo. Sự cần thiết phải thiết lập giá sàn thu mua
lúa gạo:
Để đảm bảo nông dân không bị thua lỗ, không có lãi thì vẫn đủ bù đắp các chi phí
sản xuất hợp lý để tái đầu tư cho vụ sau, “Chiến lược an ninh lương thực quốc gia
đến năm 2020, tầm nhìn 2030" năm 2008 có đề xuất đưa ra mức giá sàn thu mua
lúa gạo thông qua tính toán giá thành sản xuất lúa. Khi giá lúa trên thị trường
xuống dưới mức giá sàn, Chính phủ sẽ can thiệp bằng cách trực tiếp thu mua lúa
hoặc cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo vay tiền thu mua lúa của người dân để
dự trữ. Chính. Việc làm này gắn liền với việc lập các kho dự trữ tạm thời.
4. Các yếu tố tác động đến giá sàn thu mua lúa gạo:
Theo ông Đỗ Văn Hảo, Chuyên gia phân tích lúa gạo, Trung tâm thông tin Phát
Triển Nông Nghiệp Nông Thôn (AGROINFO):“Xác định giá sàn lúa ngoài việc dựa
trên cơ sở giá thành sản xuất cũng nên tính đến các yếu tố rủi ro. Theo kết quả điều
tra của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) thì trong chi phí sản xuất lúa công lao động
chiếm tỷ lệ cao nhất, trên 50%, tiếp theo là chi phí về phân bón, trên 20%, còn các
chi phí khác: giống lúa, thuốc bảo vệ thực vật đều chưa đến 10%. Tuy nhiên, các
chi phí này thường xuyên thay đổi tùy từng thời điểm, địa phương và chịu ảnh
hưởng gián tiếp từ các nhân tố khác, trong đó chi phí nhân công - bộ phận cấu
thành lớn nhất của tổng chi phí lại có xu hướng tăng lên (năm 2009 tăng khoảng
20% so với năm 2008). Ngoài ra, chi phí sản xuất lúa cũng chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi tình hình thời tiết, sâu bệnh… Vì vậy, khi xác định giá sàn thu mua lúa gạo cần
tính đến sự biến động của các yếu tố chi phí làm căn cứ để có mức giá sàn thu mua
lúa cho hợp lý. Ngoài ra cũng nên tính đến các yếu tố rủi ro khác như: thời tiết, sâu
bệnh… vì trong sản xuất nông nghiệp các yếu tố này cũng có ảnh hưởng đến chi phí
sản xuất.”

5. Biến động giá qua các năm:
Năm 2009, chính phủ công bố mức giá sàn thu mua lúa là 3.800đ/kg, nhưng trên
thực tế có những địa phương, thương lái thu mua của nông dân với giá chỉ bằng
53% mứa giá sàn. Mức chênh lệch giá bán lúa giữa các địa phương trong cùng thời
điểm cũng lớn, ví dụ tại Sóc Trăng nông dân chỉ bán được với giá trung bình
khoảng 2.012 đ/kg nhưng tại Kiên Giang là 3.900 đồng.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng giải thíchvề tình trạng này rằng khi
định ra mức giá sàn là có căn cứ vào tình hình thực tế từ các năm 2007 và 2008.
Qua thông tin thu thập được thì chi phí sản xuất ở các địa phương dao động từ
2.012 đồng đến 3.019 đg/kg, vì vậy mới định mức giá sàn thu mua khoảng 3.800
đồng. Ở giá đó, nông dân có lãi khoảng 30%. Tuy nhiên, trong thực tế, việc thu mua
lúa vẫn chưa được các doanh nghiệp xuất khẩu thu mua trực tiếp mà phải qua
thương lái nên vẫn xảy ra tình trạng ép giá. Do chúng ta định ra mức thu mua giá
sàn cho lúa, nhưng hiện các DN xuất khẩu gạo nên vẫn có tình trạng thương lái,
thương nghiệp thu mua lúa rồi xay ra gạo bán cho DN xuất khẩu.
DN chưa tham gia nhiều vào việc trực tiếp thu mua lúa nên phải qua trung gian.
Tuy nhiên vẫn có một số địa phương, nông dân bán được lúa cao hơn mức giá sàn,
điển hình như tại Kiên Giang có thời điểm nông dân bán được 3.900 đg/kg. Để giải
quyết tình trạng này, tới đây Bộ sẽ đẩy mạnh vai trò của các tổng công ty xuất khẩu
lương thực nhà nước, thúc đẩy các đơn vị này tham gia trực tiếp vào việc thu mua
lúa của dân. Việc tham gia của thương lái cũng có mặt tích cực của nó chứ không
hoàn toàn tiêu cực tuy nhiên không thể để cơ chế giá cả phụ thuộc vào “lòng tốt”
của thương lái. Để giải quyết tình trạng này, phải đẩy mạnh vai trò của các công ty
nhà nước trong việc thu mua, việc này phải làm từng bước và có căn cơ mới được.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo bằng mọi giá phải giúp nông dân sản xuất
lúa thu lãi ổn định mức 30%, vì vậy Bộ Công thương đang xây dựng quỹ bình ổn giá
lúa gạo. Quỹ này sẽ hỗ trợ trực tiếp cho các DN xuất khẩu thu mua lúa gạo khi có
biến động.
Năm 2010, VFA mua lúa của nông dân với giá tối đa 4.000 đồng/kg. Khi nông dân
bắt đầu thu hoạch vụ đông xuân, ông Phạm Văn Bảy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương

thực Việt Nam (VFA) cho biết trên Thời Báo Kinh tế Sài Gòn: "Từ tháng 3, giá lúa
thu mua có thể tăng lên chứ không giảm giá liên tục như thời gian qua. Hiện tại,
giá lúa (độ ẩm 16%) mà VFA mua tại kho là 4.300-4.400 đồng/kg”. Như vậy giá
mua lúa đông xuân của VFA khoảng 4.400 đồng/kg. Đây là giá lúa đông xuân thấp
nhất kể từ năm 2008.
Đến lúc nông dân thu hoạch vụ hè thu. Trong cuộc hợp bàn mua lúa tạm trử vụ hè
thu ngày 9/7, ông Trương Thanh Phong, Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực
miền Nam kiêm chủ tịch VFA, đưa ra giải pháp: “Chúng ta nên… phớt lờ mức lợi
nhuận 30%, phớt lờ luôn giá sàn thu mua, nhưng yêu cầu DN không được mua
dưới giá 3.500 đồng/kg, trên cơ sở đó VFA sẽ tính toán ra giá gạo để triển khai thu
mua”. Như vậy VFA mua lúa hè thu với lúa 3.500 đồng/kg.
Sau khi mua hết lúa đông xuân và hè thu của nông dân với giá tạm trữ nêu trên,
VFA tăng giá bán gạo xuất khẩu và giá thu mua lúa, vào tháng 9 giá thu mua lúa
khoảng 6.000 đồng/ kg, giá lúa này chỉ những nông dân làm vụ 3 mới bán được, số
lượng khoảng 700.000- 800.000 tấn lúa.
Lượng gạo tồn kho 1,5 triệu tấn của VFA chuyển từ năm 2009 sang, gạo này VFA
mua ở vụ hè thu 2009, với giá mua lúa tạm trữ 3.800 đồng/ kg.
Như vậy tính chung hết cả năm 2010, toàn bộ gạo xuất khẩu của VFA, mua từ mua
lúa của nông dân, với giá tối đa khoảng 4.000 đồng/kg.
Vào cuối tháng 2 vừa qua thì giá thu mua lúa ở các tỉnh, thành vùng Đồng bằng
sông Cửu Long rất thấp, khoảng 4.200 - 4.300 đồng/kg, trong khi giá thành
sảnxuất lúa vụ Đông Xuân theo công bố của Bộ Tài chính khoảng từ 3.134 - 4.474
đồng/kg, riêng Đồng Tháp giá thành là 4.201 đồng/kg nên chưa đảmbảo lãi 30%
theo chủ trương của Chính phủ.
Khảo sát biến động giá GẠO TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM. Tình hình giá gạo trên
thị trường Việt Nam hiện nay. Thông tin giá gạo xuất khẩu tăng cao đã tác động
không nhỏ đến giá gạo bán lẻ trong nước. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một số đại lý
gạo đã ngay lập tức điều chỉnh báo giá mỗi bịch 5 kg gạo tẻ tăng 3000 – 10000
đồng. Thậm chí giá nếp nhập từ Thái Lan lên tới hơn 30.000 đồng/kg, tăng 8000
đồng; nếp thơm giá 60.000 đồng/kg, tăng 12.000 đồng so vơi thời gian trước đây.

Ông Huỳnh Công Thành, Giám đốc Công ty TNHH Lương thực TP.HCM (FOOCOSA),
cho biết giá gạo trong nước tăng là do giá nguyên liệu tăng, ước chừng tăng 300
đồng/kg so với trước. Cụ thể, gạo nguyên liệu loại một (loại 5% tấm) giá 7.000-
7.100 đồng, nay tăng lên 7.450 đồng/kg; gạo thường tăng lên 7.350 đồng/kg.
Ngoài ra, hiện nay nguồn cung gạo trong nước khan trong khi một số nước đẩy
nhanh thu mua như Iraq (mua 60.000 tấn), Cuba (mua 200.000 tấn)… Đây cũng là
thời điểm mà doanh nghiệp trong nước phải giao hàng. Tại buổi họp báo chiều
10/8, Thứ trưởng Bộ công thương Nguyễn Thành Biên khẳng định, tình hình gạo
trong và ngoài nước trong thời gian qua có biến động. Cuối tháng 7, đầu tháng 8,
gạo ở TP HCM tăng từ 500 đồng đến 1.000 đồng mỗi kg. Trong một tuần qua, gạo ở
Đồng bằng sông Cửu Long từ 3.500 đồng mỗi kg vọt lên 5.500 đồng. Giá gạo xuất
khẩu của Việt Nam tăng 20-30 USD mỗi tấn. Từ tháng 4 đến tháng 7, Trung Quốc
đã nhập khẩu 600.000 tấn gạo của Việt Nam. Các đại lý gạo trong thành phố Hà
Nội, một số tỉnh phía Bắc và cả phía Nam đồng loạt nhích giá 500-3.000đồng/kg
khiến người dân xuất hiện tâm lý mua gạo về tích trữ. Các doanh nghiệp kinh
doanh gạo và một số tiểu thương cho biết: trong sự gia tăng giá chung đó, giá gạo
tăng cao nhất là gạo thơm, có lúc tăng 3000đồng/kg, còn lại đều dao động ở mức
1.000 đến 3.000đồng/kg…
Nguyên nhân khiến giá gạo biến động.
Sự biến động giá gạo trên thị trường nước ta trong thời gian qua xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau: Thứ nhất, do quan hệ cung – cầu có sự mất cân đối.
Diễn biến thất thường của thời tiết là một yếu tố tạo nên sự mất cân bằng này.
Hoạt động sản xuất bị chi phối trực tiếp bởi thiên tai, nhất là hạn hán và lũ lụt. Ở
nước ta hiện nay, diện tích đất bị khô hạn ước tính đã lên tới trên 100.000 ha, năng
suất vụ hè thu năm nay dự đoán sẽ thấp hơn so với vụ trước. Hơn nữa, vì lo ngại
trước những thiệt hại do thiên tai gây ra, dẫn đến xu hướng thu mua, tích trữ gạo
dẫn đến biến động giá gạo, tăng bất thường trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó,
diện tích đất nông nghiệp của nước ta những năm gần đây càng ngày càng bị thu
hẹp. Tỉ lệ mất đất nông nghiệp lên đến 0.4%; dự báo trong năm 2010 nước ta mất
khoảng 170.000 ha đất nông nghiệp. Diện tích đất đất trồng lúa chiếm 4 triệu ha

