SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO XÃ HỘI HOÁ
GIÁO DỤC MẦM NON”
TaiLieu.VN Page 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Hồ Chủ Tịch đã dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người”. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến
sự nghiệp phát triển giáo dục. Nghị quyết Trung Ương II khoá VIII xác định: "Giáo
dục là quốc sách hàng đầu, là khâu then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội", giáo
dục đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn phát triển giáo dục không còn con đường nào
khác là huy động các lực lượng toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục và đào
tạo. Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 08 năm 1997 của Chính phủ về phương
hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động Giáo dục, Y tế, Văn hoá đã chỉ rõ bản
chất của xã hội hoá Giáo dục là: "Huy động các tầng lớp nhân dân, toàn xã hội tham
gia công tác giáo dục, góp sức xây dựng nền giáo dục toàn dân dưới sự quản lý của
Nhà nước".
Việc giáo dục không chỉ thực hiện trong nhà trường mà thực hiện song song cả
ngoài xã hội, nghị quyết đã khẳng định:"Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân". Vì vậy xã hội hoá giáo dục và đào tạo là tổ chức, vận động sự tham gia rộng rãi
của nhân dân và toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Xã hội hoá giáo dục
Mầm non được coi như là một biện pháp hữu hiệu, là tư tưởng lớn, đồng thời là con
đường để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục Mầm non
nói riêng.
Giáo dục Mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, tại
điều 22, Luật Giáo dục năm 2005: "Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát
triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ và lớp 1". Nhận thức từ vấn đề trên tôi thấy, cần nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong nhà trường để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
2
mầm non hiện nay không có con đường nào khác là phải biết phối hợp, tranh thủ sức
mạnh của cộng đồng, xã hội, của tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội cùng tham
gia ủng hộ phong trào giáo dục mầm non. Đó chính là "Xã hội hoá giáo dục mầm
non".
Từ thực tế những năm qua trong nhà trường công tác xã hội hoá còn gặp nhiều
khó khăn, nhận thức của các tầng lớp nhân dân về công tác xã hội hoá giáo dục còn
nhiều hạn chế, công tác tuyên truyền về giáo dục mầm non hiệu quả chưa cao, còn tư
tưởng trông chờ, ỉ lại vào Nhà nước, coi việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ là
của nhà trường. Là hiệu trưởng nhà trường, tôi đã xác định vấn đề xã hội hoá giáo dục
là vấn đề quan trọng trong nhà trường cần nhanh chóng được giải quyết và tôi đã chọn
đề tài: "Một số biện pháp chỉ đạo xã hội hoá giáo dục mầm non" với hy vọng sẽ rút ra
một số biện pháp cho công tác xã hội hoá giáo dục màm non.
II. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác chỉ đạo “Xã hội hoá giáo dục mầm non”, nội dung và biện
pháp chỉ đạo xã hội hoá giáo dục mầm non tại trường Mầm non số 1 thị trấn Tân
Uyên.
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp xã hội hoá giáo dục
mầm non” tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu lý
thuyết (Tìm đọc sách và tài liệu có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
nghiên cứu); phương pháp nghiên cứu thực tiễn; phương pháp trò chuyện; phương
pháp thống kê toán học.
III. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ vấn đề lý luận của công tác xã hội hoá giáo dục mầm non.
- Dựa vào tình hình thực tiễn, đề tài phân tích thực trạng về công tác xã hội hoá
giáo dục mầm non của nhà trường.
3
- Đưa ra những giải pháp nhằm khai thác các tiềm năng về nguồn lực, vật lực,
tài lực trong xã hội. Phát huy có hiệu quả các nguồn lực tạo điều kiện cho các hoạt
động giáo dục trong nhà trường phát triển, nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng
giáo dục trẻ trong trường Mầm non
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm về ngành học cho mọi tầng lớp nhân dân, góp
phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, tạo niềm tin tưởng cho các bậc phụ
huynh và cộng đồng vào chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở nhà trường,
tuyên truyền sâu rộng về ngành học.
Quan tâm chỉ đạo xây dựng kế hoạch, nội dung, hình thức để tuyên truyền tới phụ
huynh học sinh và các đoàn thể xã hội, tổ chức hoạt động dựa trên đặc trưng của ngành
học và có vận dụng linh hoạt giữa lý thuyết và thực tiễn quản lý.
