Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Thất thoát và lãng phí trong đầu tư. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.52 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ
----------------
BÀI TẬP NHÓM
MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ
Đề tài:
“Thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
Thực trạng và giải pháp”
GV hướng dẫn : PGS. TS. Từ Quang Phương
Nhóm sinh viên : Nhóm 20
Lớp tín chỉ : Kinh tế đầu tư I (210)_3
Khóa : 50
Hệ : Chính quy
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
2
Hà Nội, 04 - 2011
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
3
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 20
Họ và tên Mã sinh viên
1. Nguyễn Hồng Hạnh CQ500776
2. Nguyễn Thị Huyền CQ501154
3. Trần Kim Linh CQ501500
4. Nguyễn Thị Tuyết CQ502930
5. Nguyễn Thị Thúy CQ502538

Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
4
MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................5
CHƯƠNG I...................................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG..........................................................................7
VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẤT THOÁT LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ...................................7
1. Thế nào là thất thoát và lãng phí trong đầu tư......................................................10
2. Các chỉ tiêu đánh giá thất thoát lãng phí................................................................11
3. Hậu quả của thất thoát và lãng phí trong đầu tư...................................................12
3.1. Về mặt kinh tế....................................................................................................12
3.2. Về mặt xã hội......................................................................................................13
4. Các dạng thất thoát lãng phí trong đầu tư..........................................................14
4.1. TTLP trong quy hoạch.........................................................................................15
4.2. TTLP trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư................................................................15
4.3. TTLP trong giai đoạn thực hiện đầu tư...............................................................18
4.4. TTLP trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư..................................................21
5. Nguyên nhân dẫn tới thất thoát và lãng phí trong đầu tư......................................21
CHƯƠNG II................................................................................................................27
THỰC TRẠNG TTLP TRONG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM........................................27
TRONG GIAI ĐOẠN 2000 – 2010..............................................................................27
II. GIẢI PHÁP TỪ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC................................66
5. Phát huy tính dân chủ trong quần chúng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của
người dân trong công cuộc chống thất thoát và lãng phí...........................................71
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
5
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất
định. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, Đảng và Nhà nước đã chuyển đổi thành công
thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang thể chế kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, hoà nhịp cùng xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, hoạt động
đầu tư ngày càng tăng trưởng một cách rõ rệt…đưa nước ta thoát khỏi tình trạng trì

trệ kéo dài suốt mấy chục năm qua. Việt Nam đang từng bước tiến lên xây dựng một
nền kinh tế phát triển, đa ngành, đa dạng hoá, hiện đại hoá. Để có được kết quả đó là
do những nỗ lực không ngừng của chính phủ Việt Nam trong xây dựng cơ sở hạ tầng,
sửa đổi hệ thống chính sách phù hợp với thực tế, tạo môi trường tốt nhất cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước tích cực đầu tư vào Việt Nam. Thực tế, hiện nay, hoạt
động đầu tư đang phát triển khá nóng, các doanh nghiệp, cá nhân đang tích cực lựa
chọn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực hợp lý, để sử dụng hiệu quả nguồn vốn, từ đó
góp phần tăng tài sản của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối sản
phẩm, đóng góp vào ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội…
Tuy nhiên, thực tế hoạt động đầu tư tại Việt Nam cho thấy, không ít các doanh
nghiệp, cá nhân đã sử dụng chưa hiệu quả nguồn vốn đầu tư, mắc nhiều thiếu sót
trong việc quy hoạch, xây dựng, triển khai và quản lý dự án, thêm vào đó là tình trạng
tham nhũng, suy đồi đạo đức, phẩm chất của cán bộ, nhân viên tham gia dự án đầu
tư…tất cả điều đó dẫn đến tình trạng thất thoát và lãng phí trong các dự án đầu tư.
Tình trạng này diễn ra một cách trầm trọng ở hầu hết các dự án có sử dụng nguồn vốn
Ngân sách Nhà nước, trong các hoạt động đầu tư công. Đây là vấn đề nan giải trong
hoạt động đầu tư tại Việt Nam suốt nhiều năm qua, cần có những biện pháp và hướng
giải quyết rõ ràng của cơ quan quản lý Nhà nước phối hợp cùng các tổ chức doanh
nghiệp, và các cá nhân.
Tìm lời giải cho vấn đề trên, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Thất
thoát và lãng phí trong đầu tư tại Việt Nam. Thực trạng và giải pháp”. Thất thoát,
lãng phí trong đầu tư đã làm giảm đáng kể hiệu quả của hoạt động đầu tư. TTLP như
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
6
là căn bệnh truyền nhiễm lan tràn trên tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội:
lãng phí tài nguyên, nguồn nhân lực, chất xám, tài sản,…lãng phí trong nông nghiệp,
công nghiệp…và đặc biệt là trong ĐTXDCB đây là một trong vấn đề nhức nhối nhất
mà các ngành, các cấp và toàn xã hội đang quan tâm nó kéo dài nhiều năm với mức
độ ngày càng trầm trọng. Theo đánh giá chung tỉ lệ thất thoát trong ĐTXDCB chiếm

tới hơn 30% tổng số vốn đầu tư tương đương với 20-25 ngàn tỉ mỗi năm. Vậy mà
đến nay mặc dù đã có nhiều cải cách nhưng vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn
chế. Do giới hạn về hiểu biết và thời gian trong bài viết này chúng tôi xin được chỉ
nêu những nội dung chung nhất về TTLP nói chung và chỉ đi sâu vào thất thoát, lãng
phí trong ĐTXDCB.
Để hoàn thành đề tài này, nhóm nghiên cứu có sử dụng các số liệu của Tổng
cục thống kê, Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư, và một số bài viết có
liên quan của một số tác giả. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình
của: PGS. TS. Từ Quang Phương – giảng viên bộ môn kinh tế đầu tư – đã giúp nhóm
hoàn thành đề tài này.
Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp chân thành của bạn đọc để đề tài
nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 04 năm 2011

Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
7
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẤT THOÁT LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó
nhằm thu về lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai. Có thể hiểu đó là quá trình hy
sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm được các kết quả, thực
hiện các mục tiêu nhất trong tương lai.
Các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, sức lao động, tài nguyên hay trí tuệ.
Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất, tài chính hoặc tài sản trí

tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn.
Có nhiều hình thái biểu hiện của đầu tư, dựa trên tiêu thức quan hệ quản lí của
chủ đầu tư, đầu tư được chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn ra đầu tư không
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tham gia quản lí, điều hành quá trình thực
hiện và vận hành kết quả đầu tư. Ví dụ như đầu tư vào mua bán cổ phiếu, trái phiếu
trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư được hưởng lợi ích vật chất như cổ tức, lợi
tức hoặc các lợi ích phi vật chất như quyền biểu quyết hay quyền tiên mãi( là quyền
được ưu tiên mua trước cổ phiếu khi công ty phát hành thêm dựa trên tỉ lệ nắm giữ cổ
phiếu hiện tại của người đó).
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia
vào quản lí, điều hành việc thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại
bao gồm đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
Trong đó, đầu tư dịch chuyển là việc bỏ vốn nhằm dịch chuyển quyền sở hữu
giá trị tài của tài sản ví dụ như việc mua một số lượng cổ phiếu với mức khống chế
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
8
để có thể tham gia hội đồng quản trị của một công ty, các trường hợp của thôn tính,
sáp nhập doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp nhằm duy trì và tạo
ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống xã hội. Hiệu
quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với
chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Hình thức đầu tư này có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Các hình thức đầu tư khác không thể
tồn tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển.
2. Dự án đầu tư
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được kết
quả như mong muốn, đem lại lợi ích kinh tế xã hội cao thì trước khi bỏ vốn cần phải
chuẩn bị cẩn thận. Phải xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh thị trường, kinh tế

kĩ thuật, tài chính, điều kiện tự nhiên môi trường, luật pháp,..có liên quan đến quá
trình đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư.
Mọi công việc này thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư. Theo luật đầu tư
2005: “Dự án đầu tư là tập hợp các đề suất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các
hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định’’.
Dự án đầu tư gồm có 3 giai đoạn là: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành
các kết quả đầu tư.
 Giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm những công việc:
- Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư
- Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án
- Nghiên cứu khả thi.
- Đánh giá và quyết định
Đây là giai đoạn tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai
đoạn sau, đặc biệt là với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Ở giai đoạn này, vấn đề
chất lượng, chính xác của kết quả nghiên cứu. Tổng chi phí giai đoạn chuẩn bị đầu tư
chiếm từ 2-10% vốn đầu tư chảy vào dự án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo
tiền đề cho việc sử dụng tốt phần vốn còn lại, tạo cơ sở cho quá trình hành động của
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
9
dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư là có lãi, nhanh chóng phát huy
hết nguồn lực phục vụ dự kiến
 Giai đoạn thực hiện đầu tư gồm
- Đàm phán và kí kết các hợp dồng
- Thiết kế và lập dự án thi công xây lắp công trình
- Xây dựng, mua lắp đặt thiết bị, tuyển dụng
- Chạy thử và nghiệm thu sử dụng
Trong giai đoạn này, vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả, 90-98% vốn đầu tư
được chia ra và huy động trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm
vốn không sinh lời, thời hạn thực hiện đầu tư cũng kéo dai, vốn ứ đọng càng nhiều,

tổn thất càng lớn. Thời gian thực hiện đầu tư phụ thuộc nhiều vào công tác chất
lượng công tác chuẩn bị đầu tư, quản lý quá trình việc thưc hiện những hoạt động
khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện những hoạt động
khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được
xem xét trong dự án đầu tư.
 Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
- Sử dụng chưa hết công suất
- Sử dụng công suất ở mức cao nhất
- Công suất giảm dần và thanh lý
Giai đoạn này nhằm đạt được các mục tiêu của dự án, nếu các kết quả do giai
đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, tồn tại thấp, chất lượng tốt, đúng
tiến độ tại thời điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả hoạt động của các kết
quả này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức quản
lý hoạt động. Làm tốt công tác của giai đoạn chuẩn bị và thực hiện đầu tư sẽ tạo
thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư.
Thời gian phát huy tác động của các kết quả đầu tư chính là đời của dự án nó gắn với
đời sống của sản phẩm trên thị trưòng.
Mối quan hệ giữa 3 giai đoạn: Các công việc được tiến hành không biệt lập
mà đan xen gối đầu, bổ sung cho nhau, nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
10
kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp.
Giai đoạn trước tạo tiền đề cho giai đoạn sau: Giai đoạn trước nghiên cứu không tốt
sẽ làm ảnh hưởng đến giai đoạn sau, giai đoạn nghiên cứu sau nghiên cứu kĩ hơn các
khía cạnh mà giai đoạn trước còn phân vân, chưa chắc chắn, nhằm tiếp tục lựa chọn,
sàng lọc.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẤT THOÁT VÀ LÃNG PHÍ TRONG
ĐẦU TƯ
1. Thế nào là thất thoát và lãng phí trong đầu tư

