Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.2 KB, 14 trang )

Đề tài:
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHÚ
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đảng ta và Bác Hồ coi việc GDĐĐ là sự nghiệp đào tạo một lớp người mới cho đất
nước. Việc giáo dục cho các em là một khoa học, một nghệ thuật, không nên tùy tiện chủ
quan. Bác Hồ nói: “Ngày nay chúng là nhi đồng, ít năm sau chúng sẽ là công dân, cán
bộ. Vì vậy chính phủ, các đoàn thể và tất cả đồng bào có trách nhiệm giúp sức vào việc
giáo dục nhi đồng ”.
Quan điểm khoa học đó còn được Bác chỉ rõ qua các gợi ý về phương pháp giáo
dục trẻ em là tạo cho các em: Học mà chơi, chơi mà học. Người khẳng định giáo dục thiếu
nhi là một khoa học, một nghệ thuật. Chính vì thế Người luôn mong muốn trong tâm hồn
các em trong sáng hồn nhiên có được những ảnh hưởng tốt đẹp để tạo nên một lớp người
mới phát triển toàn diện. Đảng ta từng nhấn mạnh: “Tiền đồ rạng rỡ của Tổ quốc Việt
Nam XHCN nằm trong tay thanh niên, thiếu niên và nhi đồng”.
Trong trường tiểu học, các em được học tập những kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã
hội, được học tập, vui chơi và đặc biệt là tham gia mọi hoạt động để phát triển về trí, đức,
thể, mỹ. Từ đó các em hoàn thiện dần về nhân cách, biết tự chủ, tự tin và làm chủ cuộc
sống .Vì vậy, đối với học sinh lớp 1, 2 là hai năm học đầu tiên của bậc học tiểu học về mặt
kiến thức, đầu năm lớp 1 các em chưa biết đọc chưa biết viết và lên đến lớp 2 đọc, viết đã
tương đối thành thạo đối với các em nhưng về vốn kinh nghiệm đạo đức các em tích lũy
còn ít so với lớp 3, lớp 4 hay lớp 5. Phạm vi tri thức còn hẹp, tư duy chưa có tính khái
quát, tổng hợp, năng lực hành động chưa cao, chưa hành động vì người khác.
Giáo dục là hiện tượng vĩnh hằng, là cách thức cơ bản để văn hóa loài người tồn tại
và phát triển. Trong cuộc sống đổi mới hôm nay, với chiến lược Công nghiệp – Hiện đại
hóa Đất nước. Đảng ta xem giáo dục là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho giáo dục cũng
chính là đầu tư cho sư nghiệp phát triển xã hội.
Mục đích giáo dục nhằm nâng cao đân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
hình thành dội ngũ lao động có trí thức và tay nghề, có năng lực thực hành tự chủ, năng
động sáng tạo, có đạo đức Cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà


trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và
khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nội dung và phương pháp giáo dục cũng từ đó mà cải tiến, bô sung và tự hoàn thiện
mục tiêu đào tạo đã đề ra, để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Do đó, giáo dục có trọng trách rất nặng nề trong chiến lược phát triển kinh tế phát
triển đất nước. Con người là nguồn quý giá của xã hội vì thế giáo dục không nên có phế
phẩm.
Xuất phát từ đấy, trong nhiều năm qua, ngành giáo dục nói chung trường Tiểu học
nói riêng đã có nhiều cán bộ quản lý thầy cô đã không ngừng nghiên cứu và cải tiến hình
thức biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh, nhưng hiệu quả vẩn chưa cao và
đang tiếp tục nghiên cứu.
Từ yêu cầu khách quan của công tác giáo dục với kiến thức đã được thầy cô truyền
thụ, Tôi xin chọn đề tài “Giáo dục đạo đức dành cho HS tiểu hoc nói chung và cho HS
lớp 3 nói riêng ” Nhằm vận dụng kiến thức đã học và dạy và giải quyết những vấn đề bức
thết của ngành dể kiểm tra lại trình độ nhận thức và thực tiễn của bản thân.
II. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài “ Một số biện pháp giáo dục đạo đức HS lớp 3 ” giúp:
- Tìm ra nội dung, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao nhất, đồng
thời phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
- Thông qua việc tuyên truyền giáo dục về các chủ đề mừng đất nước, Đảng cộng
sản Việt Nam, truyền thống dân tộc, quân đội, tấm gương anh hùng tiêu biểu, truyền thống
Đồng thời trong quá trình dạy học người giáo viên phải liên hệ chặt chẽ với cuộc sống
thực tế của học sinh, phải lấy những tấm gương trong thực tế, trong sách báo để cho học
sinh noi theo. Nhưng, thực tế đa số giáo viên chưa thật sự chú trọng đến các tư liệu thực
tế, tranh ảnh, các bài thơ, bài hát hay câu ca dao, tục ngữ Chỉ dạy học sinh với kiến thức
lý thuyết suông nên các em chưa thực sự chủ động và khắc sâu kiến thức một cách bền
vững để áp dụng trong các hành động của mình mà các em sẽ quên ngay sau khi học… Từ
đó giúp các em có thêm nhiều hiểu biết để xây dựng những tình cảm tốt đẹp, lòng yêu quê
hương, niềm tự hào dân tộc, lòng biết ơn các thế hệ anh hùng đã hy sinh thân mình vì Tổ

