Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu Luận Những chính sách trong quá trình xây dựng mô hình phát triển giáo dục mới tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.3 KB, 17 trang )

I. Đặt vấn đề.
Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm hình thành, xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước. Suốt quá trình này đi kèm với vấn đề phát triển
kinh tế, văn hóa… thì giáo dục và đào tạo luôn được mọi thế hệ phát
huy.Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề giáo dục ngày càng
được nhà nước quan tâm, hệ thống giáo dục quốc dân đã được xây dựng,
khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, các
loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục
đã được mở rộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ
rệt về số lượng học sinh, sinh viên. Chính những sự đổi thay về giáo dục
đã góp phần đưa vị thế con người Việt Nam lên một tầm cao mới.Vấn đề
quan trọng nhất đang được các cấp nhà nước quan tâm, làm thế nào nâng
cao trình độ dân trí, tạo việc làm ổn định cho người dân, giúp họ tiếp cận
với khoa học kỹ thuật để nâng cao thu nhập, đồng thời phát triển đất
nước. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, rất nhiều
các doanh nghiệp đã hình thành, chính đội ngũ lao động trí thức là nhân
tố quan trọng.
Tuy nhiên một vấn đề bất cập hiện nay, nhà nước đã đưa ra rất
nhiều chính sách cho phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài nhằm cung cấp lao động cho các doanh nghiệp. Nhưng trong
thực tế hầu hết các công ty đều than phiền là nhà nước đạo tạo chất
lượng thấp, không đáp ứng được yêu cầu thực tế…Trong khi đó, kiểu
đào tạo hiện nay nếu người giỏi nhưng nhà nghèo vẫn khó có cơ hội
được đi học. Thậm chí trong rất nhiều các tổ chức vẫn có hiện tượng
- 1 -
người dốt lãnh đạo người giỏi. Tất cả điều này dẫn đến hiện tượng “ chảy
máu chất xám” rất nhiều người tài đã bỏ làm tại cơ quan có mức lương
thấp, môi trường làm việc không đảm bảo…để làm cho các công ty tư
nhân, nước ngoài với mức lương cao hơn. Điều này hoàn toàn mâu
thuẫn, chính sách nào để giải quyết vấn đề trên, sao cho cả xã hội đều
phát triển, chỉ có người giỏi thực sự mới được vào đại học, nhà nước


không bỏ tiền để đào tạo nhưng ngân sách vẫn tăng, đào tạo phù hợp với
thực tế…
Với tất cả nhưng lý do trên, chúng tôi đã thống nhất hình thành
chuyên đề “ Những chính sách trong quá trình xây dựng mô hình
phát triển giáo dục mới tại Việt Nam”
II. Nội dung chuyên đề.
2.1. Thực trạng giáo dục Việt Nam.
2.1.1. Các thành tựu đạt được trong giáo dục.
2.1.1.1. Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước
hết là ở giáo dục phổ thông.
Trong những năm vừa quá, nhà nước ta đã xây dựng được hệ thống
giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học,
bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình nhà trường và phương thức giáo
dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng đến khắp các xã,
phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rệt về số lượng học sinh, sinh viên,
khắc phục tình trạng giảm sút quy mô trong những năm từ 1986-1987
- 2 -
đến 1991-1992. Năm học 2003-2004, có khoảng 22,7 triệu người theo
học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy
nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt. Năm 2004 về cơ bản đã đạt và
vượt các chỉ tiêu mà Chiến lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005.
Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân
lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo
thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp
phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình
thành xã hội học tập.
2.1.1.2. Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện
các mục tiêu chiến lược :
Về nâng cao dân trí: Kết quả xóa mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã
được duy trì, củng cố và phát huy. Chủ trương PCGD THCS đang được