Thất thoát trong đầu tư là hiện tượng mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn
trong suốt quá trình đầu tư, từ khi quyết định chủ trương đầu tư cho đến khi dự án
hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Phần vốn đầu tư bị thất thoát là phần vốn tuy đưa vào dự án nhưng bị lãng phí
hoặc biến mất trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Nguyên nhân ở đây có thể
do tiêu cực và tham nhũng gây nên hoặc do thiên tai, dịch họa và do tác động của nền
kinh tế.
Lãng phí trong đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực không hiệu quả.
Theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, năm 2005: “Lãng phí là việc
quản lý, sử dụng tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên
không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành thì việc lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách
nhà nước, tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài
nguyên thiên nhiên vượt quá định mức, tiêu chuẩn chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã
xác định”.
Theo Pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, thì “lãng phí là sử dụng các nguồn lực tài chính, lao động, thời
gian... vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
11
quy định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng chất lượng đạt thấp
hơn hoặc không đúng mục tiêu đã xác định.”
Lãng phí của một dự án đầu tư là gì? Theo ý kiến các chuyên gia trong công
tác quản lý dự án và quan niệm của các nhà tài trợ thì đó là các khoản chi không đem
lại hiệu quả gì cho dự án hoặc phần chi cao hơn các quy định hợp pháp, chi không
đúng quy định của dự án... căn cứ theo mục đích và động cơ của các hành động trên
mà có thể coi đó là lãng phí hay tham ô. Nguyên nhân của sự lãng phí này là xuất
phát từ sự thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực của các cơ quan quyết định đầu tư, chủ
đầu tư và các cơ quan tư vấn, thiết kế, cơ quan thẩm định, cơ quan trực tiếp quản lý

vốn trong quá trình thực hiện đầu tư. Nói chung là xuất phát từ ý chí chủ quan của
con người.
Lãng phí và thất thoát là hai căn bệnh nghiêm trọng trong đầu tư hiện nay.
Trong lãng phí có thể có phần bị thất thoát vì thất thoát làm tăng chi phí không cần
thiết hoặc làm giảm chất lượng công trình dẫn đến làm giảm hiệu quả vốn đầu tư và
trong tổng số vốn bị thất thoát có thể có phần bị lãng phí.
Hiện nay, thất thoát và lãng phí đã trở nên phổ biến, tràn lan gây kết quả tai
hại đến tài sản của nhà nước, của tập thể. Đã đến lúc không thể xem tình trạng lãng
phí ở mức độ báo động “màu da cam” được nữa mà phải báo động đỏ, phải xem lãng
phí là tội ác, là quốc nạn. Kẻ tham nhũng biết rõ việc mình làm là phạm pháp, là trái
với lương tâm, điều này có thể khiến họ cân nhắc và hạn chế mức độ tham nhũng của
mình còn kẻ lãng phí thì khác, họ “vô cảm” trước hậu quả việc làm của họ, điều này
sẽ khiến sự lãng phí lan tràn trên diện rộng, sự thất thoát không kém gì, nếu không
muốn nói là vượt xa những thiệt hại do tham nhũng gây ra.
2. Các chỉ tiêu đánh giá thất thoát lãng phí
Thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng được biểu thị bằng giá trị tuyệt đối
và giá trị tương đối.
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
12
II.1. Giá trị tuyệt đối
Thất thoát lãng phí biểu hiện bằng giá trị tuyệt đối là số tiền thất thoát lãng
phí.
Giá trị lãng phí là tổng số tiền đầu tư xây dựng công trình nhưng không mang
lại hiệu quả do công trình hoàn thành không sử dụng được hoặc số tiền sử dụng cho
xây dựng công trình bị tăng lên so với chi phí cần thiết để xây dựng công trình theo
tiêu chuẩn, quy điịnh của nhà nước.
Giá trị lãng phí = giá trị công trình không có hiệu quả
= giá trị thực tế thực hiện – giá trị cần thiết theo quy định
Giá trị thất thoát là phí trị phần chi phí thực tế không được sử dụng vào công

trình nhưng vẫn tính vào chi phí xây dựng công trình để rút vốn đầu tư.
Giá trị thất thoát = giá trị thanh quyết toán – chi phí thực tế
II.2. Giá trị tương đối
Thất thoát lãng phí biểu hiện bằng chỉ tiêu tương đối là tỉ lệ % giữa giá trị thất
thoát lãng phí và chi phí cần thiết để xây dựng công trình được xác định theo các tiêu
chuẩn, quy định hiện hành của nhà nước và được cấp có thẩm quyền phê duyệt như
tổng mức đầu tư, dự toán, tổng mức dự toán, giá trị gói thầu và giá trị quyết toán.
M =
hànhhiênchuântiêuđinhquytheothiêtcânphíchi
phílãngthoátthâttrigiá
,
* 100%
3. Hậu quả của thất thoát và lãng phí trong đầu tư
3.1. Về mặt kinh tế
Vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nhưng có thể thấy rõ một điều là khi tình trạng
thất thoát và lãng phí xảy ra thì ta không thể sử dụng có hiệu quả cả nguồn lực trong
nước và nước ngoài.
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
13
 Thất thoát, lãng phí làm chậm quá trình phát triển kinh tế- xã hội của
quốc gia
Thất thoát và lãng phí làm cho hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư bị giảm
sút nhanh chóng, chất lượng công trình thực hiện không đáp ứng được nhu cầu đặt ra
không thu hồi được vốn hay lợi nhuận thấp, sức cạnh tranh kém với nước ngoài…
Một số dự án do lãng phí vốn đầu tư nên đã dẫn tới hiện tượng thời gian đầu tư bị
kéo dài, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, vốn đầu tư không phát huy được hết
hiệu quả của nó. Bên cạnh đó nó làm giảm tốc độ làm việc, sản xuất vì để có thể nhận
được tiền hối lộ, những cán bộ, nhân viên hữu trách phải kéo dài thời gian giải quyết