quốc.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đây là đề tài “Một số biện pháp giáo dục đạo đức HS lớp 3” nên tôi tập trung
nghiên cứu toàn thể học sinh khối 3 ,tìm hiểu các em trong các hoạt động hay trong buổi
tổ chức các ngày lễ kỷ niệm, sự kiện lớn trong năm theo chủ điểm tháng với các nội dung,
hình thức phù hợp với lứa tuổi Hs lớp 3. Từ đó có hướng giáo dục một cách cụ thể phù
hợp từng đối tượng học sinh.
B – NỘI DUNG
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Bác Hồ nói GD đạo đức cho HS: “ Phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự
nhiên, tự động, trẻ trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những người già
sớm) Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng
học. Ở nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui, đều học”.
Lời dạy của Bác cho đến nay vẫn rất gần và sống động trong thực tiễn phải luôn
lấy lời dạy của Bác làm kim chỉ nam cho hoạt động của mình nghĩa là bên cạnh việc dạy
chữ cần tổ chức dạy cho trẻ làm người. Giáo dục cho HS phải kết hợp cả ba yếu tố đức
dục, trí dục, thể dục mà mục tiêu cao nhất là: “Cách dạy trẻ cần làm cho chúng biết yêu
Tổ quốc, thương đồng bào, biết giữ gìn vệ sinh, giữ gìn kỷ luật, học văn hóa”.
Hiểu được ý nghĩ sâu sắc từ câu nói đó và bằng cả tấm lòng tôn kính Bác, tôi đã
tìm hiểu để nắm bắt được yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục, nắm bắt được đặc
điểm về tâm sinh lý lứa tuổi của các em: Hiếu động, dễ nhớ, dễ quên, thích tìm hiểu, khám
phá nhưng cũng chóng nhàm chán, tâm lý thích: “Học mà chơi, chơi mà học” của các em
để đưa ra những nội dung phù hợp trong mỗi bài học đạo đức, tạo sự hấp dẫn, thu hút các
em tham gia đồng thời tạo cho các em sự vui vẻ, hoạt bát, hồn nhiên.
Thông qua bài học, các em phát huy được tính sáng tạo, tính năng động, tự chủ
của mình, được hoà mình vào tập thể, được giao lưu học tập, được tìm hiểu các kiến thức
có nội dung phong phú để từ đó hướng các em tới những chuẩn mực về đạo đức, những
hiểu biết về văn hoá mà các cấp, ngành làm công tác giáo dục mong muốn.
- Việc tổ chức hoạt động giáo dục đao đức là một việc làm khoa học và sáng tạo,
đòi hỏi người giáo viên phải kiên nhẫn bền bỉ và thường xuyên trau dồi kinh nghiệm .