triển khai tích cực, hiện đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt
chuẩn quốc gia. Một số tỉnh và thành phố đã bắt đầu thực hiện PCGD
bậc trung học (bao gồm THPT, THCN và dạy nghề). Số năm đi học bình
quân của cư dân 15 tuổi trở lên tăng liên tục từ 4,5 (vào năm 1990) lên
6,34 (vào năm 2000) và đến năm 2003 là 7,3. Bình đẳng giới trong giáo
dục tiếp tục được đảm bảo. Đây là những thành tựu quan trọng, nhất là
khi so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế và thu nhập tính
theo đầu dân tương đương hoặc cao hơn nước ta.
Về đào tạo nhân lực: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 13% năm 1998
đã tăng lên trên 23% năm 2003. Chất lượng nguồn nhân lực đã có
chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất
- 3 -
nước hơn 10 năm qua có phần đóng góp rất quan trọng của đội ngũ lao
động, mà tuyệt đại đa số được đào tạo ở trong nước. Nước ta cũng đã bắt
đầu chủ động đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động.
Về bồi dưỡng nhân tài: việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên
có năng khiếu đã được chú trọng và đạt được những kết quả rõ rệt. Nhà
nước và một số ngành, địa phương đã dành một phần ngân sách để triển
khai chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) trong các
lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý v.v. ở các nước tiên tiến. Số cán
bộ này, sau khi tốt nghiệp đã trở về nước công tác và bắt đầu phát huy
tác dụng.
2.1.1.3. Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và
có hiệu quả hơn.
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã
bảo đảm cho con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản.
Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng chỉ
tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc thiểu số ở địa
bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn

cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách
học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc.
Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở
trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khơmer được dạy cả ở
trường THCS.
- 4 -
Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các
vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường,
lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp
tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và
các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các
gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học
phổ cập.
2.1.1.4. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu
Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ,
toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo
dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược,
nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp
ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện nay. Đặc biệt, sự tiến
bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh viên
cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn
định chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình
hình quốc tế và âm mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với
nước ta thời gian vừa qua.
2.1.1.5. Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn
Đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
đông đảo với tổng số trên một triệu người (khoảng 950.000 giáo viên,
giảng viên và trên 90.000 cán bộ quản lý giáo dục), với trình độ ngày
càng được nâng cao.
- 5 -

Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng
miền đã được cải thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực
hiện chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá
trường, lớp học. Một số địa phương, một số trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng bước hiện đại
hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
( Trích từ : website Tuổi trẻ online - Toàn văn báo cáo tình hình
giáo dục Việt Nam)
Với những thành tựu giáo dục kể trên chúng ta cũng nhận thấy
được, trải qua hàng ngàn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước,
nhân dân ta mọi thế hệ đều có truyền thống hiếu học. Tất cả đều nỗ lực
dốc công sức, tiền của đầu tư cho sự nghiệp giáo dục
Trong giai đoạn hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Quốc
hội, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự
quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức, đoàn thể và toàn xã hội
đối với giáo dục. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các
chính sách và trực tiếp chỉ đạo ngành giáo dục triển khai thực hiện các
chủ trương của Đảng và Quốc hội. Các địa phương đã quan tâm chỉ đạo
và đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất và giải quyết chế độ cho giáo
viên. Toàn xã hội không chỉ đóng góp tiền của, công sức, mà cả về trí tuệ
cho việc xây dựng và phát triển giáo dục, tham gia trực tiếp vào các hoạt
động giáo dục.
Tham gia vào sự nghiệp giáo dục phải kể đến đội ngũ những người
giảng dạy luôn có ý thức trách nhiệm, lòng yêu nghề vượt qua mọi khó
- 6 -
khăn. chính họ trực tiếp tham gia vào giảng dạy, bồi dưỡng, truyền đạt
kiến thức cho học sinh – sinh viên.
2.2. Các bất cập, yếu kém và khuyết điểm trong giáo dục
2.2.1. Chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn thấp;
phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới.