trên tổng số hơn 9 triệu ha đất nông nghiệp nhưng diện tích này đang ngày càng bị
thu hẹp với tỉ lệ rất cao 1% / năm. Còn trên thế giới, những biến động về giá lương
thực ở các nước xuất khẩu lương thực lớn (Trung Quốc, Thái Lan…) cũng như các
nước khác đã gây ảnh hưởng không nhỏ cho giá gạo ở Việt Nam. Theo ông Trịnh
Văn Tiến – Trưởng phòng Phân tích ngành hàng, Viện nghiên cứu chính sách và
chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho rằng việc giá gạo biến động như
thời gian qua có thể xuất phát từ việc đầu cơ tích trữ gạo của các thương lái Trung
Quốc. Trong quý I/2010, tại Trung Quốc hạn hán đã xảy ra trên địa bàn ba tỉnh
Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu. Sau hạn hán, lại tiếp tục gánh chịu đợt lũ lụt
diễn ra trong tháng 7 tại 8 tỉnh thành phố, trong đó có vựa lúa tại tỉnh Hồ Nam và
Giang Tây đã làm giảm sản lượng lúa. Theo báo cáo của Trung tâm thông tin dầu
và ngũ cốc quốc gia (CNGOIC), sau 2 đợt thiên tai vừa qua sản lượng gạo của Trung
Quốc giảm 1,2 triệu tấn. Chính vì vậy mà giá gạo ở Trung Quốc tăng đột biến. Giá
gạo trên thị trường tự do của Trung Quốc tại một số nơi đã có sự chênh lệch khá
cao với giá gạo tại đồng bằng sông Cửu Long. Các thương lái Trung Quốc chủ động
thu mua gạo từ Việt Nam và một số nước khác để đáp ứng giải quyết nhu cầu
lương thực đồng thời người nông dân nước ta, vì cuộc sống nghèo đói bấp bênh
cũng bán gạo tràn lan sang Trung Quốc để được giá cao. Tương tự, tại Pakistan,
tính từ tháng 7/2009 đến tháng 2/2010, đã xuất khẩu được 2,8 triệu tấn gạo,
tương đương 1,4 tỷ USD so với 1,2 tỷ USD cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, trong
tháng 7 vừa qua, Pakistan đã phải đối mặt với trận lụt lớn nhất trong vòng 80 năm
trở lại đây, ước tính 2,6 triệu acres (khoảng xấp xỉ 1,1 triệu ha) đất nông nghiệp bị
ngập nước, 14 triệu người bị ảnh hưởng bởi trận lụt và 6-7 triệu người trong số đó
cần lương thực khẩn cấp. Hiện chưa có thông tin chính thức về sản lượng bị giảm,
nhưng do không kịp đối phó với lũ lụt, đã có khoảng 500 ngàn tấn gạo bị ngập
nước. Các dữ kiện này cho thấy, Pakistan bị giảm sản lượng không dưới 1 triệu tấn
gạo trong vụ lúa này. Trong khi đó, các quốc gia xuất khẩu lương thực đứng hàng
đầu thế giới (Ấn Độ, Thái Lan, …) vì những nguyên nhân khách quan như thiên tai,
mất mùa, nội chiến… cũng tự động hạn chế xuất khẩu gạo ra nước ngoài để phục
vụ cho nhu cầu trong nước. Mà hiện nay nhu cầu lương thực từ các nước không

sản xuất được lương thực cũng như thiếu lương thực đang ở mức rất cao. Điển
hình là Singapore, Philippin, Afganistan, Congo, Angola… Lương thực sản xuất ra
trước hết phải đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước rồi phần dư mới dành để xuất
khẩu. Việc gạo Việt Nam bị bán tràn lan sang Trung Quốc gây nguy cơ cho trình
trạng mất ổn định lương khố quốc gia, làm cho giá gạo trên thị trường Việt Nam
biến động liên tục. Ngoài ra, còn một nguyên nhân khác nữa khiến quan hệ cung –
cầu có sự mất cân đối lớn. Nguyên nhân đó xuất phát ngay từ đầu vào và đầu ra
của gạo. Trước và trong khi gieo trồng, để đảm bảo sản phẩm có năng suất cao
cũng có những tính năng ưu việt chống chịu thiên tai, sâu bệnh, người nông dân
cần chọn giống, phân bón, lo dẫn nước tưới tiêu… Tiền vốn bỏ ra mua giống mới,
phân bón tốt… đương nhiên không hề nhỏ, hơn nữa những mặt hàng này gần đây
cũng thường xuyên tăng giá. Như vậy vô hình chung, giá gạo ngay từ khi gạo chưa
thu hoạch đã được dự tính sẽ có sự biến động. Tiếp đó, đến khi thu hoạch, các
doanh nghiệp thu mua gạo nhưng không trực tiếp thu mua từ người nông dân mà
thông qua trung gian, các thương lái đẩy giá gạo một lần nữa tăng thêm. Đầu ra
của giá gạo cũng vô cùng bấp bênh dựa theo nhu cầu của thị trường. Nếu năm đó
được mùa thì gạo mất giá, nếu mất mùa thì y như rằng giá cả tăng vọt.
Thứ hai, nguyên nhân của biến động giá gạo là do ảnh hưởng của quy luật cạnh
tranh. Trong nội bộ ngành một số cá nhân, tổ chức vì lợi ích riêng trước mắt mà cố
tình tung tin đồn gây tâm lý hoang mang cho người dân, làm xáo trộn thị trường.
Các doanh nghiệp thu mua tranh nhau đầu cơ tích trữ gạo, đợi thời điểm giá gạo
tăng cao bán ra nhằm thu lợi nhuận lớn. Việc làm này góp phần làm cho thị trường
gạo càng trở nên “loạn” hơn.
Thứ ba không thể không kể đến là ảnh hưởng từ sức mua của đồng tiền. Chỉ số giá
tiêu dùng CPI gần đây tăng cao, đặc biệt trong tháng 11/2010 chỉ số CPI tăng
1,86% so với tháng 10, tăng 11,9% so với tháng 9/2009. Giá vàng có nhiều biến
động mạnh làm các mặt hàng tăng giá kéo theo sự tăng của giá gạo. Hơn nữa, tình
trạng lạm phát của nước ta hiện nay cũng đang ở mức cao, dự báo năm nay sẽ lên
đến 2 con số .Tiền Việt Nam thời gian gần đây xuống giá nghiêm trọng so với các
đồng tiền khác trên thế giới (tỉ giá USD tháng 11/2010 đã tăng 6,63% so vói tháng