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong một năm dạy môn đạo đức lớp 3 tôi luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi các
bạn đồng nghiệp cũng như tìm hiểu về tư liệu về giáo dục đạo đức sao cho đạt hiệu quả.
Thời gian đầu tôi luôn lo lắng phải giáo dục như thế nào? có lúc tôi cảm thấy “sợ”, do
cách giáo dục còn đơn điệu, thiên về kiểm điểm, giáo huấn, không phù hợp tâm lý học
sinh tiểu học. Đạo đức của học sinh đó là kết quả của việc dạy học môn Đạo đức mà học
sinh có được hiệu quả tốt khi các em có hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá
trình dạy- học. Do đó người giáo viên cần căn cứ vào từng bài, căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của lớp, trường và địa phương mà thiết kế tiết học thành các hoạt động phù
hợp; tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm, thói quen đạo đức
đã có để tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới, kỹ năng mới. Người giáo viên phải
hướng dẫn học sinh tiếp cận theo hướng đi từ quyền, trách nhiệm đến bổn phận của học
sinh. Cách tiếp cận đó giúp cho việc dạy học đạo đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn
tránh được tính chất nặng nề, áp đặt
III- CÁC HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP TỔ CHỨC CHƯƠNG TRÌNH:
1. Yêu cầu chung:
Tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức là việc làm thường xuyên và quan trọng
không thể thiếu được của GV . Đây là yếu tố quyết định sự chấn chỉnh nhân cách cho HS
cá biêt. Chính vì vậy để tổ chức tốt giáo dục đạo đức cho học sinh cần:
+ Giáo dục ý thức đạo đức: Cung cấp tri thức, giúp học sinh hiểu biết về một số nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức ở mức sơ giản, cụ thể gần gũi với đời sống của học sinh.
+ Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức:
- Là giúp học sinh hình thành xúc cảm, tình cảm đạo dức tích cực, bền vững đẻ đảm
bảo cho hành vi đạo dức luôn nhất quán với nhu cầu đạo đức, hình thành niềm tin đạo đức,
từ đó tạo ra động cơ đạo đức trong sáng trong việc thực hiện bổn phận, trách nhiệm đạo
đức của mình.
+ Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức:
- Giúp học sinh rèn luyện thói quen hành vi đúng chuẩn mực., biết hành động phù hợp
với nhu cầu đạo đức xã hội.
Để thực hiện 3 nhiệm vụ có quan hệ mật thiết với nhau đòi hỏi nhà giáo dục phải tổ

chức tốt các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường để học sinh thường xuyên được
vận dụng, thực hành trong các mối quan hệ của các em
- Hình thức giáo dục cần khoa học, gọn nhẹ, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý “Học
mà chơi, chơi mà học” của các em học sinh.
2. Tổ chức thực hiện:
2.1. Thế nào là học sinh cá biệt:
Trước khi vào vấn đề này ta cần tìm hiểu thế nào là học sinh cá biệt ?
Ví vụ 1: Truyền thuyết về vua Hùng có bầy voi trăm con, khi tìm thấy Đất tổ
dựng nước thì 99 con quay đầu về một hướng, chỉ còn một con voi duy nhất tách khỏi bầy
quay đầu về một hướng khác.
Ví dụ 2 : Trong ột xóm ấp nổi tiếng là trật tự an ninh, bổng nổi lên một người hàng
xóm hay rượu chè, đập phá, chửi bới.
Ví dụ 3 : Trong một lớp học có một học sinh vô lễ ới thầy cô.
Một con voi quay đầu ngược hướng, một anh hàng xóm xấu tính, một em học sinh vô lễ
với thầy cô là những hiện tượng cá biệt trong cuộc sống. Vậy cá biệt là chỉ sự vật riêng lẻ,
không phổ biến hành động suy nghĩ không hợp lệ, không đúng, đi ngược với các mối quan
hệ trong cộng đồng và tệ hại hơn là gây thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho chinha cá
nhân mình và có khi cho cả tập thể xã hội.
Như ở trên ta đã tìm hiểu cá biệt là gì ?Từ đó ta có thể định nghĩa học sinh cá
biệt : Học sinh cá biệt là học sinh có những biểu hiện khác thường so với tập thể học sinh
về mặt tâm lý, sinh học như ; ngỗ nghịch , quậy phá…
2.2. Những biểu hiện của học sinh cá biệt :
Sau một thời gian quan sát, theo dõi, ta thấy ở độ tuổi học sinh bậc Tiểu học thường
xuất hiện hai dạng học sinh phổ biến :
- Dạng học sinh trầm tư.
- Dạng học sinh quá hiếu động.
a. Dạng học sinh trầm tư:
Các em ở dạng này thường có những biểu hiện sau:
Quan hệ giao tiếp với bạn bè ít cởi mở hiếm khi có bạn thân, thường ngồi trong lớp
dể làm bạn bè xa lánh.