Kiến thức cơ bản về xã hội, kỹ năng thực hành và khả năng tự học
của số đông học sinh phổ thông còn kém. Nhà trường phổ thông vẫn
chưa khắc phục được tình trạng thiên về dạy chữ, nhẹ về dạy người.
Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và
trung học phổ thông còn chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng đào
tạo đại trà của giáo dục nghề nghiệp và đại học còn thấp, tình trạng
người học thiếu cố gắng, thiếu trung thực trong học tập khá phổ biến;
tinh thần hợp tác, khả năng sáng tạo, năng lực thực hành, giải quyết độc
lập các vấn đề còn yếu. Chất lượng giảng dạy, học tập các môn chính trị
còn thấp, hiệu quả chưa cao. Các ngành mũi nhọn, các lĩnh vực công
nghệ mới ở dạy nghề, đại học, sau đại học nhìn chung còn kém các nước
tiên tiến trong khu vực về cả nội dung lẫn phương pháp đào tạo. Về cơ
bản, chưa xây dựng được các ngành nghề đào tạo mũi nhọn ngang tầm
khu vực và quốc tế.
Ở tất cả các cấp học, bậc học, cách dạy, cách học trong các nhà
trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, nặng về lý thuyết, nhẹ về
thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo của người
học. Cách thức đánh giá, tổ chức thi cử chậm được đổi mới, tạo ra tâm lý
dạy và học để đối phó với thi cử, gây căng thẳng cho người học, người
- 7 -
dạy, cho xã hội, làm chậm quá trình đổi mới phương pháp dạy và học
trong nhà trường.
2.2.2. Các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều bất cập.
Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa thừa, chưa đồng bộ; trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận còn thấp. Cơ sở vật chất rất
thiếu và lạc hậu. Nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa bảo đảm nhu cầu
chi thường xuyên, nhất là đối với các tỉnh khó khăn; cơ cấu chi ngân
sách giáo dục còn chưa hợp lý, kinh phí chi thường xuyên chủ yếu mới
chỉ bảo đảm chi lương và các khoản phụ cấp (chiếm hơn 80% tổng chi
thường xuyên của ngân sách giáo dục), phần chi cho hoạt động chuyên

môn không đáng kể. Các quy định hiện hành về quản lý ngân sách, tài
chính, nhân sự chưa tạo cho ngành giáo dục được chủ động trong việc
điều hành các nguồn lực. Đầu tư còn dài trải, chưa tập trung cao cho các
mục tiêu ưu tiên.
2.2.3. Con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo)
và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao
Việc thực hiện chính sách cử tuyển đại học gặp khó khăn do quy
định cứng về địa bàn cư trú của đối tượng cử tuyển trong điều kiện nhiều
xã đặc biệt khó khăn không đủ nguồn. Mặt khác, số học sinh đã được cử
đi học tuy được cấp học bổng, được tạo điều kiện ăn ở tại ký túc xá
nhưng mức học bổng còn thấp, khả năng tiếp thu kiến thức còn hạn chế,
lại chưa quen với những thay đổi trong sinh hoạt nên chưa yên tâm học
tập.
- 8 -
Việc đầu tư cho các xã miền núi không thuộc diện được hưởng
chương trình 135 rất hạn chế nên giáo dục ở các xã này phát triển chậm.
Các gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng
số hộ gia đình nước ta nhưng chưa có chính sách hỗ trợ phù hợp nên con
em các gia đình này gặp khó khăn về tài chính khi học tập ở các bậc học
cao. ( Trích từ : website Tuổi trẻ online - Toàn văn báo cáo tình hình
giáo dục Việt Nam)
2.3. Những hệ quả của nền giáo dục kém chất lượng
Mục tiêu hàng đầu của giáo dục Việt Nam là làm thế nào để nâng
cao trình độ dân trí, giúp học sinh tiếp cận được kiến thức và áp dụng
chính xác vào thực tiễn. Đặc biệt trong giai đoạn toàn cầu hóa, sự phát
triển bùng nổ về kinh tế đã hình thành đông đảo các công ty trong và
ngoài nước. Đây chính là môi trường thuận lợi để những lao động trí
thức làm việc, phát triển nhằm nâng cao thu nhập góp phần xây dựng,
phát triển đất nước.