10 ).
Thứ 4, ảnh hưởng của giá các loại mặt hàng khác như xăng, dầu,…
CHƯƠNG II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁ SÀN THU MUA LÚA GẠO VÀ SẢN LƯỢNG
CUNG ỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU
I. Thị trường trong nước:
Đặc điểm của thị trường trong nước là nhu cầu không có biến động lớn, nên cầu về
lúa gạo trong nước có thể xác định và dự báo chính xác. Sản lượng cung ứng có xu
hướng tăng qua từng năm nên nhu cầu của thị trường trong nước luôn được đảm
bảo ổn định. Trong phạm vi đề tài, nhóm nghiên cứu muốn chú trọng đến thị
trường xuất khẩu.
II.Thị trường xuất khẩu:
Trong bối cảnh nhu cầu thế giới gần đây có biến động mạnh theo chiều hướng
giảm, an ninh lương thực được thắt chặt, một số quốc gia muốn chủ động trong
cung cấp lương thực cho đất nước, các nước xuất khẩu tăng lên trong khi phạm vi
thị trường bị thu hẹp lại dẫn đến cạnh tranh gay gắt trên thị trường nông sản thế
giới. Lúa gạo cũng không tránh khỏi sự cạnh tranh quyết liệt này.
Trong phạm vi đề tài, nhóm nghiên cứu chỉ đề cập tới cạnh tranh về giá và phân
tích tác động của giá sàn thu mua lúa gạo tới giá xuất khẩu và khả năng cạnh
tranh của Việt Nam.
1. Tình hình chung:
Nguồn: thesaigontimes.vn
Mùa vụ 2010/2011, Việt Nam xuất khẩu 7 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng 26,37
triệu tấn, so với 6,73 triệu tấn trong mùa vụ 2009/2010. Với sản lượng này, Việt
Nam tiếp tục giữ vị trí thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, sau Thái Lan. Theo tổ
chức USDA, dự báo mùa vụ 2011/2012, Việt Nam vẫn duy trì mức xuất khẩu gạo
khoảng 7 triệu tấn. Trong khi đó, bối cảnh thị trường ngày càng cạnh tranh, nhu
cầu tại các thị trường truyền thống lại giảm, cụ thể là tại Philippines, Indonesia,
Malaysia và Bangladesh.

Hiệp hội Lương thực Việt Nam tiếp tục duy trì các quy định về đăng ký xuất khẩu

gạo và giá xuất khẩu tổi thiểu (MEP) trên cơ sở các quy định mới của Chính phủ về
xuất khẩu gạo – Nghị định số 109/2010/NĐ-CP ngày 4 tháng 11 năm 2010 của
chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo.

Nếu như mùa vụ 2009/2010 xuất khẩu gạo Việt Nam đạt mức kỷ lục 6,73 triệu tấn
thì đến mùa vụ 2011/2012 đã vượt mức kỷ lục này và đạt 7 triệu tấn. Theo báo cáo
của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, với 7,1 triệu tấn gạo đã nâng tổng kim ngạch
xuất khẩu gạo của Việt Nam lên hơn 3,5 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ mùa vụ
2009/2010. Giá trung bình xuất khẩu gạo mùa vụ 2010/2011 vào khoảng 493
USD/tấn so với mức giá 479 USD/tấn trong mùa vụ 2009/2010 và mức giá 406
USD/tấn trong mùa vụ 2008/2009.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam từ mùa vụ 2005 đến mùa vụ 2011 (đơn vị: nghìn
tấn)
Nguồn: Nguồn thông tin thương mại, tính toán của USDA.
2. Một số thị trường xuất khẩu chính:
INDONESIA
Trong hai mùa vụ 2007 và 2008, Indonesia chỉ nhập khẩu một lượng gạo nhỏ từ
Việt Nam, thì đến mùa vụ 2009/2010, nước này đã tăng lượng nhập khẩu gạo lên
1,5 triệu tấn do lượng gạo dự trữ trong nước bị ảnh hưởng bởi thiên tai và tình
trạng mất mùa. Điều này đã đưa Indonesia thành quốc gia nhập khẩu nhiều gạo
nhất của nước ta trong mùa vụ 2010/2011. Tiếp theo là Philippines với 829 nghìn
tấn, giảm so với mức 1,57 triệu tấn trong mùa vụ 2009/2010.
CHÂU PHI:
Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu Phi từ mùa vụ 2005 đến mùa vụ 2010 (đơn
vị: nghìn tấn)
Nguồn: Nguồn thông tin thương mại, tính toán của USDA
TRUNG QUỐC
Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc cũng tăng mạnh trong vài
năm trở lại đây. Chỉ tính riêng trong 3 tháng đầu mùa vụ 2011/2012, lượng gạo

xuất khẩu đã tăng gấp gần 2 lần so với toàn bộ mùa vụ 2010/2011, và gấp hơn 4
lần so với mùa vụ 2009/2010. Đây chính là cơ hội để Việt Nam bù đắp lại nhu cầu
đang có xu hướng giảm tại các thị trường truyền thống. Theo USDA, dự báo lượng
gạo xuất khẩu Việt Nam mùa vụ 2011/2012 ước đạt 800 nghìn tấn.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc từ mùa vụ 2009 đến 3 tháng
đầu mùa vụ 2011
Nguồn: Tổng Cục Hải quan Việt Nam
HOA KỲ
Triển vọng xuất khẩu gạo 9 tháng cuối mùa vụ 2011/2012 rất sáng sủa và đầy hứa
hẹn. Việt Nam có lợi thế so với Ấn Độ và Pakistan tại thị trường Hoa Kỳ nhất là đối
với loại gạo tấm 5%. Tuy nhiên, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, gạo Việt Nam
phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gay gắt đối với gạo tấm 25% của Ấn Độ. Xét về
lượng, trung bình mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sang châu Phi từ 1,2 đến 1,5 triệu
tấn gạo. Mùa mua sắm tại thịt rường châu Phi không bắt đầu vào quý đầu tiên mà
thường từ quý 2 trở đi. Gạo xuất sang châu Phi thường được bán theo cơ sở giá
FOB; hàng hóa được chuyển bằng tàu lớn và dừng lại ở nhiều cảng tại các quốc gia
châu Phi khác nhau. Chính vì vậy, rất khó để đưa ra con số chính xác về lượng gạo
xuất khẩu của Việt Nam sang châu lục này. Nhu cầu từ các nước châu Á, thị trường
xuất khẩu gạo truyền thống của Việt Nam như Philippines, Indonesia, và Malaysia
vẫn còn rất tiềm năng nhưng xu hướng trong thời gian tới có thể sẽ bão hòa.
3. Mối liên hệ giữa giá sàn thu mua lúa gạo và sản lượng cung ứng trên
thị trường xuất khẩu:
Mối quan hệ này được thể hiện thông qua giá xuất khẩu tối thiểu (MEP).
Nguồn : vinhthanhdatrice.vn
Tính đến hết tháng 9-2012, theo số liệu của Hiệp hội Lương thực VN (VFA), hợp
đồng gạo mà các doanh nghiệp đã ký đạt 7,2 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay,
nhưng giá trị xuất khẩu (XK) giảm 7,9% so với cùng kỳ năm 2011 do giá gạo giảm
mạnh. Cụ thể, giá gạo XK bình quân của chín tháng đầu năm nay đạt 443,3
USD/tấn, thấp hơn 35,7 USD/tấn so với giá bình quân cùng kỳ năm 2011. Riêng