- Đối với thầy cô không dán đến gần, xa cách làm cho thầy cô nhiều khi ít chú ý
- Đối với phong trào hoạt động trong trường , lớp tỏ thái độ e ngại không hoà đồng.
Đối vói những học sinh này nếu các em thông minh, có khiếu sẽ dẫn dén tính ích kỉ,
tự phụ cho rằng mình trên mọi người, không ai dám chơi với mình. Ngược lại, các em này
sẽ học rất kém, càng xa lánh mọi người hơn, bi quan, yếu thế, buồn chán ; Nếu có một tác
động xấu vô tình nào đó sẽ ẫn đến các em này đén chổ bỏ học, tự tử….
b. Dạng học sinh quá hiếu động:
Dạng học sinh quá hiếu động thì trái lại các em thường có những biểu hiện sau:
- Trong giờ học các em thường ngồi không yên, ngọ quậy, khiều bạn này chọc bạn
kia, nói chuyện gây mất trật tự, nếu không thì các em trong giờ học môn này lại đem môn
khác ra xem dẫn đếm không hiểu bài do phân tán sự tập trung chú ý, nhiều khi gây phiền
lòng thầy cô, nếu bị khiển trách các em dàng dẫn đến hiện tượng cúp tiết, bỏ học, tệ hơn là
tỏ thái độ vô lễ, hổn xược với thầy cô.
- Ngoài giờ học các em nam hay có những hành động quá mạnh mẽ, quá khích như :
đánh lộn, xô đẩy,….Còn nữ thì đùa giỡn, niếu kéo bạn quá mạnh tay.
Nhìn chung, các em ở hai dạng này bề ngoài như có vẻ bất cần tất cả, không hề nghĩ
đến hậu quả của việc mình làm và cả hai dạng đểu rất dể bị cái xấu cám dỗ, mua chuộc,
đưa đẩy vào con đường tội lỗi, phạm pháp dẫn dến nguy hiểm đối với gia đình và xã hội.
2.3 Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
a. Tìm hiểu nguyên nhân ảnh hưởng đến học sinh cá biệt:
Có những học sinh ở lớp 1-2 là con ngoan trò giỏi nhưng khi đến lớp 3 lại có thái
độ tự ti, xem thường ý kiến tập thể, hành động theo ý riêng của mình, hiện tượng học sinh
cá biệt trên có thể là do một số nguyên nhân sau:
* Do điều kiện sống, sinh hoạt gia đình:
Thời kỳ bắt đầu từ 8-9 tuổi là giai đoạn giữa của bậc tiểu học; vị trí của dạng học
học sinh này trong gia đình cũng có sự thay đổi các em được gia đình phân công làm việc
như: chăm sóc em nhỏ, lo toan công việc nội trợ làm một số việc để góp phần tăng thu
nhập.
Tuổi 8-9 là thời kỳ tính tình còn bồng bột, nếu các em có ý thức trách nhiệm sẽ trở
thành những công dân tốt trong tương lai cho đất nước, nếu ngược lại các em sẽ có tính ích

kỉ, tự kiêu, tự mãn, chủ quan, tách khỏi tập thể và trở thành dạng cá biệt.
* Do đặc điểm tâm lý năng khiếu sở trường của học sinh:
Các em học sinh ở bậc tiểu học những cảm giác, tri giác, trí nhớ, sự chú ý, quá
trình tư duy ngôn ngữ sự tưởng tượng hứng thú trong nhận thức tình cảm và ước của các
em nhìn chung cũng đã có sự thay đổi rõ rệt theo hướng sâu sắc, toàn diện, phong phú.
Các em có thể phân biệt cái chính với cái phụ, cái bản chất và không bản chất.
Bên cạnh những ưu điểm về mặt tâm lý một số em vẫn còn biểu hiện sai lệch như:
hiểu vấn đề hoặc đưa ra những kết luận hấp tấp, phiến diện, do tính cách còn bồng bột, sôi
nổi. Trong cuộc sống nếu bị một cú sóc nào đó thì các em này đễ sinh ra bi quan, buồn
chán rồi đi đến những suy nghĩ hành động sai lệch…
Có những trường hợp do tâm lý, sở thích của các em có năng khiếu và học cũng rất
giỏi, mà các em này không thích học. Trong trường hợp này nếu giáo viên không thường
xuyên quan tâm theo dõi, kèm cặp và không giáo dục cho học sinh này thấy được tầm
quan trọng của việc học tập thì kết quả học tập của các em này sẽ kém; Từ đó học sinh này
có thể trở thành học sinh cá biệt.
* Do nhà trường, gia đình, địa phương:
Mác nói: “ Bản chất con người là tổng và các quan hệ xã hội”. Môi trường giao
tiếp học tập của học sinh rất phong phú và đa dạng với nhiều mối quan hệ muôn màu
muôn vẻ.
Đối với học sinh cá biệt có thể ở gia đình các bậc phụ huynh chưa có phương pháp
quản lý, giáo dục tốt và gia đình cũng có thể là môi trường giáo dục chưa tốt đối với học
sinh. Học sinh chưa có phương pháp rèn luyện tốt khi giao tiếp ngoài xã hội, cuộc sống
muôn màu muôn vẻ khó chọn lọc được cái nào là đúng, sai. Cái nào nên học và cái nào
nên xa lánh. Từ đó bị nhưng người không tốt lôi kéo, quyến rũ, những thói hư tật xấu chạy
theo những lối sống truỵ lạc, hư hỏng.
Nhà trường cũng còn một bộ phận nhỏ: Giáo viên chưa quan tâm đến việc giáo dục
học sinh cá biệt hoặc chưa có những hình thức, phương pháp giáo dục tốt. Làm cho học
sinh chểnh mảng việc học buông lỏng bản thân.
b. Biện pháp:
Trường Tiểu học là bậc học quan trọng đối với học sinh khi bước vào THCS. Nhà