Nhưng với sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin, đòi hỏi
những lao động này cần phải trang bị đầy đủ những kiến thức mới có thể
đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe từ thực tế.
2.3.1. Hiện tượng “chảy máu chất xám”
Hiện nay, theo thống kê (ước đoán) bình quân 1 sinh viên đại học chính
quy, 1 ngân sách nhà nước phải đầu tư 2,8 triệu đồng/năm/sinh viên.
Như vậy bình quân 1 cử nhân được đào tạo 4,5 năm thì ngân sách phải
bỏ ra là 12,6 triệu đồng. Khi ra trường các cử nhân giỏi thường làm cho
các công ty tư nhân nước ngoài, lương tháng >500 USD/tháng. Cử nhân
- 9 -
khá và trung bình khá làm việc cho các công ty trong nước với mức
lương >2 triệu/tháng. Cử nhân trung bình, thậm chí yếu kém vào làm nhà
nước mức lương < 2 triệu/tháng. Bên cạnh đó, hầu hết các công ty đều
than phiền là nhà nước đạo tạo chất lượng thấp, không đáp ứng được yêu
cầu thực tế…Trong khi đó, kiểu đào tạo hiện nay nếu người giỏi nhưng
nhà nghèo vẫn khó có cơ hội được đi học. Thậm chí trong rất nhiều các
tổ chức vẫn có hiện tượng người dốt lãnh đạo người giỏi. Tất cả điều này
dẫn đến hiện tượng “ chảy máu chất xám” rất nhiều người tài đã bỏ làm
tại cơ quan có mức lương thấp, môi trường làm việc không đảm bảo…để
làm cho các công ty tư nhân, nước ngoài với mức lương cao hơn.
Hàng năm các trường ĐH đào tạo ra rất nhiều kỹ sư nông nghiệp,
nhưng các viện nghiên cứu đều đã hết biên chế. Về làm việc trực tiếp
trên ruộng đồng thì các kỹ sư lại không muốn. Ngay những người về làm
việc tại cơ sở cũng rất lúng túng, vì nông dân đòi hỏi giống mới, kỹ thuật
mới, chiến lược mới mà người kỹ sư mới ra trường đâu đã có nhiều kinh
nghiệm về các vấn đề này. Rốt cục đã có hàng ngàn kỹ sư, cử nhân phải
đi làm trái ngành nghề (GS – TS NGuyễn Lân Dũng -Lỗ hổng đào tạo
"chất xám" nông nghiệp)
Chính điều này, đã dẫn đến hệ quả tình trạng những nhân viên có
năng lực và trình độ cao thường “nhảy” sang những nơi có lương cao

hơn, chế độ đãi ngộ tốt hơn hiện nay không chỉ xảy ra ở những ngành,
lĩnh vực thiếu nhân lực như ngân hàng, chứng khoán, điện lực mà
đang trở thành “vấn nạn”, làm đau đầu hầu hết các doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp nhà nước.
- 10 -
2.3.2. Hiện tượng người giỏi nhưng nghèo vẫn không được đi học
Những năm qua, trước những biến động về giá cả thị trường đã
khiến giá cả tăng cao đột biến, điều nàykhiến điều kiện kinh tế của cá hộ
khó khăn lại càng thêm khó khăn. Rất nhiều học sinh, nhất là học sinh
giỏi vì nhà không có điều kiện đã phải bỏ học để đi làm phụ giúp gia
đình.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng nước ta là nước nông nghiệp,
khoảng 75% là diện tích đồi núi, các trường học tập hầu hết tập trung ở
các thành phố lớn. Chính vì điều này, làm ảnh hưởng đến việc đi học của
rất nhiều học sinh….
2.3.3. Hiện tượng người dốt lãnh đạo người giỏi.
Do hiện tượng những người có năng lực chuyển đổi nơi làm việc,
từ các cơ quan nhà nước sang các công ty tư nhân Như vậy, trong đội
ngũ làm việc tại các cơ quan nhà nước chỉ còn tồn tại rất nhiều những lao
động chỉ có năng lực trung bình, thậm chí là yếu kém. Mà nhà nước ta,
chủ yếu vẫn do các cơ quan nhà nước nắm quyền quản lý, như vậy hiện
tượng người dốt lãnh đạo người giỏi là hiện tượng phổ biến ở nước ta.
2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo.
Trước những thực trạng trên, chúng tôi đã có ý tưởng xây dựng
một mô hình mới trong giáo dục, nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, nâng
cao năng lực làm việc và tăng hiệu quả kinh tế.
- 11 -
(Mô hình liên kết đào tạo giữa doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo và
nhà nước hỗ trợ về chính sách liên quan)
Theo mô hình trên Doanh nghiệp là nhân tố trong việc tự kiếm đầu