PHẦN NỘI DUNG
4
1. Cơ sở lý luận
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhìn
vào ta có thể khẳng định được Giáo dục Mầm non được xã hội hoá cao hơn bất kì bậc
học nào. Xã hội hoá giáo dục không có nghĩa là nhẹ trách nhiệm của nhà nước, giảm
ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên tìm thêm nguồn thu cho giáo dục
bởi vì đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển “Là quốc scáh hàng đầu”.
Văn kiện đại hội tòan quốc lần thứ IX của đảng chỉ rõ: Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học “Thực hiện chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục” coi đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục là một trong
những giải pháp thực hiện mục tiêu giáo dục.
Giáo dục mầm non thể hiện rõ nguyên tắc nhà nước, xã hội và nhân dân cùng
làm. Đến nay Giáo dục Mầm non đã phát triển với đủ các loại quy mô trường lớp với
các loại hình công lập, tư thục và nhóm trẻ gia đình…Sự đa dạng hoá các loại hình
Giáo dục mầm non là do có sự tham gia của công tác xã hội hoá giáo dục mầm non.
Xã hội hoá Giáo dục mầm non là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng,
toàn dân, toàn xã hội. Muốn làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục trước tiên phải biết
tranh thủ sự ủng hộ của cấp uỷ và chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể…
Muốn vậy người hiệu trưởng phải biết xây dựng kế hoạch, biết tổ chức phối hợp thực
hiện với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Tức là một mặt cần có sự đầu
tư của nhà nước, mặt khác cần vận động nhân dân đóng góp hỗ trợ để bổ sung hoàn
thiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhà trường, phối hợp tốt việc chăm sóc giáo
dục trẻ.
Muốn làm tốt công tác xã hội hoá Giáo dục Mầm non tạo ra động lực quyết định
thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển Giáo dục Mầm non. Thực hiện chăm sóc giáo
dục trẻ từ 0 đến 6 tuổi phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ Góp
phần hình thành nhân cách đầu tiên cho trẻ trên cơ sở xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi
5
về chuyên môn, nghiệp vụ, có khả năng tư vấn tại gia đình và đa dạng hoá các loại
hình giáo dục Mầm non tương ứng với hệ thống cở sở vật chất phù hợp, hướng tới
công bằng xã hội cho mọi trẻ em.
II. Thực trạng công tcác xã hoịi hoá giáo dục mầm non
1. Thực trạng:
Trường Mầm non số 1 thị trấn Tân Uyên có 2 điểm trường cách nhau 1,5 km;
địa bàn tương đối rộng gồm 9 khu phố. Thị trấn Tân Uyên là nơi sinh sống của 10 dân
tộc gồm: Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú, Dao, Lào, Dáy Trong đó, người Kinh chiếm số
đông với gần 58%. Mặc dù là trường thị trấn thuộc trung tâm huyện nhưng phần đa
học sinh là con em công nhân Công ty trà, nông dân, buôn bán; và một điểm trường
100% học sinh là dân tộc thiểu số nên phần do mải lo toan cuộc sống gia đình, phần
nhận thức về ngành học mầm non của một số phụ huynh còn hạn chế chưa hợp phối
hợp công tác chăm sóc, nuôi dạy trẻ còn phó mặc cho nhà trường; đóng góp bữa ăn
cho trẻ tại trường chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng
Là trường thành lập từ lâu nên cơ sở vật chất của nhà trường xây dựng chưa theo
quy hoạch tổng thể; bếp ăn diện tích chưa đủ, chưa theo quy trình một chiều; một số
phòng chức năng chưa được trang trí theo quy định ngành học; cây xanh xây cảnh còn
ít, một số giáo viên mới khả năng tuyên ttruyền còn hạn chế đẫn đến hiệu quả chưa
cao.
Với tình hình thực tiễn xã hội hoá giáo dục trong những năm qua, kết hợp với
nghiên cứu đặc điểm của địa phương về kinh tế, xã hội, tập quán và xu hướng vận động
của giáo dục mầm non trong thời kỳ hiện nay. Với mục tiêu đặt ra nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ; đáp ứng các yêu cầu về cơ sở vật chất thực hiện chương trình
giáo dục mầm non mới; xây dựng trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 cần
sử dụng một cách đồng bộ các giải pháp xã hội hoá giáo dục khác nhau.