tháng 9-2012, giá gạo XK chỉ đạt 440 USD/tấn, giảm trên 80 USD/tấn so với cùng
kỳ năm 2011.
Sau khi VFA áp đặt mức giá sàn xuất khẩu mới cho các DN XK gạo từ ngày
10/10/2012, Có thể nói XK gạo của Việt Nam đã vượt qua một chặng đường khó
khăn, chẳng những bù đắp cho sự sụt giảm XK quý I/2012 mà còn tăng vượt mức
XK năm 2011 và đạt mức XK kỷ lục mới trong năm 2012, cả năm 2012 nước ta đã
xuất khẩu 8,02 triệu tấn gạo, thu về 3,67 triệu USD (tăng 12,71% về lượng và tăng
nhẹ 0,45% về kim ngạch so với năm 2011). Trung Quốc là thị trường lớn nhất tiêu
thụ gạo của Việt Nam với 2,09 triệu tấn, tương đương 898,43 triệu USD, chiếm
24,46% tổng kim ngạch, tăng mạnh 574,97% về lượng và tăng 459,11% về kim
ngạch so với năm trước. Thị trường lớn thứ 2 là Philipines đạt 1,11 triệu tấn, trị
giá 475,26 triệu USD, chiếm 12,94% tổng kim ngạch, tăng 14% về lượng nhưng
giảm 0,22% về kim ngạch; tiếp đến Indonesia đạt 929.905 tấn, trị giá 458,39 triệu
USD, chiếm 12,48% tổng kim ngạch, giảm 50,62% về lượng và giảm 55% về kim
ngạch; xuất sang Malaysia 764.692 tấn, trị giá 403,16 triệu USD, chiếm 10.98%,
tăng 44,16% về lượng và tăng 38,02% về kim ngạch.
Giá XK bình quân FOB đạt 446,86 USD/tấn FOB, giảm 46,85 USD/tấn so với cùng
kỳ. Tuy lượng gạo XK cao nhưng trị giá XK tăng không đáng kể do giá bình quân
giảm. Năm 2012, ngoài cơ cấu thị trường gạo XK thay đổi, chất lượng gạo XK đã có
sự chuyển biến nhất định, tỷ lệ gạo cao cấp đã chiếm trên 46% về lượng và tăng
trên 79% so với năm 2011, loại gạo trung bình và cấp thấp đã giảm mạnh, chiếm
khoảng 35% và giảm khoảng 32% so với năm 2011.
Cơ cấu gạo xuất khẩu năm qua có nhiều thay đổi. Những năm trước đây Việt Nam
được biết đến như thị trường cung cấp gạo phẩm cấp thấp thì năm 2012, lần đầu
tiên chủng loại gạo cao cấp xuất khẩu của nước ta chiếm chiếm 46% tổng sản
lượng xuất khẩu với trên 3 triệu rưỡi tấn. Châu Á là thị trường xuất khẩu gạo
chính của VN trong năm 2012 và chiếm hơn 70% tổng sản lượng xuất khẩu. Do vậy,
vụ đông xuân 2012 – 2013 này, giống lúa chất lượng cao là xu thế chung được
ngành chức năng khuyến cáo.
Đối với giống lúa chất lượng cao, giá sàn thu mua đương nhiên cao hơn giá thu

mua đối với các giống lúa chất lượng thấp khác, vì vậy chi phí đầu vào của DN tăng
lên, giá xuất khẩu có khả năng tăng. Theo quy luật khi giá gạo xuất khẩu tăng,
đứng ở mức cao thì khối lượng xuất khẩu giảm xuống, đứng ở mức thấp và ngược
lại thì tình hình xuất khẩu gạo của các DN Việt Nam có xu hướng giảm về lượng
nhưng tăng về giá. Trong điều kiện cạnh tranh về giá thì đây là một điều kiện bất
lợi. Nhưng xét về lâu dài thì đây là một tín hiệu tốt, chất lượng xuất khẩu gạo của
Việt Nam sẽ được cải thiện và nâng cao đáng kể.
Dự kiến XK gạo trong năm 2013 là 7,5 - 7,6 triệu tấn: Dự báo tình hình thị trường
gạo thế giới năm 2013, nhất là khu vực châu Á - nơi sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều
nhất thế giới, sẽ gặp nhiều khó khăn hơn năm 2012, do nguồn cung dồi dào trong
khi nhu cầu sụt giảm. Bên cạnh đó là những biến động và rủi ro phát sinh từ nhu
cầu giải quyết tồn kho ở các nước XK lớn, nhất là Thái Lan. Cạnh tranh được dự
báo sẽ gay gắt giữa các nguồn cung cấp, bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ,
Pakistan và Myanmar. Gần như các yếu tố sụt giảm từ năm 2012 tiếp tục gia tăng
và tạo áp lực lên thị trường gạo năm 2013.
Giá xuất khẩu giảm là do nhu cầu thị trường yếu, trong khi nguồn cung từ các nước
như Thái Lan, Ấn Độ rất dồi dào khiến các doanh nghiệp phải giảm giá để bán ra.
Hiện, chỉ có hai thị trường là Trung Quốc và Châu Phi có nhu cầu nhập khẩu nhiều,
còn các thị trường truyền thống khác hầu như không có nhu cầu.
Với những lý giải trên, VFA cho rằng doanh nghiệp Việt Nam đứng trước hai lựa
chọn: Cạnh tranh để bán ra hay giữ giá cao không bán được. Ông Huỳnh Minh Huệ,
Tổng Thư ký VFA cho rằng, mục tiêu lớn là tiêu thụ hàng hóa thu hoạch và bảo vệ
lợi nhuận kinh doanh, để doanh nghiệp "sống" và bảo vệ lợi ích của nông dân.
"Muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì phải cạnh tranh, mà cạnh tranh thì phải giảm giá,
phải chấp nhận giá thấp hơn mới bán được”.
Biểu đồ: Giá gạo Việt Nam so với các nước châu Á (FAO, 3/2013)
4. Một số quốc gia xuất khẩu gạo khác
Theo tổ chức Lương nông Quốc tế FAO, sản lượng gạo thế giới năm 2012 đạt 484
triệu tấn (tương đương 730,2 triệu tấn lúa) tăng 9% so với năm 2011 (723,7 triệu
tấn). Con số này phản ảnh năm 2013 xuất khẩu gạo gặp rất nhiều khó khăn, những