sự việc liên quan đến dự án đầu tư để người trong cuộc phải trả tiền. Những dự án
đầu tư mà không có tham nhũng, không có thất thoát thì mọi thành viên hữu trách của
dự án gắng sức đạt kết quả cao về số lượng cũng như về phẩm chất, trong khi những
dự án có tham nhũng gây thất thoát thì ỷ lại, làm qua loa có lệ vì họ đã mất lòng tin
vào cán bộ quản lý.
Thất thoát, lãng phí khiến chi phí dự án cao hơn thực tế, nợ quốc gia tăng lên
do trong tổng vốn đầu tư của Nhà nước có một phần quan trọng từ đi vay các nước
ngoài, phải chịu lãi suất.
 Thất thoát, lãng phí làm cản trở việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có thể vì mục đích lợi nhuận
như trong đầu tư FDI hoặc các mục đích phi lợi nhuận trong ODA nhưng dù là hình
thức nào đi chăng nữa cũng phải đạt được mục đích thì họ mới tiếp tục đầu tư. Còn
trong một nước mà lĩnh vực đầu tư có tỷ lệ thất thoát và lãng phí cao, luật pháp
thường lỏng lẻo không bảo đảm được tài sản của người đầu tư thì thông thường họ sẽ
e dè hơn trong quyết định đầu tư của mình.
3.2. Về mặt xã hội
 Đời sống nhân dân bị suy giảm do chất lượng các dự án giảm sút
Do thất thoát lãng phí xảy ra làm các dự án đầu tư hoạt động không hiệu quả
hay giảm tuổi thọ của công trình…Việc này khiến không thể đáp ứng hết nhu cầu của
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
14
nhân dân. Bên cạnh đó còn nhiều dự án sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi
trường nghiệm trọng làm ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, tình hình sản xuất của nhân
dân.
 Tệ nạn xã hội phát triển.
Một phần hậu quả của thất thoát và lãng phí là tăng trưởng tệ nạn xã hội, nạn
tham nhũng, hối lộ trở nên phổ biến. Cụ thể là có những kẻ phạm pháp tìm cách mua
chuộc cán bộ, nhân viên, thành viên chính quyền có thế lực và vai trò trong các dự án
đầu tư để nhằm kiếm chác tư lợi về cho bản thân, gây thất thoát nghiêm trọng vốn và

nguyên vật liệu thi công. Nếu những viên chức này tham lam, và hành vi những kẻ
phạm pháp được che chở và trở thành “hợp pháp hoá”. Điều này làm mất lòng tin của
nhân dân tới bộ máy quản lí của Nhà nước, người dân hàng ngày chứng kiến những
hành vi phạm pháp nhưng không bị trừng phạt, dần dần họ quen thuộc với những
hành vi này và cuối cùng trở thành bình thường hoá trong xã hội.
Nền tảng xã hội bị hủy hoại, đạo đức bị tàn phá là do hành động gây lãng phí
của các cán bộ quản lý dự án quá nhiều và lộ liễu, bớt xén nguyên vật liệu trong các
dự án xây dựng gây hậu quả nặng nề trong tương lai ảnh hưởng đến đời sống của
nhân dân. Và đó cũng chính là những hành động làm gương xấu cho những thế hệ
sau.
Thất thoát và lãng phí càng nhiều thì các dự án đầu tư càng kéo dài nhiều năm,
hậu quả là ảnh hưởng đến an ninh trật tự, môi trường sống của người dân nơi dự án
thực hiện, nhiều dự án ở các vùng miền núi không thi công vào mùa khô mà lại thi
công vào mùa mưa, thêm yếu tố mưa xuống, dự án không thực hiện được phải bỏ dở
dang….điều này ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường và xã hội.
4. Các dạng thất thoát lãng phí trong đầu tư
Tổng vốn đầu tư cho xã hội gồm có vốn đầu tư của Nhà nước, hiện nay chiếm
tới gần 50%, còn lại là vốn ngoài Nhà nước và nguồn vốn nước ngoài. Mà thất thoát
và lãng phí đang là một căn bệnh chỉ phổ biến trong đầu tư công của Nhà nước, một
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
15
điều dễ hiểu là tư nhân đầu tư rất có hiệu quả vì chính sự tồn tại và phát triển của
chính họ. Đầu tư công của Việt Nam hiện nay có ba nhóm chính là (1) tiền ngân sách,
chiếm khoảng 50% tổng đầu tư toàn xã hội, (2) tín dụng nhà nước chiếm hơn 9% và
(3) tiền đầu tư của chính doanh nghiệp. Có thể nói, đầu tư công chủ yếu là vốn Nhà
nước rót cho các tổng công ty, tập đoàn để thực hiện các công trình lớn của nền kinh
tế.
Thất thoát và lãng phí có thể xảy ra trong tất cả các khâu của dự án đầu tư, và
trong bước quy hoạch ngay từ ban đầu.

4.1. TTLP trong quy hoạch
Quy hoạch là hoạch định trước những việc cần làm và đặt ra những mục tiêu
cần đạt đến trong dài hạn. Trong đầu tư, quy hoạch là sự sắp xếp, bố trí hợp lý giữa
các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội phải phân công lại lao động xã hội hợp lý
trên các vùng lãnh thổ đất nước. Quy hoạch không phải là phép cộng cơ học của
những kế hoạch ngắn hạn, chất lượng quy hoạch gắn với tầm nhìn hoạch định chính
sách kinh tế - xã hội và gắn với các dự báo.
Nghiên cứu về quy hoạch và kế hoạch không những là một trong những căn
cứ phát hiện cơ hội đầu tư mà còn có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng
và hiệu quả của dự án đầu tư. Về nguyên tắc, trong hoạt động đầu tư, công tác quy
hoạch cần đi trước một bước làm cơ sở cho công tác lập dự án.
Quy hoạch sai sẽ dẫn đến những chủ trương đầu tư sai lầm, gây hệ lụy lâu dài
về sau. Hay nhiều dự án khi ra quyết định về đầu tư đã thoát ly quy hoạch nên thiếu
chính xác. Có những dự án trong quá trình triển khai thực hiện phải di dời gây tổn
thất, lãng phí, hiệu quả thấp.
4.2. TTLP trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại
của hai giai đoạn sau, đặc biệt trong giai đoạn vận hành kết quả của dự án vì đầu tư
đúng hướng thì mới hiệu quả. Giai đoạn này sẽ xác định chủ trương đầu tư, đưa ra
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
16
báo cáo kinh tế kĩ thuật để thuyết phục chủ đầu tư ra quyết định đầu tư, cơ quan quản
lí Nhà nước cấp giấy phép đầu tư, và các ngân hàng cho vay vốn.
Các nguyên nhân dẫn tới giảm chất lượng chuẩn bị dự án vừa có tính chất chủ
quan bắt nguồn từ chính các chủ thể tham gia trong hoạt động xây dựng ở giai đoạn
này gồm chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn, cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và vừa
có tính chất khách quan phát sinh từ các bất cập trong quy trình quản lý đầu tư xây
dựng, trong các định mức kinh tế - kỹ thuật và trong hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn.
 Khâu lập dự án