6
Với việc vận dụng có hiệu quả các biện pháp chỉ đạo “Xã hội hoá giáo dục mầm
non"; sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, sự nhiệt tình tâm huyết với nghề của đội ngũ
cán bộ, giáo viên nên năm học 2012 - 2013 nhà trường đã đạt được những thành công
nhất định, góp phần phát triển giáo dục mầm non trên địa bàn thị trấn Tân Uyên nói
riêng và huyện Tân Uyên nói chung.
Năm học 2012 - 2013 mạng lưới lớp học được phát triển theo quy hoạch. Toàn tr-
ường hiện có 2 điểm trường/ 11 lớp với 295 học sinh. Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần
ngày càng tăng, năm học 2011- 2012 tỉ lệ học sinh đi học chuyên cần 93,2%, năm học
2012- 2013 là 95%
Công tác chất lượng nuôi dạy trẻ:
Năm học 2011 -2012 mức ăn 12000 đồng/ngày/1 trẻ . Đến năm 2012 -2013 mức
ăn nâng lên 14000 đồng/ngày/1 trẻ; chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ngày được
nâng cao. Cụ thể:
Năm học
Chất lượng chăm sóc Chất lượng giáo dục
CNBT SDDV CCBT TCĐ1
Bé
khoẻ
Bé
ngoan
Bé
chăm
Bé
sạch
2011-
2012
306
(93,3%
)
22
(6,7%)
304
(92,7%)
24
(7,3%
)
306
(93,3%)
308
(93,9%
)
307
(93,6%
)
324
(98,8)
2012-
2013
282
(95,6%
)
13
(4,4%)
279
(94,6,%
)
16
(5,4%
)
282
(95,6%)
281
(95,5%
)
280
(95,2%
)
293
(99,7%
)
* Về cơ sở vật chất:
7
- Các lớp đều được cấp bộ đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tối thiểu theo độ
tuổi đáp ứng yêu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng và học tập của học sinh.
- 100% học sinh có đủ đồ dùng học tập, đồ dùng vệ sinh cá nhân.
- Các lớp trang trí đẹp phù hợp chủ đề và môi trường giáo dục.
- Bếp ăn được xây mới rộng rãi, khang trang theo hệ thống một chiều; dụng cụ
phục vụ công tác nuôi dưỡng được nâng cấp bổ sung đầy đủ đáp ứng yêu cầu nuôi
dưỡng trẻ.
- Hệ thống cây xanh, cây cảnh được bổ sung tạo cảnh quan nhà trường xanh, đẹp
hơn.
* Về danh hiệu thi đua, giáo viên dạy giỏi:
- Năm học 2010 - 2011: Đạt giáo viên dạy giỏi cấp trường là 50%; tổ Mẫu giáo
và tổ Nhà trẻ được UBND huyện tặng Giấy khen “Tập thể lao động tiên tiến”, có
56,5% cá nhân đạt lao động tiên tiến trở lên, trong đó 12,5% cán bộ giáo viên đạt danh
hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở”.
- Năm học 2011 - 2012: Đạt giáo viên dạy giỏi cấp trường là 70,5%. Tập thể nhà
trường và 2 tổ Nhà trẻ, Văn phòng đạt danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến” UBND
huyện tặng Giấy khen;
- Năm học 2012 - 2013: Đạt giáo viên dạy giỏi cấp trường 72%, trong đó đạt
giáo viên dạy giỏi cấp huyện 60%. Tập thể nhà trường phấn đấu đề nghị UBND tỉnh
tặng cờ thi đua, 3 tổ mẫu giáo và tổ Văn phòng phấn đấu đạt danh hiệu “Tập thể lao
động tiên tiến” đề nghi UBND huyện tặng Giấy khen.
2. Đánh giá thực trạng:
Công tác xã hội hoá Giáo dục Mầm non là một vấn đề cần cả xã hội quan tâm,
tham gia. Nhưng bên cạnh đó một số ít cán bộ khu phố chưa thực sự quan tâm đến
ngành học, còn quan niệm trường mầm non là nơi giữ trẻ.