nước nhập khẩu gạo truyền thống ở châu Á như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia
và Philippines đều trúng mùa. Dự báo sang năm 2013 sản lượng gạo đạt 488,6
triệu tấn do ngoại trừ Ấn Độ và Brazil, sản lượng gạo của các nước đều tăng (xem
bảng)
Bảng: Sản lượng, xuất khẩu và dự trữ gạo của một số nước trên thế giới theo tổ
chức Lương nông Quốc tế FAO tháng 2/2013
Thái Lan:
Đến cuối tháng 3 năm 2013, Thái Lan đứng trước áp lực phải bán hết số lúa dự trữ
trong kho để thu hồi vốn để tiếp tục thu mua lúa của nông dân. Bộ Nông nghiệp Mỹ
dự báo năm 2013 Thái Lan sẽ xuất khẩu 8 triệu tấn gạo, tăng 15% so với con số 6,9
triệu tấn năm 2012. Trong đó gạo thơm xuất được 2 triệu tấn, tăng 5% so với 2012.
Tuy nhiên, lượng gạo đồ xuất khẩu dự báo chỉ còn 2,2%, do Nigeria là nước mua
gạo đồ chính của Thái Lan nâng thuế nhập khẩu. Từ đầu tháng 10/2012 đến cuối
tháng 2/2013, chính phủ Thái đã thu mua từ vụ lúa chính của nông dân được 11
triệu tấn lúa (tương đương 7 triệu tấn gạo). Trong đó có 6,4 triệu tấn lúa hạt dài,
3,7 triệu tấn lúa thơm và 0,6 tấn lúa nếp. Hiện kho dự trữ gạo của Thái Lan lên đến
16 triệu tấn, trong đó có 9 triệu tấn từ năm 2011
Với lý do trên đến đầu tháng 4/2013, Bộ Thương mại dự kiến giải phóng 7 triệu tấn
gạo để có tiền tiếp tục thu mua lúa của nông dân niên vụ 2013-14. Lượng gạo này
được bán qua giao dịch giữa chính phủ với chính phủ hoặc qua phiên giao dịch bán
đấu giá và tiêu thụ gạo trong nước. Các giao dịch này đang triển khai với chính phủ
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nigeria và Nam Phi, qua thuyết phục họ được lợi lớn khi
mua gạo Thái, nhưng chính phủ của các nước này chưa chốt lại số lượng, giá cả và
thời điểm giao hàng. Bộ Thương mại Thái dự kiến sẽ thu hồi 180 tỷ Baht (tương
đương 6 tỷ USD) qua xuất khẩu 7 triệu tấn số gạo cũ tồn kho bán giá thấp để cạnh
tranh với Việt Nam. Bộ đưa ra giá bán 857 USD/tấn (6 tỷ USD/ 7 triệu tấn gạo)
trong khi giá gạo Thái 100% B chỉ có 550 USD/tấn.
Nhưng bán gạo giá thấp gây thiệt hại đáng kể cho ngân sách, đến nay chính phủ đã
chi 376 triệu Baht (tương đương 12,5 tỷ USD) để mua 21,7 tấn lúa từ tháng
10/2011 đến 9/2012 và phải chi tiếp 410 tỷ Baht (tương đương 13,6 tỷ USD) để

mua 18 triệu tấn lúa niên vụ 2012-13. Chính chương trình mua trợ giá đã làm
lượng gạo xuất khẩu năm 2012 của Thái Lan giảm 37% chỉ còn 6,73 triệu tấn.
Theo Bộ Thương mại Thái, chương trình trên làm chính phủ thiệt hại 80 tỷ
Baht/năm (tương đương 2,6 tỷ USD). Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới ước tính thiệt
hại này phải là 150 tỷ Baht/vụ (khoảng 5 tỷ USD/vụ hay 1,5 GDP), trong khi Viện
Nghiên cứu Phát triển Thái Lan (Thailand Development Research Institute TDRI)
cho biết con số thiệt hại lên đến 170 tỷ baht (tương đương 5,6 tỷ USD). Kho dự trữ
gạo của Thái Lan theo Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo lên đến 12 triệu tấn vào cuối
năm 2013, tăng 25% so với năm 2012.
Ấn Độ
Xuất khẩu gạo giảm xuống còn 864.000 tấn trong tháng 1/2013, giảm 22% so với
tháng 12/2012. Các nhà phân tích cho rằng nguyên nhân giảm do nhu cầu gạo
thường giảm và giá gạo trong nước tương đối cao so với tháng 12/2012.
Gạo thường xuất khẩu vào tháng 1/2013 đạt 544.000 tấn, giảm 33% so với
809.000 tấn xuất vào 12/2012. Tuy nhiên, gạo thơm basmati xuất khẩu lên đến
320.000 tấn trong tháng 1/2013 tăng 11% so với con số 287.000 tấn của 1 tháng
trước đó.
Giá gạo niên vụ 2012-13 cao hơn bởi vì giá sàn thu mua của chính phủ được nâng
16% trong năm nay, giá gạo nội địa tăng 12% so với cuối năm 2012. Tuy nhiên do
chịu áp lực cạnh tranh với gạo xuất khẩu của Việt Nam, Myanmar và Pakistan nên
gạo Ấn Độ cũng phải hạ giá. Năm 2013 Ấn Độ dự kiến xuất 8,1 triệu tấn, giảm 20%
so với kỹ lục 10,6 triệu tấn năm 2012.
CHƯƠNG III: THIẾT LẬP MỨC GIÁ SÀN HỢP LÝ
I. Đối với nông dân:
Chính phủ thiết lập mức giá sàn thu mua gạo nhằm đảm bảo mục tiêu lợi nhuận tối
thiếu 30% cho người nông dân.
Mục tiêu quan trọng nhất của chương trình thu mua lúa gạo tạm trữ là đảm bảo
giá hợp lý để cho nhà nông có lợi nhuận. Tuy nhiên, doanh nghiệp thu mua tạm trữ
phần lớn không mua trực tiếp từ nông dân mà chủ yếu qua thương lái. Thực tế này
dẫn đến nhiều bất cập. Để đảm bảo lợi nhuận, giá lúa thương lái mua của nhà nông