trường rất chú trọng đến việc giáo dục học sinh cá biệt, như lời Bác Hồ dạy: “Người có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó người có tài mà không có đức là người vô
dụng”. Để bồi dưỡng cho học sinh cảm xúc đạo đức tích cực yêu cái đúng, tốt, ghét cái
xấu. Tin tưởng và ham muốn theo cái tốt, cái đúng. Xây dựng cho học sinh kinh nghiệm
thói quen đơn giản thực hành những hành vi đạo đức trong sinh hoạt hàng ngày. Để đạt
được điều đó khi dạy một bài đạo đức giáo viên phải chuẩn bị chu đáo về thiết kế bài dạy
phải biết kết hợp giữa phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục làm sao cho học
sinh dễ hiểu, có tính thực tế tức là phải biết gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học
sinh, phải lấy những tấm gương, truyện kể từ cuộc sống thực. Điều đó sẽ giúp cho bài học
đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động với trẻ như vậy sẽ giúp cho các em có cảm
giác thoải mái, tích cực chủ động tiếp thu kiến thức.
Vì thế, giáo dục cho học sinh là song song với giảng dạy kiến thức văn hoá cho
học sinh. Nhằm đào tạo con người mới có đủ tài đức.Giáo dục đạo đức cho học sinh và
giáo dục học sinh cá biệt bằng những hình thức, biện pháp đều được nhà trường lên kế
hoạch cụ thể.
Ở trường Tiểu học ngay từ đầu năm học ban giám hiệu nhà trường đã có kế hoạch
phân công tổ chuyên môn theo dõi việc giảng dạy của giáo viên chuyên trách và giáo viên
chủ nhiệm và việc học tập của học sinh qua từng môn học. Kết quả học tập của học sinh
được giáo viên chủ nhiệm và ghi điểm.
Song bên cạnh giáo viên chủ nhiệm cũng tìm hiểu học sinh qua những thái độ
thuộc hành vi đạo đức của học sinh như: Thích làm việc tốt, hăng hái học tập hoặc có hành
vi quậy phá trong lớp, không chấp hành nội qui của nhà trường, chưa ý thức về bản thân,
gia đình, xã hội.
Trên cơ sở đó, giáo viên phát hiện học sinh cá biệt và có kế hoạch cụ thể giáo dục
học sinh cá biệt như: Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên phân môn về những
biểu hiện của học sinh cá biệt trong lớp và nhận lại những thông tin. Kết quả sự chuyển
biến từ tác động giáo dục đó hoặc chưa có sự chuyển biến và tiến triển theo hướng khác
cần áp dụng biện pháp khác có kết quả hơn.
Trong sinh hoạt giáo viên nên đặc biệt chú ý đến các hoạt động của học sinh cá biệt
và có hướng giúp đỡ cũng như nhận xét, đánh giá, động viên. Từng bước hình thành về ý

thức học tập, rèn luyện à có thái độ tốt đối với cuộc sống.
Qua thời gian nhất định học sinh chưa có sự chuyển biến, nên báo đến Ban giám
hiệu.Ban giám hiệu tìm hiểu thêm về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh cá biệt để
bổ sung vào kế hoạch cho giáo viên chủ nhiệm tiếp tục giáo dục học sinh. Liên hệ với gia
đình thông qua két quả học tập, rèn luyện ở trường cho phụ huynh học sinh nắm và kết
hợp nhà trường giáo dục học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Nhà trường cũng thường xuyên đến gia đình kiểm tra việc giáo dục của gia đình và
rèn luyện học tập của học sinh
Nhà trường tạo ra môi trường giáo dục dùng tập thể tác động đến học sinh cá biệt
giúp cho các em có nhận thức đúng đắn và có sự phấn đấu vươn lên.
Qua tìm hiểu những hình thức và biện páp giáo dục của trường Tiểu học trong quá
trinh dạy các em biết được một số kết quả như sau:
- Nhà trường kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội để giáo dục học sinh cá biệt
và có kế hoạch cụ thể để giáo dục học sinh cá biệt. Vì thế đã hạn chế dần học sinh cá biệt
hàng năm, tạo được môi trường giáo dục tốt trong nhà trường
- Song, một ít thầy cô do hoàn cảnh gia đình khó khăn chưa tích cực trong công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh, có thầy cô tay nghề còn hạn chế trong việc giáo dục học
sinh cá biệt, hoặc giáo dục theo cảm tính không có kế hoạch, phương pháp cụ thể để giáo
dục từng đối tượng học sinh cá biệt.
* Giáo dục học sinh trong nhà trường:
Để thực hiện tốt công tác giáo dục học sinh cá biệt, cần xây dựng lớp học, nhà
trường thành một trường giáo dục tốt để học sinh có điều kiện rèn luyện phẩm chất, năng
lực cá nhân.
cú mt mụi trng giỏo dc hc sinh,nh trng phi cú y v c s vt
cht v trang thit b dy v hc giỏo viờn cú iu kin thc hin nguyờn lý giỏo dc
hc i ụi vi hnh v thc hnh s l tiờu chun kim nghim li chõn lý,lm cho hc
sinh hng thỳ,sai mờ hc tp, tỡm hiu, nghiờn cu. qua ú,Giỏo viờn cú thờm iu kin
tip cn i tng tỡm hiu giỳp hc sinh cỏ bit.
Ngoi ra nh trng cn phi cú nhng khu hiu giỏo dc, giỏo dc o c
cho hc sinh.