8
Một số phụ huynh chưa nhận thấy trách nhiệm cuả mình trong công tác phối hợp
chăm sóc giáo dục trẻ, chưa tự nguyện tham gia đóng góp để xây dựng cơ sở vật chất,
tổ chức các hoạt động trong nhà trường.
Một số giáo viên chưa có kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền với cha mẹ
trẻ, các biện pháp xã hội hoá giáo dục chưa đồng bộ. Muốn làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục Mầm non cần phải có sự tham gia của cả cộng đồng và các tầng lớp trong xã
hội. Từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của nhà trường và từ nhận thức vấn đề nêu trên,
tôi đã tiến hành nghiên cứu một số biện pháp xã hội hoá giáo dục Mầm non.
III. Biện pháp giải quyết.
1. Nâng cao nhận thức:
Để có phong trào giáo dục Mầm non phát triển rộng khắp trước tiên phải chuyển
đổi nhận thức, tuyên truyền về ngành học bằng các hoạt động thiết thực, tuyên truyền
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục Mầm non cho phụ
huynh học sinh, cộng đồng và toàn xã hội để họ thấy rõ vị trí, tầm quan trọng của bậc
học mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ đó nâng cao trách nhiệm, ý thức
phối hợp tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trong nhà trường.
Bản thân tôi nhận thấy giáo dục Mầm non khác với các bậc học khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân: Giáo dục Mầm non gắn liền với dân, sự tồn tại, phát triển
hay tụt hậu phụ thuộc vào xã hội hoá. Như Bác Hồ đã dạy:"Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Vì vậy làm tốt công tác xã hội hoá giáo
dục sẽ đẩy giáo dục mầm non tiến lên đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước, tạo niềm tin và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
2. Biện pháp cụ thể:
2.1. Tổ chức tham quan học hỏi trường mầm non điển hình về công tác xã
hộ hoá giáo dục.
9
- Tôi trực tiếp liên hệ với trường mầm non làm tốt công tác xã hô hoá giáo dục
trong tỉnh rồi mời lãnh đạo địa phương đi tham quan.
- Thành phần: Ban giám hiệu, chủ tịch công đoàn, tổ trưởng chuyên môn, đoàn
thanh niên, chi bộ, Đảng uỷ, UBND và một số cơ quan ban ngành thị trấn.
- Hình thức: tham quan mô hình cơ sở vật chất, các hoạt động của nhà trường,
nghe nhà trường trao đổi về một số hình thức và biện pháp xã hội hoá giáo dục để xây
dựng cở sở vật chất cho nhà trường.
- Kết quả: Sau khi đi tham quan về nhận thức của lãnh đạo địa phương về giáo
dục Mầm non đã được nâng lên, đã quan tâm hơn tới các hoạt động của nhà trường.
Ví dụ: Việc huy động xây dựng cảnh quan môi trường.
Được sự ủng hộ của chính quyền địa phương tôi đã chỉ đạo cho giáo viên phối
hợp với các đoàn thể tuyên truyền về ngành học, về yêu cầu của trường chuẩn, việc
cần thiết phải xây dựng cảnh quan môi trường tới phụ huynh và cộng đồng. Chính vì
vậy mà công tác xây dựng cảnh quan trường lớp năm học 2012- 2013 đã đạt được
thành công nhất định. Các bậc phụ huynh, tổ chức cá nhân đã mua tặng chậu hoa cây
cảnh, tranh ảnh trang trí lớp học và phòng hoạt động âm nhạc trị giá hơn 60.000.000 đ.
2.2. Tổ chức tập huấn cho tuyên truyền viên
Nhà trường đã tổ chức tập huấn cho 100% cán bộ giáo viên về nội dung tuyên
truyền kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng đây là lực
lượng mạnh nhất làm nòng cốt.
Tập huấn cho cán bộ cốt cán của đoàn thể ở khu phố như: Phụ nữ, Đoàn thanh
niên, khu trưởng để cùng nhà trường tuyên truyền vận động các bậc phụ huynh và
nhân dân tham gia học tập.