Trước một hoạt động đầu tư, chúng ta cần chuẩn bị một cách khoa học, đầy
đủ, chính xác nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Việc chuẩn bị đó được thực hiện thông
qua quá trình lập dự án đầu tư. Việc lập dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động đầu tư vì nó là tập hợp các hoạt động xem xét chuẩn bị, tính toán toàn diện các khía
cạnh kinh tế kĩ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường pháp lý... Trên cơ sở đó xây dựng
một kế hoạch hoạt động phù hợp nhằm thực hiện một dự án đầu tư. Quá trình lập dự án
đầu tư được coi là quá trình phát triển vì nó là việc hình thành ý tưởng nhằm biến ý
tưởng đó thành hiện thực. Dự án đầu tư tốt nhất sẽ đem lại kết quả tốt khi thực hiện và
tiết kiệm nhất. Tuy nhiên trong quá trình lập dự án đầu tư vẫn còn tồn tại một số thực
trạng dẫn đến TTLP.
Nghiên cứu cơ hội đầu tư nếu sai ngay từ lúc đầu mà vẫn tiếp tục tiến hành
nghiên cứu tiếp sẽ gây lãng phí một chi phí lớn cho việc phải tiến hành nghiên cứu tiền
khả thi và khả thi sau này rồi mới phát hiện ra tính không khả thi. Đây là hiện tượng phổ
biến khi mà xác định chủ trương đầu tư lúc đầu chỉ là theo “phong trào”, theo ý muốn
chủ quan, chạy theo thành tích.
Trong lập dự án còn có một quyết định quan trọng đó là: “chọn địa điểm đầu
tư”. Chọn địa điểm đầu tư mà sai, không đáp ứng được các yêu cầu như: Gần nguồn
nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với đặc điểm tài nguyên thiên nhiên,
vị trí địa lý, khí hậu,… thì sẽ có tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả hoạt
động của dự án đầu tư cả trước mắt và lâu dài. Mỗi lần di chuyển địa điểm nhà máy
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
17
không chỉ tốn kém chi phí về mặt vật chất, chi phí bảo quản, chi phí chạy thử, mà còn
phải chi phí lớn cho công tác chuẩn bị mặt bằng…Xác định quy mô dự án không
chính xác, không phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của đất
nước, của vùng, của địa điểm xây dựng dự án sẽ gây thất thoát, lãng phí như: dự án
hoạt động không hết công suất, chi phí cho sản phẩm cao, càng hoạt động càng lỗ,
thậm chí có dây chuyền thiết bị không phát huy hiệu quả do đầu tư không đồng bộ…
Trong các dự án xây dựng một số công trình phục vụ cho giao thông cũng đã có một

số dự án do chọn sai vị trí xây dựng mà nó đã không phát huy được hiệu quả thực sự
của nó, gây lãng phí rất nhiều. Hoặc chẳng hạn, đối với các dự án có thể gây ô nhiễm
môi trường (sản xuất phân bón hay thuốc trừ sâu…) khi chọn địa điểm nếu đặt ở gần
khu dân cư đông đúc, đến lúc đưa dự án vào hoạt động mới phát hiện và xử lý ô
nhiễm thì quá tốn kém, đưa chi phí đầu tư vượt quá dự kiến ban đầu có khi rất lớn,
gây lãng phí rất nhiều tiền của.
Trong công tác khảo sát và thiết kế: Lập phương án đầu tư không chính xác
dẫn tới thừa vốn gây căng thẳng giả tạo khi sắp xếp bố trí kế hoạch vốn chung cho
toàn ngành, toàn quốc. Việc thừa vốn ở dự án này đôi khi không thể chuyển sang dự
án khác nên nhiều chủ đầu tư phải tìm cách sử dụng cho hết vốn, công trình sinh ra
chắp vá, tốn kém. Do bước khảo sát, thiết kế trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư không
tốt làm phát sinh khối lượng, phát sinh chi phí tư vấn giám sát, quản lý trong giai
đoạn thi công. Vì dự án đã thực hiện nên phải bám lấy phương án đang tiến hành do
vậy phải bổ sung vốn đầu tư để xử lý khối lượng phát sinh.
Việc nghiên cứu các khía cạnh tổ chức quản lí và nhân sự cho dự án không tốt
sẽ gây lãng phí trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Thường thì trong những năm
hoạt động đầu tiên do phải điều chỉnh máy, do công nhân chưa thạo việc,… nên công
suất thực tế còn đạt thấp (50-75% công suất thiết kế) nếu tuyển dụng không hợp lí,
quá nhiều sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực và chi phí cho trả lương công nhân, còn
nếu tuyển quá ít sẽ gây lãng phí máy móc, dự án hoạt động không hiệu quả.
 Khâu thẩm định và phê duyệt dự án
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
18
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét, đánh giá một cách khách
quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng thực hiện và hiệu quả của dự án để từ đó ra quyết định của đầu tư, cho phép đầu
tư hoặc tài trợ vốn cho dự án. Đây là một quá trình kiểm tra đánh giá các nội dung cơ
bản của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình lập dự án. Hoạt động đầu tư có
hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào công tác thẩm định dự án. Thực tế vẫn lọt