vào có chất lượng cho chính doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp, sẽ đến
các trường trung học phổ thông để tìm kiếm những học sinh giỏi đáp ứng
theo nhu cầu của mình. Những thảo thuận giữa doanh nghiệp với người
học là doanh nghiệp sẽ đầu tư tất cả các chi phí liên quan đến việc học
hành của sinh viên này. Bên cạnh đó, chính các sinh viên cũng phải có
những cam kết, phải học tập thật tốt. sau khi ra trường phải làm việc cho
chính doanh nghiệp đã đầu tư cho mình học. Trong trường hợp sinh viên
- 12 -
Doanh
nghiệp
Các
trường
đào tạo
Phát hiện
học viên
theo yêu
cầu
Đầu tư
các
khoản
trong
quá trình
học
Giám sát
quá trình
học và
đào tạo
đối với
học viên
Thi

tuyển
đầu vào
đảm bảo
chất
lượng
Thực
hiện tốt
quá trình
giảng
dạy
Đảm bảo
chất
lượng
đầu ra
hiệu quả
Nhà nước
( Với các chính sách liê quan đến
đào tạo)
không làm tại doanh nghiệp phải bồi hoàn chi phí cho doanh nghiệp theo
cam kết giữa hai bên. Doanh nghiệp cũng quyết định trong việc tìm kiếm
cơ sở đào tạo có chất lượng theo yêu cầu để gửi các sinh viên vào học.
Các trường đào tạo chất lượng là nơi tiếp nhận các học sinh vào
học, trong quá trình đào tạo các trường phải thực hiện quá trình giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng có sinh viên. Trong quá trình tuyển sinh,
chỉ có những học sinh giỏi thực sự mới có thể đỗ vào trường. Nhà trường
phải thực hiện quá trình đào tạo đảm bảo chất lượng, sao cho sinh viên ra
trường có đầy đủ kiến thức, năng lực làm việc tại các doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện các chính sách đào tạo, đồng thời giám sát
hoạt động của các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo.
Hiệu quả của mô hình trên là các doanh nghiệp đáp ứng được yêu

cầu của mình, vừa phát hiện được người tài làm việc cho doanh nghiệp.
Chính những người này góp phần quan trọng nâng cao doanh thu cho
doanh nghiệp. Không chỉ vậy chỉ trong một thời gian ngắn tất cả các chi
phí họ bỏ ra khi đầu tư cho sinh viên sẽ dần được hoàn lại.
Đối với các trường, do quá trình đào tạo hiệu quả sẽ tạo được tiếng
vang từ đó thu hút được người tài vào học. Trường sẽ có điều kiện để cải
thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy…
Nhà nước là trung gian giám sát quá trình hoạt động của các doanh
nghiệp và các cơ sở đào tạo, từ đó đưa ra những chính sách giúp cho
doanh nghiệp và trường hoạt động một cách hiệu quả nhất. Trong khi
nhà nước không phải tốn một khoản hỗ trợ nào như trước mà vẫn có
được những người tài
- 13 -
Nếu có sự liên kết chặt chẽ và hiệu quả giữa doanh nghiệp, các cơ
sở đào tạo, nhà nước theo mô hình trên. Chúng tôi tin rằng, đất nước ta
sẽ có một đội ngũ lao động giỏi, tài năng làm việc tốt trong môi trường
công nghiệp hóa – hiện đại hóa như hiện nay.
2.5. Kiến nghị
Từ những thực trạng về giáo dục, đào tạo nước ta, bên cạnh những
hiệu quả còn có nhiều bất cập và khó khăn. Những chính sách đưa ra
nhằm tạo điều kiện cho những học sinh nghèo vẫn có thể được đi học,
các doanh nghiệp tìm kiếm được nhân tài, góp phần phát triển đất nước.
Chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị đối với các chính sách đào tạo.
2.5.1. Chính sách về tín dụng
Thực hiện chính sách cho vay tín dụng đối với các học sinh, sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn theo học tại các cấp trường. Mục đích cho
vay là để trang trải một phần chi phí cho việc học tập, sinh hoạt của học
sinh, sinh viên trong thời gian theo học tại trường bao gồm: tiền nộp học
phí; chi phí mua sắm sách vở, phương tiện học tập, nghiên cứu; chi phí
khác. Việc cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thủ tục cho vay thủ tục