10
Nội dung tuyên truyền cần lựa chọn sao cho phù hợp với trình độ dân trí ở khu,
nội dung phải ngắn gọn, thiết thực và đầy đủ những hiểu biết tối thiểu về nuôi dạy
con .
Ví dụ: Cách cho trẻ ăn, tiêm phòng một số bệnh thông thường, đề phòng tai nạn
ở trẻ Mầm non, hướng dẫn chế biến món ăn cho trẻ , vệ sinh an toàn thực phẩm và đề
phòng ngộ độc, cách chăm sóc trẻ sơ sinh…
2.3. Tuyên truyền về trường Mầm non:
Trường Mầm non là nơi tập trung lực lượng phụ huynh khá đông nên công tác
tuyên truyền có rất nhiều thuận lợi. Vì vậy, tôi đã lập kế hoạch cụ thể và giao trách
nhiệm cho từng giáo viên của từng nhóm lớp triển khai đầy đủ. Xây dựng góc tuyên
truyền của lớp học: 100% các lớp đều có góc tuyên truyền với nội dung và hình thức
phong phú, hấp dẫn.
Ví dụ: - Tuyên truyền về một số bài học trong chủ đề: làm quen với toán, chữ
cái, thơ, truyện, môi trường xung quanh, kết hợp góc chơi: Bé tập làm bác sĩ,
- Tuyên truyền về chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho học sinh theo giai đoạn, theo
mùa, một số thức ăn phù hợp giáo dục dinh dưỡng và sức khoẻ, vệ sinh an toàn thực
phẩm, đề phòng ngộ độc thức ăn, phòng chống các bệnh thường gặp ở trẻ, kết quả
khám sức khoẻ và theo dõi biểu đồ định kỳ.
- Tuyên truyền về các hoạt động của cô và cháu trong trường, lớp.
- Trưng bày một số sản phẩm tạo hình cô và cháu tự làm như: vẽ, nặn, cắt,
dán,
Các nội dung tuyên truyền được thay đổi theo mùa, theo chủ đề, từng thời điểm thích
hợp nên gây được sự chú ý, phụ huynh nắm bắt được nhiều thông tin mới.
2.4. Tổ chức các hội thi:
11
Hằng năm, nhà trường vẫn tổ chức các hội thi cho cô và cháu như thi: "Bé khoẻ -
Bé ngoan", "Bé tô viết chữ đẹp", "Bé thông minh nhanh trí", "Bé tập làm nội trợ"…
Nhưng chỉ tổ chức trong phạm vi nhà trường.
Năm học 2011 - 2012 và 2012-2013 tổ chức hội tôi đã mời đại diện ban phụ
huynh, Lãnh đạo địa phương, Hội phụ nữ; Đài truyền thanh truyền hình huyện về dự
và đưa tin về hội thi. Qua hôi thi, họ hiểu hơn về các hoạt động của trường Mầm non,
nắm bắt được các nội dung giáo dục trẻ trong nhà trường, tạo niềm tin về chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ và có trách nhiệm hơn về công tác phối hợp với nhà trường
thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ.
2.5. Phối hợp với các ban ngành đoàn thể:
+ Hội phụ nữ:
Đây là lực lượng đông đảo và mạnh nhất để làm công tác tuyên truyền, do vậy
tôi đã làm việc với hội phụ nữ thị trấn trình bày kế hoạch phối hợp với chi hội phụ nữ
các khu phố, nắm số liệu các hội viên, lên lịch tổ chức các cuộc họp tuyên truyền.
Tuỳ vào tình hình của từng khu phố có thể tổ chức riêng một buổi họp với các
hội viên phụ nữ hoặc có thể kết hợp với các buổi họp của khu.
Ví dụ: Vào thời điểm tổ chức ngày 20/10, 8/3 trước đó các chi hội đều có thể
họp chuẩn bị cho ngày 20/10, 8/3 nhân buổi đó, tôi phát tài liệu cho các chi hội lồng
luôn vào nội dung họp, toạ đàm để tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học
cho các bậc cha mẹ với nhiều hình thức: trao đổi, thảo luận,
Chi hội nào có tuyên truyền viên tốt, các chi hội tự đảm nhiệm công tác tuyên
truyền, còn chi nào cần có sự phối hợp của nhà trường thì tôi cử giáo viên về cùng kết
hợp. Trong năm qua nhờ công tác phối hợp tốt, tôi đã tổ chức tuyên truyền qua các
buổi họp ở các khu phố, số phụ huynh tham gia là 92%.