lưới nhiều dự án lớn không có hiệu quả gây nên tình trạng lãng phí trong xây dựng cơ
bản. Liên đới trách nhiệm trong vấn đề này là của cả người quyết định đầu tư.
4.3. TTLP trong giai đoạn thực hiện đầu tư
90-98% vốn đầu tư được chia ra và huy động trong suốt giai đoạn thực hiện
đầu tư. Lượng vốn của dự án tập trung chủ yếu ở giai đoạn này cộng với thời hạn
thực hiện đầu tư kéo dài, do đó nếu buông lỏng công tác quản lí thì thất thoát lãng
phí trong giai đoạn này sẽ lớn nhất đối với một dự án đầu tư.
 Trong giải phóng mặt bằng (GPMB)
Để có thể thực hiện được các dự án đầu tư xây dựng thì trước hết cần phải có
mặt bằng để thi công do đó giải phóng mặt bằng là một trong những công việc trọng
tâm và hết sức quan trọng. Nhưng nó mang tính chất phức tạp, tốn kém nhiều thời
gian, công sức và tiền của; ngày nay công việc này ngày càng trở nên khó khăn hơn
do đất đai ngày càng có giá trị và khan hiếm. Bên cạnh đó công tác GPMB liên quan
đến lợi ích của nhiều cá nhân, tập thể và của toàn xã hội. Ở các địa phương khác nhau
thì công tác GPMB cũng có nhiều đặc điểm khác nhau do vai trò và giá trị của đất đai
là khác nhau.
GPMB chậm chễ gây thiệt hại to lớn cho nhà thầu về mặt tiền của và thời
gian, ứ đọng vốn, bên cạnh đó còn phải chi trả lãi suất cho những khoản vốn vay,
phát sinh nhiều chi phí khác.
Thất thoát trong công tác giải phóng mặt bằng xuất phát từ những nguyên
nhân như cơ quan, cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng cắt xén tiền đền bù, đền
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
19
bù không thỏa đáng cho người dân; khai khống số hộ đươc đền bù và chi phí đền bù
như diện tích, giá đền bù,… hoặc móc ngoặc với các hộ được đền bù đòi nâng giá
đền bù để bòn rút tiền của nhà nước, tham ô, tham nhũng từ các dự án.
Lãng phí trong công tác giải phóng mặt bằng xuất phát từ những bất cập trong
quản lí, sự không thỏa thuận được giữa người dân và đơn vị làm công tác giải phóng
mặt bằng dẫn đến chậm tiến độ, không bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, phải bồi

thường nhà thầu, gây lãng phí trong xây dựng.
 Trong đấu thầu
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của đôi bên mời
thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Thât thoát lãng phí xảy ra do chất lượng công tác thiết kế, lập, thẩm định, phê
duyệt dự toán (giá gói thầu) chưa tốt làm giá gói thầu tăng vượt giá trị thực tế như:
- Về hồ sơ thiết kế: Tính toán xác định khối lượng giữa các hạng mục không
chính xác làm tăng giá ở một số gói thầu.
- Về lập hồ sơ mời thầu: do mời hạng mục công việc quá tổng hợp như không
phân các loại đất, đá theo từng cấp riêng biệt dẫn đến trong quá trình thi công
không quản lý và nghiệm thu khối lượng theo thực tế.
- Về công tác lập dự toán: nhiều gói thầu do vô tình hoặc cố ý các nhà tư vấn áp
dụng định mức, đơn giá, giá vật liệu không phù hợp làm tăng giá gói thầu lên
nhiều so với giá trị thật làm thất thoát vốn đầu tư.
- Về công tác đánh giá hồ sơ dự thầu: do những sai sót của tổ chuyên gia giúp
việc đấu thầu, của chủ đầu tư đã bỏ qua những lỗi tiên quyết (đối với nhà thầu
được trúng thầu) mà theo quy định nếu nhà thầu nào không đạt bị loại ngay
khi đánh giá sơ tuyển.
Công tác đấu thầu, chỉ định thầu vi phạm các quy định hiện hành. Hạ giá thầu
thấp không có căn cứ để trúng thầu hoặc trúng thầu với giá rất thấp nhưng vẫn làm
được, chứng tỏ khâu lập thiết kế dự toán không đúng; hiện tượng thông thầu, tiêu
cực, tham nhũng để chọn nhà thầu sai dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng.
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
20
 Trong khâu khảo sát, thiết kế
Thất thoát lãng phí trong khảo sát thiết kế một phần xuất phát từ chất lượng
của công tác khảo sát: khảo sát sơ sài, không đúng quy chuẩn; ngoài ra còn do sử
dụng các tiêu chuẩn thiết kế không đúng các quy phạm, quy chuẩn của nhà nước dẫn