phải đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện. Các cơ quan cho vay phải thực hiện
công khai ngân sách, các tổ chức cho vay phải đảm bảo sự minh bạch
công tâm.
2.5.2. Chính sách trong quá trình thu hút, tuyển dụng người tài
Trong quá trình tuyển dụng của doanh nghiệp phải đảm bảo mức
lương phù hợp với năng lực của lao động. Trọng dụng nhân tài, tạo môi
- 14 -
trường thuận lợi giúp cho người lao động yên tâm làm việc, thể hiện hết
năng lực của mình.
2.5.3. Chính sách trong quá trình đào tạo
Các cơ sở đào tạo là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình đào
tạo, giáo dục nhân tài cho các doanh nghiệp, cho nhà nước. Đầu vào cho
các trường phải đảm bảo chất lượng, quá trình thực hiện giảng dạy nên
kết hợp giữa lý thuyết với thực hành, thực hành là chủ yếu. Thực hiện
việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật – công nghệ đối với việc học và
nghiên cứu của học viên. Cơ sỏ vật chất phục vụ cho học và giảng dạy
phải luôn được quan tâm đổi mới. Đội ngũ cán bộ nhân viên giảng dạy
phải nâng cao năng lực, truyền đạt kiến thức phù hợp với điều kiện thực
tế.
III. Kết luận
Hiện nay, vấn đề giáo dục các cấp học đang được xã hội quan tâm.
Bên cạnh những thành tựu góp phần nâng cao trình độ dân trí, nâng cao
thu nhập cho đội ngũ lao động trí thức, đồng thời góp phần phát triển đất
nước. Giáo dục đào tạo còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập
Để phát huy những thành tựu và khắc phục khó khăn chúng tôi đã
có ý tưởng đưa ra mô hình phát triển giáo dục mới với sự liên kết giữa
người học, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nhà nước với những chính
sách liên quan đến đào tạo. Tất cả liên kết hài hòa, thống nhất sẽ giải đáp
được những vấn đề, nâng cao chất lượng lao động cho các doanh nghiệp.
Các cơ sở đào tạo sẽ luôn được đổi mới hiệu quả, người lao động sẽ có

- 15 -
môi trường làm việc phù hợp và thu nhập được tăng cao hơn. Nhà nước
sẽ càng ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống tăng cao.
MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề 1
II. Nội dung chuyên đề 2
2.1. Thực trạng giáo dục Việt Nam. 2
2.1.1. Các thành tựu đạt được trong giáo dục 2
2.1.1.1. Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước hết là
ở giáo dục phổ thông. 2
2.1.1.2. Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các
mục tiêu chiến lược 2
2.1.1.3. Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có
hiệu quả hơn 3
2.1.1.4. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu 3
2.1.1.5. Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn 3
2.2. Các bất cập, yếu kém và khuyết điểm trong giáo dục 4
2.2.1. Chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn thấp;
phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới 4
2.2.2. Các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều bất cập. 4
- 16 -
2.2.3. Con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) và
con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao 5
2.3. Những hệ quả của nền giáo dục kém chất lượng 5
2.3.1. Hiện tượng “chảy máu chất xám” 6
2.3.3. Hiện tượng người dốt lãnh đạo người giỏi 6
2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo 6
2.5. Kiến nghị 8
2.5.1. Chính sách về tín dụng 8

2.5.2. Chính sách trong quá trình thu hút, tuyển dụng người tài 8
2.5.3. Chính sách trong quá trình đào tạo 8
III. Kết luận 9
- 17 -

×