1. Sống, học tập, rèn luyện theo tấm gơng đạo đức và lời dạy của Bác Hồ.
2. Có nghị lực vơn lên mọ khó khăn giang khổ để học tập, thực hiện tốt cuộc vận
động (hai không)
3. Kính trọng, lễ phép với thầy cô, ông bà, cha mẹ, anh chị và ngời trên, thơng yêu
ngời dới, đoàn kết, quý mến bạn bè, giúp đỡ những ngời khó khăn hoạn nạn.
4. Chấp hành nội quy, quy định của nhà trờng, không có hành vi bạo lực.
5. Hăng hái tập thể dục thể thao, tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo.
Đây chính là cụ thể hoá thực hiện bốn cuộc đại vận động trong ngành GD là Học tập
và làm theo tấm gơng đạo đức Hồ Chí Minh, cuộc vận động hai không với những
nội dung mới; cuộc vận động mỗi thầy cô giáo là tấm gơng đạo đức, tự học, sáng
tạo, xây dựng trờng học thân thiện, HS tích cực theo tinh thần dù khó khăn đến
đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt.
Xây dựng cho đợc môi trờng s phạm trong lành, xanh, sạch đẹp theo tinh thần
trờng ba không năm có, trờng học thân thiện, HS tích cực.
Tổ chức cho HS các hoạt động để rèn luyện, bồi dỡng phẩm chất đạo đức.
Giáo dục HS phải biết thơng yêu quý trọng giữa ngời với ngời, tuyệt đối không dùng
bạo lực trong trờng học và ngoài xã hội, biết bảo vệ l phải và dũng cảm bảo vệ lẽ
phải, biết quyết chí vơn lên học hành giỏi giang để đa đất nớc thoát khỏi nghèo nàn,
sánh vai với các cờng quốc năm châu.
Bên cạnh đó tôi còn huongs dẫn cho phụ huynh về nhà theo dõi con em mình. Mộu
theo dõi nh sau:
NI DUNG THEO DếI
HS i
hc u
v ỳng
gi
Gi gỡn
sỏch v,
dựng
hc tp

gn gng
Thc
hin tt
an ton
giao
thụng
L phộp
võng li
ụng b,
cha m,
thy cụ
Giỳp
bn hoc
ngi khi
gp khú
khn
í thc
gi v
sinh nh

Tht th,
trung
thc
Th 2
Th 3
Th 4
Th 5
Th 6
* Xõy dng tp th s phm vng mnh:
Nh trng cú c tp th vng mnh s l tin tt cho s giỏo dc hc sinh