đến tình trạng thiết kế sai, công trình không đảm bảo chất lượng, không phát huy
được hiệu quả, chi phí xử lý tốn kém, thậm chí không thể sử dụng.
Do thiết kế không tính toán chính xác và không kiểm tra tính toán một cách
cụ thể nên người thiết kế đã đưa ra các yêu cầu vật liệu cao hơn mức an toàn cần
thiết, trường hợp phổ biến nhất là bê tông, cốt thép gây lãng phí lớn.
 Khâu thi công và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đầu tư.
Trong quá trình thi công có thể xảy ra hiện tượng bớt xén nguyên vật liêu, trao
đổi lấy vật liệu chất lượng thấp hơn, hay làm sai thiết kế gây thất thoát lớn.
Công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện đầu tư của chủ đầu tư, ban
quản lý dự án, của tư vấn giám sát không chặt chẽ, thậm chí mang tính hình thức đã
không phát hiện ra các sai xót, hay nhiều khi thông đồng với nhau chuộc lợi cá nhân
làm giảm sút chất lượng dự án nghiệm trọng.
 Nghiệm thu và thanh quyết toán công trình
Lập và quản lý dự toán của dự án thực chất là quản lý giá trong hoạt động đầu
tư, đây là khâu không chỉ gây thất thoát lãng phí về vốn đầu tư mà còn là khâu nhạy
cảm gây ra sơ hở dẫn đến phát sinh tiêu cực trong hoạt động đầu tư, vì nó bao gồm
các việc tính toán khối lượng từng loại công việc, vật tư theo thiết kế kỹ thuật, thiết
kế tổ chức thi công làm cơ sở cho việc lập tổng dự toán, dự toán công trình, áp dụng
giá chủng loại vật tư, thiết bị đã đươc cơ quan chức năng thông báo theo thực tế tại
thời điểm tính toán, nghiệm thu thanh toán, sử dụng những định mức kinh tế- kỹ
thuật của nhà nước ban hành cho từng loại dự án đầu tư theo quy phạm và quy chuẩn.
Thất thoát lãng phí trong khâu này xuất phát từ những nguyên nhân sau: Công
tác nghiệm thu chưa tuân thủ đúng quy trình dẫn đến nhiều sai sót, công trình không
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
21
đạt chất lượng yêu cầu. Lập quyết toán sai so với thực tế thi công do tính toán nhầm
lẫn; quên loại trừ những khối lượng phải trừ ra; tính thừa thành phần công việc; tính
sai chênh lệch giá vật tư thực tế thị trường so với giá vật tư quyết toán công trình...Có
sai sót này là do trình độ của người lập quyêt toán còn yếu kém hoặc thái độ làm việc

không nghiêm túc, thiếu trách nhiệm. Hiện tượng quyết toán khống để trục lợi như là
không làm vẫn khai, khai sai chủng loại vật tư, cố tình tính toán sai, không áp dụng
đúng đơn giá.
4.4. TTLP trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
Đây là giai đoạn cuối của một dự án đầu tư, nó cũng có một vai trò rất quan
trọng trong việc quyết định sự thành công của dự án vừa thực hiện. Việc bố trí triển
khai các kế hoạch để đưa dự án vào khai thác, sử dụng cũng là khâu mà dễ gây ra
lãng phí và thất thoát. Cụ thể với từng dự án có quy mô khác nhau mà áp dụng chi
phí vận hành khác nhau, tuy nhiên trên thực tế có nhiều dự án đã sử dụng lượng chi
phí vận hành quá lớn vượt quá mức cần thiết so với giá trị thực của nó, hoặc là các kế
hoạch áp dụng không hợp với các dụ án và không khả thi nên đã dẫn tới tình trạng dự
án đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế cũng như xã hội mong muốn, thậm
chí hoàn toàn không có hiệu quả… Bên cạnh đó còn do cán bộ không đủ năng lực
quản lý vận hành, thiếu trách nhiệm, buông lỏng giám sát, vi phạm pháp luật, hành vi
trục lợi cho bản thân khiến cho dự án hoạt động không hiệu quả. Đây là một lãng phí
to lớn sau khi đã hoàn thành dự án.
5. Nguyên nhân dẫn tới thất thoát và lãng phí trong đầu tư
5.1. Con người
Công tác cán bộ là cốt lõi để giải quyết mọi vấn đề. Trong hoạt động đầu tư có
nhiều chức danh cán bộ như: khảo sát, tư vấn, thiết kế, soát, kiểm tra, giám sát, thẩm
định, kiểm định, phản biện, quản lý doanh nghiệp tư vấn, người có thẩm quyền quyết
định phê chuẩn, quản lý dự án, quản lý thi công,… Mỗi chức danh nhiều khi không
có các nhân nào chịu trách nhiệm chính, cá nhân nào liên đới trách nhiệm, vậy nên đã
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
22
xảy ra tình trạng “rất nhiều người có quyền, song rất ít người chịu trách nhiệm cụ
thể” tồn tại trong quản lý điều hành và triển khai dự án nên thất thoát dễ dàng xảy ra.
Vậy nguyên nhân là do đâu?
 Phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý con người yếu kém

Phẩm chất đạo đức là yếu tố cơ bản đầu tiên của người cán bộ. Cán bộ có giỏi
nhưng phẩm chất kém cũng không mang đến hiệu quả trong công tác. Đó là sự sa sút,
biến chất về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ, công nhân,
viên chức, lợi dụng cương vị được giao cố ý làm trái, thông đồng, móc ngoặc với
nhau để làm ăn phi pháp trong đầu tư XDCB, coi việc nhận dự án công trình XDCB
như một cơ hội làm ăn để tăng thu nhập, làm giàu bất chính và thăng tiến, làm giảm
hiệu lực của các nguyên tắc pháp lý, phá vỡ các quy trình quy phạm trong ĐTXD,
gây nên những hậu quả đáng tiếc. Điển hình nhất là vụ PMU18 ở Bộ GTVT.
Hiện nay, tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ
của ngành, địa phương và vì thành tích đã có những quyết định chủ trương đầu tư sai
là nguyên nhân quan trọng gây ra dàn trải, TTLP không nhỏ, ảnh hưởng về lâu dài.
Tuy chưa có số liệu đầy đủ nhưng nhiều chuyên gia cho rằng trong đầu tư và xây
dựng, lãng phí ở các khâu do các quyết định không sát, không đúng chiếm khoảng
60-70% tổng số TTLP. Chưa kể tình trạng cố ý làm sai, vi phạm pháp luật, vụ lợi
trong đầu tư XDCB còn diễn ra ở nhiều dự án.
 Trình độ chuyên môn thấp
Ngoài việc một số chủ thể tham gia quá trình triển khai các dự án cố ý vi
phạm các quy định quản lý dự án thì ở nhiều trường hợp khác, năng lực hạn chế,
trình độ chuyên môn yếu, thiếu tính chuyên nghiệp của các chủ thể cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến tiến độ, chất lượng, giá thành của dự án. Tại Hội thảo toàn quốc về
nguồn nhân lực ngành xây dựng mới đây đã thống nhất nhận định: nguồn nhân lực
trong XDCB vừa thiếu vừa yếu ở tất cả các khâu, các chủ thể tham gia quản lý triển
khai (chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, tư vấn khảo sát, thiết kế, giám sát, đến nhà thầu
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
23
xây lắp). Thực tế này cũng đã được Đoàn giám sát của UBTVQH ghi nhận trong quá
trình làm việc với các bộ, ngành địa phương. Báo cáo của Đoàn giám sát cho biết:
Một số Ban quản lý dự án không có kỹ sư xây dựng; Việc phân cấp mạnh cho huyện,
xã trong XDCB tỏ ra vượt quá khả năng chuyên môn của cán bộ thuộc các cấp này...