+ Trung tâm y tế thị trấn
12
Đây là đơn vị thường xuyên phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc khám
sức khoẻ định kỳ cho các cháu và có nhiều nội dung tuyên truyền phong phú về chăm
sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ em và phụ nữ, chính vì vậy tôi đã xây dựng kế hoạch,
liên hệ với trung tâm y tế khám sức khoẻ cho học sinh và giáo viên.
Ví dụ: Một năm 2 lần nhà trường đã kết hợp với y tế khám sức khoẻ cho học
sinh và cán bộ giáo viên để xác định, nắm bắt kịp thời điều trị bệnh tật, sau đó giáo
viên chủ nhiệm trao đổi cụ thể với phụ huynh học sinh về tình trạng sức khoẻ của một
số cháu, đồng thời tuyên truyền về một số bệnh thường gặp ở trẻ và cách phòng tránh,
phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ. Chính vì vậy mà tỉ lệ suy dinh dưỡng hằng năm
giảm từ 1,5 đến 2%.
+ Toàn thể khu phố:
Khu phố là nơi gắn các mối quan hệ gần gũi nhất đối với nhà trường, là nơi xã
hội hoá được thực hiện mạnh nhất. Để làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục ở đây, tôi
đã làm việc với cán bộ khu phố về kế hoạch tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con cho
mọi người dân cùng biết và thực hiện, đặc biệt là phụ huynh có con ở độ tuổi mầm
non. Khi họ đã hiểu được biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ, biết rõ hơn về các hoạt
động trong nhà trường thì việc huy động học sinh đi học chuyên cần sẽ thuận lợi hơn
và công tác vận động nhân dân đóng góp xây dựng cảnh quan trường lớp; xây dựng cơ
sở vật chất cũng dễ dàng hơn.
Ví dụ: Trong công tác xây dựng trường chuẩn được sự ủng hộ của cán bộ khu
phố, nhân dân và phụ huynh học sinh công tác duy trì tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần
luôn đạt từ 95% trở lên; các khu phố, phụ huynh đã tặng nhà trường nhiều cây xanh
cây cảnh chính nhờ vậy mà cảnh quan nhà trường ngày xanh hơn, đẹp hơn.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
13
Sáng kiến kinh nghiệm “Xã hội hoá giáo dục mầm non” đã được áp dụng tại
trường Mầm non số 1 thị trấn Tân Uyên và đã đạt được một số kết quả như sau:
- Công tác huy động số lượng học sinh ra lớp đạt 102,7% kế hoạch; tỉ lệ trẻ trong
độ tuổi 3 - 5 đến trường đạt 98%, tăng so với năm học trước 5,7%; tỉ tỉ lệ trẻ 5 tuổi ra
lớp đạt 100%; học sinh đi học chuyên cần đạt 95%, cao hơn năm học trước 1,8%.
- Giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng so với đầu năm là 10,5%; giảm so với cùng kỳ
năm trước 2,3%. Đến nay trẻ có cân nặng bình thường 95,6%, chiều cao phát triển
bình thường đạt 94,6%.
- Chất lượng giáo dục 100% học sinh đạt yêu cầu trở lên.
- Các lớp có đủ đồ dùng phục vụ sinh hoạt, học tập của trẻ; bếp ăn đảm bảo yêu
cầu nuôi dưỡng.
- Các tổ chức, cá nhân và phụ huynh ủng hộ về hiện vật và tiền để hhõ trợ các
hoạt động của nhà trường là 117.150.000 đồng (Một trăm mưòi bảy triệu, một trăm
năm mươi nghìn đồng).
14
PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm:
Công tác xã hội hoá Giáo dục Mầm non là một nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa
chiến lược, nhằm đưa ngành học mầm non đuổi kịp các nước phát triển trong khu
vực và trên thế giới. Vì vậy người quản lý phải biết kết
hợp tốt các thành viên trong
nhà trường. Thiết lập chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà
trường, đoàn thể, cơ quan, chính
quyền địa phương nhằm tạo ra các mối quan hệ
thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ
về vật chất lẫn tinh thần
tạo được niềm tin cho lãnh đạo và nhân dân, phụ huynh học
sinh
Vận dụng linh hoạt giữa lý thuyết và thực tiễn, phát huy trách nhiệm, huy động
tối đa các nguồn lực.