cỏ bit. vỡ mi hỡnh thc,phng phỏp giỏo dc iu do tp th s phm xỏc lp tỏc ng
đến học sinh cá biệt. Do đó, nó là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục,vì thế thầy cơ
giáo phải có phẩm chất đạo đức tốt,năng lực sư phạm vững vàng ,có lòng u nghề, lòng
nhân ái,có kinh nghiệm sống và có trái tim nhiệt quyết. Hơn ai hết bản thân tơi ln thận
trọng trong từng cử chỉ, lời nói và việc làm, đặc biệt là khi giao tiếp với các em. Nên tơi
ln tạo ra sự thân thiện với các em học sinh và tâm niệm mình phải là tấm gương lao
động, tự học và sáng tạo cho học sinh noi theo.
* Tìm hiểu đối tượng học sinh cá biệt :
Học sinh cá biệt là những học sinh có những biểu hiện chưa ngoan và chăm chỉ
học tập,thường hay phá bạn,thầy cơ. Đối tượng này cần phải nghiên cứu, tìm hiểu ở nhiều
góc độ khác nhau trước khi có hình thức và phương pháp giáo dục cụ thể như ; Tìm hiểu,
học tập rèn luyện ở nhà trường,đời sống vật chất tinh thần của gia đình,lao động học tập ở
gia đình và quan hệ giao tiếp trong xã hội của học sinh.Từ đó ,rút ra vấn đề chung nhất của
đối tượng cá biệt qua tất cả các mặt hoặt động và tìm ra ngun nhân chính dẫn đến sự
hình thành những mặt hạn chế của đối tượng đó.Từ đó tìm ra con đường giáo dục đối
tượng sác hợp và khoa học. Tìm hiểu chinh xác rất cần cho cơng tác giáo dục,xuất phát từ
thực tiển của đối tượng đề ra hình thức, biện pháp giáo dục là điều kiện đủ để khả năng
biến thành hiện thực hay đối tượng cá biệt có điều kiện đấu tranh xố dần cái cũ khơng
phù hợp để tích dần về lượng,thay đổi về chất thơng qua q trình giáo dục của nhà trường
* Giáo dục học sinh cá biệt qua các bộ mơn văn hố:
Thơng qua các bộ mơn văn hố học sinh sẽ lĩnh hội được tri thức khoa học về tự
nhiên xã hội,nâng cao nhận thức,sự hiểu biết về cuộc sống. Nó là cơ sở cho học sinh tiếp
thu những mặt giáo dục khác như đạo đức, pháp luật chính trò.
Tri thức về văn hoá rất cần thiết với đối tượng cá biệt giúp học sinh mở rộng tầm
nhìn về bản thân và phương hướng phấn đấu của bản thân để trở thành người tốt. Phần
lớn học sinh cá biệt đều ít chòu học tập, rèn luyên. Trong giảng dạy giáo viên bộ môn
cũng như giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với nhau để giúp học sinh cá biệt học tập,
như hướng dẫn phần chưa tiếp thu được và phương pháp học tập bộ môn, học tập ở nhà
để giúp học sinh cá biệt theo kòp bạn bè cùng lớp và gây hứng thú trong học tập. Giáo
viên thường xuyên gặp gỡ, động viên nhắc nhỡ hơn trong giờ học. Chú ý từng bước

tiến của học sinh và có biểu duuongw tinh thần phấn đấu để học sinh phấn khởi và
vươn lên. Khẳng đònh vò trí của mình trong lớp, tự đấu tranh xoá dần những mặt cá biệt
của bản thân.
Giáo viên tạo ra môi trường với học sinh cá biệt phấn đấu: Giao nhiệm trong lớp
như tổ trưởng, ở nhiệm vụ mới để khẳng dònh vò trí của mình, học sinh cá biệt sẽ quyết
tâm xoá bỏ hẳn những yếu kém của cá nhân và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất đạo
đức của mình.
Ngoài ra giáo viên còn áp dụng biện pháp thi đua lấy dư luận tập thể tác động
đến cá thể giáo dục vì học sinh cá biệt cũng có nhu cầu tự khẳng đònh trước tập thể,
nhóm. Nhu cầu tự khẳng đònh mình là một trong những nhu cầu cơ bản của con người.
Liên hệ đến nhu cầu này là nhu cầu tự đánh giá các hoạt động, những phẩm chất năng
lực của mình trước tập thể và muốn được giúp người khác, đồng thời muốn được người
khác giúp mình khi cần thiết. Thông qua các hoạt động học tập, sinh hoạt của tập thể
học sinh cá biệt sẽ có ý thức về tinh thần làm chủ tập, gắn bó với tập thể, phấn đấu vì
tập thể.
Trong những nhiệm vụ của nhà trường tiểu học hôm nay, việc giáo dục đạo đức
cho học sinh có ý nghóa chiến lược rất quan trọng. Bởi lẽû bồi dưỡng thếù hệ Cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết. “Cùng với gia đình, xã hội, nhà
trường phải căm lo giáo dục Cách mạng cho học sinh”
*Giáo dục học sinh cá biệt ở gia đình:
Gia đình là nơi sinh ra và lớn lên của học sinh đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá
trình giáo dục học sinh cá biệt. Có thể nói gia đình là cái nôi giáo dục của học sinh cá
biệt.
Trên cơ sở tìm hiểu ề truyền thống của gia đình cùng với đời sống vật chất và
tinh thần của gia đình.
Giáo viên kết hợp với gia dình có kế hoạch giáo dục học sinh cá biệt theo mục
tiêu đào tạo ủa nhà trường.
Về gia đình, cần xây dựng gia đình có văn hoá để làm chuẩn mực giáo dục học
sinh.
Gia đình cần sắp xếp thời gian lao động, học tập của học sin nh cho phù hợp.