5.2. Cơ chế chính sách
 Hệ thống văn bản pháp luật chưa hoàn chỉnh
Hệ thống văn bản pháp luật từ qui hoạch, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đến
đấu thầu, giải phóng mặt bằng, nghiệm thu, quyết toán... chưa đầy đủ, nhiều nội dung
không còn phù hợp với thực tế, thiếu cụ thể, không đồng bộ, hay thay đổi và thiếu
chế tài nghiêm minh.
Mặc dù nước ta đã có Pháp lệnh, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
nhưng vẫn chưa có cơ chế phòng ngừa, đấu tranh một cách cụ thể, đồng bộ, thống
nhất chặt chẽ. Những nội dung pháp luật chưa thật sự tuyên truyền sâu rộng đến với
dân, chưa thấm nhuần vào nhận thức, hành động của mọi người; chưa có chế tài xử lý
nghiêm minh, kịp thời những người vi phạm. Việc thực hiện cải cách hành chính vừa
chậm vừa lúng túng, chưa tạo ra tác động tích cực cho phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.
 Cơ chế quản lý, thanh tra giám sát không hiệu quả
Tổ chức bộ máy quản lý điều hành các dự án đầu tư còn nhiều yếu kém, nhiều
đầu mối, nhiều tầng nấc. Vẫn còn tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước can thiệp
sâu vào công việc của đơn vị kinh doanh. Cơ chế quản lý nhiều khi chưa được xác
lập rõ ràng, minh bạch. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã tiến hành
và đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu chống quan
liêu, lãng phí, chưa phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, đồng bộ giữa những cơ quan, tổ
chức cùng ngăn chặn, chống lãng phí. Chưa thật sự huy động đông đảo nhân dân
tham gia chống lãng phí. Chưa có cơ chế bảo vệ những người phát hiện, lên án các
hành vi lãng phí. Trong bộ máy nhà nước, ở không ít nơi chưa thiết lập chế độ kiểm
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
24
tra, giám sát quyền lực một cách chặt chẽ, cụ thể. Chính sách tài chính vẫn còn biểu
hiện cơ chế "xin - cho". Việc thực hành dân chủ còn nhiều hạn chế, do độc đoán
chuyên quyền dẫn đến những quyết định không chuẩn xác, làm lãng phí tiền của, thời
gian, công sức, làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân.

 Cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp yếu kém
Cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp nhiều chồng chéo, không qui rõ trách
nhiệm, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát sinh tình trạng cục bộ, bản vị và khép
kín. Trách nhiệm của chủ đầu tư, từ chủ đầu tư cao nhất là Nhà nước đến các bộ
ngành và chính quyền các cấp, chưa được thực thi đúng mức thể hiện qua công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện không đầy đủ và chưa nghiêm túc, việc xử lý
vi phạm thiếu kiên quyết và nghiêm minh, lề lối làm việc trong nhiều dự án rất thiếu
khoa học.
5.3. TTLP xuất phát từ đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển
 Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn có thể dẫn đến TTLP
Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Như
vậy, nếu không có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính
sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí
vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm rất dễ gây ra TTLP.
Với nguồn vốn đầu tư lớn như thế, nhưng quyết định đầu tư chủ yếu vẫn chạy
theo số lượng mà chưa tính đến khả năng bố trí nguồn vốn, chưa chú trọng đúng mức
đến hiệu quả đầu tư. Chính điều đó đã dẫn đến những lãng phí nguồn vốn ĐTPT.
Lao động cần sử dụng cho các dự án là rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Tuy nhiên, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ
không tuân thủ một kế hoạch định trước và không hợp lý đã làm chậm tiến độ của dự
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3
GV hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang Phương
25
án và bị ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động,
giải quyết lao động dôi dư… tạo ra TTLP
 Thời kỳ đầu tư kéo dài gây TTLP các nguồn lực
Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành
và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình ĐTPT có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục
năm. Trên thực tế việc đầu tư dàn trải đã dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công

các công trình, dự án; nguồn vốn ngân sách lại phải phân tán, “rải mành mành” làm
nhiều dự án cùng dở dang, chậm đưa vào sử dụng nên không phát huy hiệu quả đồng
vốn đầu tư, gây TTLP các nguồn lực.
 TTLP do thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt
động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá trình
vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động 2 mặt, cả tích cực và tiêu cực của
nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội… Trong quá trình đầu tư, quản lý quá
trình vận hành kết quả đầu tư không tốt, không nhanh chóng đưa thành quả đầu tư
vào sử dụng đã làm cho công trình không hoạt động tối đa được công suất, chậm thu
hồi vốn và dẫn đến các hao mòn vô hình.
Ngoài ra cần chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư
trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm
đómà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của
lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư và rất dễ dẫn
đến thất thoát lãng phí.
 Quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư bị
thất thoát do ảnh hưởng của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng
Các thành quả của hoạt động ĐTPT mà là các công trình xây dựng thường
phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên. Không thể dễ dàng di chuyển
Nhóm_20_kinhtedautu1(201)_3

×