luôn thấp hơn giá niêm yết tại doanh nghiệp.
Việc chính phủ đẩy mạnh thu mua lúa gạo của người nông dân khiến giá lúa liên
tục tăng từ đó thúc đẩy tăng sản lượng lúa hằng năm.
II.Đối với doanh nghiệp:
Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Trí
Ngọc khẳng định: Chúng ta phải hiểu rằng, giá gạo là do thị trường, cung cầu quyết
định. Phải vận hành theo cơ chế thị trường để nắm thời cơ thuận lợi nhất mà phục
vụ cho kinh doanh. Còn sản xuất thì phụ thuộc mùa vụ, thời tiết, khí hậu. Vấn đề là
phải làm sao để yếu tố thị trường, yếu tố mùa vụ sản xuất gặp gỡ nhau. Người sản
xuất và kinh doanh gặp gỡ nhau. Từ đó, tạo kích cầu lớn cho sản xuất phát triển.
Chính phủ chủ động thực hiện các biện pháp nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp vay vốn kịp thời trong thời gian thu mua lúa gạo: Các NHTM cho các doanh
nghiệp vay thu mua tạm trữ lúa gạo theo mức lãi suất thấp nhất trong khung lãi
suất cho vay hiện hành của các ngân hàng. Ngân sách Nhà nước hỗ trợ 100% lãi
suất tiền vay trong thời gian thu mua, tạm trữ. Hồ sơ, thủ tục cấp bù lãi suất đối với
các khoản cho vay mua tạm trữ lúa, gạo của các doanh nghiệp thực hiện theo
hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Doanh nghiệp ký được hợp đồng xuất khẩu mới triển khai thu mua, đồng nghĩa
doanh nghiệp căn cứ vào giá gạo bán ra (có khấu trừ chi phí hao hụt) để thu mua
nguyên liệu đầu vào, như vậy, sẽ an toàn.
III. Đối với chính phủ:
Để VFA và các DN không “vin” vào việc “đảm bảo lợi nhuận tối thiểu 30% cho nông
dân” để gây biến động thị trường, ép ngưỡng giá mua, đồng thời giúp nông dân trữ
lúa hiệu quả, Nhà nước cần có những biện pháp can thiệp cụ thể. Trong đó, chính
phủ đang chủ trương tính toán lại các quy định cứng nhắc, thiếu tính khả thi trong
Quy chế tạm trữ lúa gạo, vì hiện nay, nếu quy định mức tạm trữ đối với hộ nông
dân hoặc các tổ liên kết phải từ 10 tấn/điểm chứa thì hầu hết nông dân sẽ không
đủ điều kiện tham gia chương trình tạm trữ (hiện nay, hơn 86% trong tổng số gần
1,5 triệu hộ nông dân ở ĐBSCL chỉ canh tác trên diện tích từ 0,3 đến dưới 1ha đất
lúa, do đó, mỗi vụ chỉ thu hoạch được 1,5 - 5 tấn lúa).

Ngoài ra, theo một số chuyên gia ngành lúa gạo, để đảm bảo cân đối các mục đích,
về lâu dài nên thay thế chính sách thu mua tạm trữ bằng việc giao cho các tỉnh
ĐBSCL dự trữ quốc gia 4-6 triệu tấn lúa phẩm cấp cao, bảo đảm cho nông dân có
lãi từ 40% trở lên, tiến tới lợi nhuận đạt bình quân 50 triệu đồng/ha/năm. Có như
vậy, thu nhập của người nông dân mới có thể nâng lên 2,5 lần vào năm 2020 theo
mục tiêu Nghị quyết số 26-NQ/TW.
Việc tạm trữ lúa gạo sẽ giúp ngành lương thực chủ động hơn trong điều hành sản
lượng tiêu thụ gạo trong năm, từng bước đưa công tác tạm trữ thực hiện theo
đúng kế hoạch góp phần giúp công tác chỉ đạo, kết quả sản xuất, tiêu thụ lúa hàng
năm đi vào ổn định.
KẾT LUẬN
Trên thị trường lúa gạo Việt Nam hiện nay, khi đã đáp ứng đủ nhu cầu trong nước,
lượng cung gạo còn lại được tiêu thụ bằng cách xuất khẩu. Nhằm bảo vệ nông dân,
đảm bảo lợi nhuận tối thiểu 30% cho nông dân thì Chính phủ đã sử dụng rất nhiều
chính sách hỗ trợ nông nghiệp, trong đó có chính sách áp đặt mức giá sàn thu mua
tạm trữ, dự trữ lúa gạo. Hiệu quả của chính sách cần phải trải qua thời gian mới có
thể được nhận định chính xác nhưng hiện nay cũng đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế.
Thu nhập của người nông dân vẫn chưa được đảm bảo, mục tiêu lợi nhuận tối
thiểu 30% cho người sản xuất trực tiếp vẫn chưa thành hiện thực. Một số doanh
nghiệp vì lợi ích trước mắt đã bán phá giá xuất khẩu lúa gạo gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tình hình xuất khẩu lúa gạo chung.
PHỤ LỤC
1. Xuất khẩu gạo của Việt Nam mùa vụ 2010/2011 chia theo các thị
trường xuất khẩu và chủng loại gạo xuất khẩu
5% 10% 15% 25% 100% GlutinousJasmine Các
loại
khác
Tổng
cộng
Châu

Á
896.163 10.0002.543.422805.45915.448 204.472 231.21226.3304.732.506
Châu
Phi
885.964 - 120.083 13.124 393.157- 142.31625.4401.580.084
Châu
Âu
42.368 43.5062.655 - - 380 43.260 850 133.019
Châu
Mỹ
44.880 - 468.756 - - - 9.507 - 523.143
Châu
Úc
18.115 473 - - - - 11.553 - 30.121
Tổng 1.887.49053.9793.134.916818.583408.605204.852 437.82852.6206.998.873
Nguồn: Thông tin thương mại/ Tổng cục Hải Quan Việt Nam/ Hiệp hội Lương thực
Việt Nam
2. Thị trường xuất khẩu gạo năm 2012


Thị trường
Tháng 12/2012 Cả năm 2012 Tăng, giảm
T12/2012 so với
T11/2012
Tăng, giảm
năm 2012 so
với năm trước
Lượng
(tấn)
Trị giá

(USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Lượng
(%)
Trị giá
(%)
Lượng
(%)
Trị giá
(%)
Tổng cộng 517.65
3
244.746.1
30
8.016.10
0
3.673.101.7
90
-13,80 -16,17 +12,71 +0,45
Trung
Quốc
163.43
1
71.318.1292.085.68
6
898.430.092 +90,15 +74,20 +574,9
7