Thường xuyên kiểm tra việc học tập và vui chơi của học sinh.
Trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt giữa nhà trường và gia đình phải
thường xuyê thông báo kết quả giáo dục để kòp thời động viên, tạo điều kiện cho học
sinh tiến bộ.
Ở gia đình các bậc phụ huynh phải hiểu tâm lý học sih cá biệt và có biện pháp
phù hợp từng bước một. Trong giáo dục phải tôn trọng nhân cách học sinh, khen chê
phải khách quan, không dùng lời lẻ nặng nề, nhục mạ, đánh đập học sinh. Ngăn chặn
kòp thời những hành vi chưa đúng của học sinh và phát huy những mặt tiến bộ của học
sinh.
* Kết hơp giáo dục học sinh cá biệt ngoài xã hội:
Nhà trường kết hợp với chính quyền đòa phương và các ngành Đoàn thể giáo dục
học sinh cá biệt. Ngành, đoàn thể phát hiện và giáo dục kòp thời những biểu hiện
không tốt của học sinh như: Cờ bạc, đánh nhau,gây ất trật tư,ï an ninh xã hội…
Mặt khác, chính quyền đòa phương cũng hải bày trừ triệt để tệ nạn xã hội và văn
hoá đồi tr ở đòa phương, xây dựng nếp sống văn hoá ở đòa phương.
Nhà trường thường xuyên kết hợp với chính quyền đòa phương để có biện pháp
giáo dục tích cực dối với học sinh cá biệt.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
I. KẾT LUẬN:
Giáo dục học sinh cá biệt là một vấn đề rất khó khăn, phức tạp. Muốn đạt dược
hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có tâm huyết với nghề, nắm và vận dụng tốt các
nguyên tắc, phương pháp và tình huống cụ thể của từng đối tượng cá biệt. Phải nghiên
cứu kó quá trình phát sinh, phát triển của đối tượng, có hình thức, biện pháp tích cực tác
động đến đối tượng cá biệt. Đồng thời phối hợp với nhiều lực lượng giáo dục khác
trong nhà trường và các lực lượng xã hội như: gia đình, xã hội phối hợp thành một sức
mạnh tổng hợp cùng tác động đến đối tượng cá biệt, làm chuyển biến dần những mặt
tiêu cực và tạo điều kiện những mặt tích cực phát triển.
Giáo dục là một quá trình diễn ra trong suốt cuộc đời của con người, sự chuyển
biến này tuân theo một lô gic đặc biệt. Kết quả giáo dục là sự lớn lên của con người về
mặt tâm lý đạo đức thông qua sự thu nhận hững giá trò xã hội và chuyển nó thành ý

thức, thái độ và hành vi của cá nhân. Do đo,ù ở bậc Tiểu học việc giáo dục học sinh cá
biệt là rất quan trọng. Làm tốt công tác giáo dục cho học sinh cá biệt sẽ giúp học sinh
có được nhận thức nhất đònh để xác đònh con dường tự phấn đấu, rèn luyện của mình
trong cuộc sống. Giáo dục một học sinh cá biệt trở thành học sinh tốt là góp phần tăng
thêm nhân lực cho gia đình, xã hội và đất nước trong công cuộc Công nghiệp hoá –
hiện đại hoá đất nước.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
* Phải ln khẳng định giáo dục đạo đức cho cho học sinh cá biệt là vai trò người
giáo viên.
* Phải biết kết hợp với các tổ chức như: Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm , giáo
viên phân mơn.
* Các hình thức giáo ln thay đổi về nội dung, hình thức để các em khơng nhàm
chán, trây lười.
3. Kiến nghị:
* Nhà trường: cần tạo điều kiện về thời gian và hình thức giáo dục đạo đức dành
cho học sinh cá biệt.
* Cần tổ chức nhiều hơn nữa các mơ hình sinh hoạt ngồi giờ lên lớp phục vụ
mục đích trong cơng tác giáo dục đạo đức dành học sinh. Từ đó giúp cho giáo viên có
điều kiện nghiên cứu, học hỏi tích lũy thêm kiến thức, kinh nghiệm cho bản thân đạt hiệu
quả cao
Bắc Cạn, ngày 28 tháng 3 năm 2011
Người viết
Nguyễn Thị Thắm

×