- Nâng cao nhận thức về ngành học cho phụ huynh học sinh, cộng đồng, lãnh
đạo địa phương.
- Tham quan học hỏi mô hình trường lầm tốt công tác xã hội hoá giáo dục.
- Bồi dưỡng cho tuyên truyền viên, thực hiện tốt công tác tuyên truyền về trường
Mầm non.
- Tổ chức các hội thi, thông qua các hội thi để tuyên truyền về nhà trường và
ngành học, từ đó tranh thủ sự quan tâm của các cấp, các ngành, cộng đồng xã hội, phụ
huynh học sinh,
- Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể.
Thực hiện tốt các biện pháp đã đưa ra trong phần “Giải pháp thực hiện” trong
bài viết này.
15
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Công tác xã hội hoá giáo dục của trường Mầm non đây chính là môi trường tạo
ra các mối quan hệ với các cấp, các ngành, với cộng đồng và phụ huynh học sinh,
nhằm thu hút các lực lượng trong xã hội cùng chăm lo cho sự nghiệp phát triển giáo
dục Mầm non. Nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Đây chính là động lực thúc đẩy đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong
các nhà trường cần cố gắng nhiều hơn nữa, đồng thời cũng là một địa chỉ đáng tin cậy
để các bậc phụ huynh yên tâm gửi gắm con em mình.
III. Khả năng ứng dụng triển khai
Công tác "xã hội hoá giáo dục mầm non” mà tôi đã chỉ đạo áp dụng tại trường Mầm
non số 1 thị trấn Tân Uyên trong năm qua đã đạt được những thành công nhất định. Đây là
những biện pháp đảm bảo tính hiệu quả, kinh tế và có khả năng áp dụng ở bất cứ trường
Mầm non nào, tuy nhiên còn nhiều biện pháp khác chưa có điều kiện đề cập tới tôi sẽ
nghiên cứu trong những năm học tiếp theo.
Do tài liệu và khả năng còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Kính mong hội đồng khoa học góp ý và giúp đỡ để đề tài của tôi được hoàn
thiện hơn.
IV. Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với UBND huyện:
Ưu tiên đầu tư kinh phí xây dựng trường mới tại khu vực đất đã quy hoạch.
- Đối với phòng giáo dục:
Tham mưu tạo nguồn kinh phí đầu tư nâng cấp 4 phòng học bán kiên cố cho nhà
trường.
Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, giúp cán bộ quản lý làm giàu
thêm tri thức và kinh nghiệm chỉ đạo.
16
- Đối với UBND thị trấn Tân Uyên:
Có kế hoạch chỉ đạo các đoàn thể ở cơ sở kết hợp với nhà trường để làm tốt hơn
công tác xã hội hoá giáo dục mầm non
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục 2005
2. Cẩm nang nghiệp vụ quản lý trường học
17
3. Điều lệ trường Mầm Non
4. Báo cáo tổng kết năm học từ năm 2010 - 2011 và 2011 - 2012 trường Mầm non số 1
thị trấn Tân Uyên.
18
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài 02
II. Phạm vi, đối tượng n ghiên cứu 03
III. Mục đích nghiên cứu 03
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 03
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận 04
II. Thực trạng 06
III. Biện pháp giải quyết 07
1. Nâng cao nhận thức 07
2. Biện pháp cụ thể 07
2.1. Tổ chức tham quan học hỏi trường mầm non điển hình về
công tác xã hội hóa giáo dục mầm non
07
2.2. Tổ chức tập huấn cho tuyên truyền viên 08
19
2.3. Tuyên truyền về trường Mầm non 08
2.4. Tổ chức các hội thi 08
2.5. Phối hợp với các ban ngành đoàn thể 09
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 10
PHẦN KẾT LUẬN 11
I. Những bài học kinh nghiệm 11
II .Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 11
III. Khả năng ứng dụng và triển khai 11
IV. Kiến nghị đề xuất 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
20