+459,1
1
Philippines15.600 6.755.170 1.112.32
6
475.264.484 +3233,3
3
+2291,0
8
+14,07 -0,22
Indonesia 14025
0
66.560.763929.905 458.392.226 -56,48 -56,15 -50,62 -55,03
Malaysia 21.083 11.051.200764.692 403.157.905 -71,03 -71,33 +44,16 +38,02
Bờ biển
Ngà
2.789 1.550.610 479.590 203.373.535 +223,55 +156,42 +64,38 +46,51
Gana 32.489 17.434.029307.749 149.625.081 +555,68 +511,09 +122,9
9
+94,24
Singapore 21.508 10.104.781268.531 131.359.973 -21,94 -25,20 -30,42 -33,63
Hồng Kông23.360 12.556.563213.418 120.778.890 +2,61 +0,79 +42,33 +35,43
Senegal 285 247.950 182.323 66.146.574 -79,56 -62,60 -55,54 -61,03
Angola 3.267 1.688.978 121.693 54.639.602 -13,39 -7,11 +113,4
2
+98,65
Đài Loan 9.702 4.554.620 111.843 52.409.042 +113,70 +87,90 +34,98 +18,75
Angieri 6.820 3.057.205 77.838 35.617.564 +9,12 +7,71 +100,0
2
+80,85
Đông Timo5.850 2.584.788 63.755 27.720.138 -29,52 -31,37 +159,0

6
+141,8
2
Hoa Kỳ 2.176 1.381.744 62.728 27.433.582 -37,99 +16,68 +260,3
2
+142,0
9
Nam Phi 520 267.716 34.989 17.219.981 +60,00 +50,39 +326,3
3
+307,4
0
Bỉ 1.539 532.775 33.583 13.510.560 +459,64 +189,31 +86,61 +49,16
Brunei 1.380 789.750 14.730 8.696.610 0,00 -3,39 -9,13 -9,88
Chi Lê 1.670 738.800 17.233 8.099.920 -70,23 -72,46 * *
Nga 595 278.852 15.603 7.465.974 -66,82 -69,31 -61,86 -65,34
Tiểu
vương
Quốc Ả Rậ
p thống
nhất
418 282.153 8.971 5.678.501 -74,82 -76,42 +228,4
9
+221,3
0
Australia 359 257.042 5.741 4.147.953 -60,64 -61,35 -33,57 -30,84
Ucraina 400 217.275 7.680 3.770.076 +210,08 +167,76 -1,87 -8,94
Hà Lan 525 342.875 5.503 3.410.751 -27,08 -24,22 +60,16 +59,48
Thổ Nhĩ Kỳ0 0 3.798 1.830.087 * -92,49 -93,51
Tây
BanNha

530 312.272 2.522 1.422.916 +114,57 +116,79 +111,0
5
+98,81
Pháp 63 41.066 2.233 1.332.367 * * +66,15 +74,33
Italia 0 0 1.513 836.105 * * +38,55 +34,86
Ba Lan 0 0 1.164 654.314 * * -56,32 -46,84
3. Phương pháp tính giá sàn gạo xuất khẩu - Theo thông tư Số:
89/2011/TT-BTC – Bộ Tài Chính
PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ
Điều 5. Căn cứ tính giá
1. Căn cứ vào giá vốn gạo xuất khẩu bình quân của tất cả các tiêu chuẩn, phẩm cấp
gạo của các Thương nhân xuất khẩu gạo.
2. Mức lợi nhuận bình quân dự kiến của ngành kinh doanh xuất khẩu gạo
3. Chính sách xuất khẩu gạo và các chính sách liên quan đến xuất khẩu gạo của Nhà
nước trong từng thời kỳ.
Điều 6. Phương pháp xác định giá sàn gạo xuất khẩu bình quân của từng
tiêu chuẩn phẩm cấp gạo
Giá sàn gạo xuất khẩu bình quân của từng tiêu chuẩn phẩm cấp gạo được xác định
theo công thức sau:
Giá sàn gạo xuất khẩu
bình quân của từng tiêu
chuẩn phẩm cấp gạo
(VNĐ, USD/tấn)
=
Giá vốn gạo xuất khẩu
bình quân của từng
tiêu chuẩn phẩm cấp
gạo (VNĐ, USD/tấn)
+
Lợi

nhuận
dự kiến
+
Các loại thuế
phải nộp theo
quy định của
pháp luật
PHƯƠNG PHÁP KHẤU TRỪ
Điều 7. Căn cứ tính giá
1. Căn cứ vào giá gạo trên thị trường thế giới.
2. Căn cứ vào chi phí trung bình mà các Thương nhân thực hiện đưa gạo từ cảng
xuất khẩu đến bán cho khách hàng mua gạo tại cảng nhập khẩu (CNF/CIF đến một
cảng nhất định) và hoàn thành việc chuyển giao quyền sở hữu gạo của thương
nhân xuất khẩu cho khách hàng nhập khẩu.
3. Căn cứ chính sách xuất khẩu gạo và các chính sách liên quan đến xuất khẩu gạo
của Nhà nước từng thời kỳ.
Điều 8. Phương pháp xác định giá sàn gạo xuất khẩu bình quân của từng
tiêu chuẩn phẩm cấp gạo
1. Giá sàn gạo xuất khẩu bình quân theo từng tiêu chuẩn, phẩm cấp gạo được xác
định theo công thức sau:
Giá sàn gạo xuất khẩu
bình quân theo từng tiêu
chuẩn phẩm cấp gạo
(USD/tấn)
=
Giá gạo trên thị trường
thế giới của từng tiêu
chuẩn phẩm cấp gạo
(USD/tấn)
-

Tổng chi phí thực hiện
đưa sản phẩm từ cảng
xuất khẩu đến cảng nhập
khẩu (USD/tấn)
2. Xác định tổng chi phí thực hiện đưa sản phẩm từ cảng xuất khẩu đến cảng nhập
khẩu, gồm những chi phí thực tế hợp lý, như sau:
- Chi phí vận tải quốc tế và xếp dỡ (nếu thỏa thuận bên bán chịu chi phí xếp dỡ);
- Phí, lệ phí bến cảng;
- Phí, lệ phí hải quan;
- Phí kiểm định sản phẩm;
- Các chi phí khác (nếu có).

×