Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Tình hình huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.5 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỘT: LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
PHẦN HAI: NỘI DUNG.........................................................................................................4
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí
Việt Nam..............................................................................................................................4
I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư........................................................................................4
1.Khái niệm về đầu tư..................................................................................................4
2.Đầu tư phát triển.......................................................................................................5
3. Vốn và nguồn vốn...............................................................................................12
II. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí...26
1.Đặc điểm của ngành dầu khí...................................................................................26
2/ Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam ..............27
Chương II : Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay......................................................................................................29
I/ Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.............................29
1/ Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua. .......................29
2/ Quy mô và tốc độ huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.......................41
II/ Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam thời gian
qua:.................................................................................................................................43
1./ Những kết quả đạt được: .....................................................................................43
2/ Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển ngành dầu
khí ở nước ta...............................................................................................................49
III Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở
Việt Nam .......................................................................................................................51
1. Định hướng phát triển ngành Dầu khí những năm tới:......................................51
2. Những cơ hội và thách thức trong vấn đề phát triển ngành Dầu khí :..............53
3. Những yêu cầu đặt ra để huy động vốn có hiệu quả:........................................56
4. Những giải pháp cơ bản để huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt
Nam :..........................................................................................................................58
PHẦN BA: LỜI KẾT.............................................................................................................63
PHẦN MỘT: LỜI MỞ ĐẦU



Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế khủng hoảng, tuy vậy
năm 2010 nền kinh tế Việt Nam đã biết vượt lên khó khan, đạt được một số
thành tựu nhất định. Nền kinh tế tiếp tục tăng tưởng tốt, đạt 6.78%, trong bối
cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều
khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như
trên là một thành công. Tính chung cả năm 2010, giá trị sản xuất công
1
nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 794,2 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so
với năm 2009. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn định trên
con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung của nền kinh tế có
sự đóng góp rất quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Thời gian gần đây, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn
nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng góp
quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Riêng với ngành Dầu khí Việt
Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư vẫn còn có hạn chế. Thêm
vào đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai
đoạn đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, các cuộc chiến tranh của phương
Tây vào Trung Đông đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa
lý - chính trị Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong
hoạt động chính trị- quân sự của Mỹ cũng như Phương Tây ở Trung Đông
phần nào nói lên tầm quan trọng rất to lớn của năng lượng Dầu khí - vàng
đen.
Nhận thấy được sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với
tiềm năng Dầu khí ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển ngành Dầu
khí ở Việt nam là vấn đề đã và đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà
trong bài viết này em xin trình bày về “Tình hình huy động vốn đầu tư
vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam”, nhằm đánh giá một cách
cụ thể hơn các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam,
cũng như sự phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó

có những giải pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành
Dầu khí. Đưa ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của
đất nước.
2
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót
cũng như nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết
được hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sỹ:
Trần Mai Hương. Em xin chân thành cảm ơn cô.


3
PHẦN HAI: NỘI DUNG
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề
huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự
phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu
tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công
cuộc đầu tư.
I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư
Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất
định trong tương lai.
Các nguồn lực sử dụng trong hoạt động đầu tư có thể là tiền, là tài
nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ con người. Còn những kết quả
đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất, tài sản trí tuệ hoặc cũng có thể
là tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất
cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hi

sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai
trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi không chỉ với người bỏ vốn ra mà còn
đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà
cả nền kinh tế cũng được thụ hưởng.
4
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương
mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc
thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.
Vậy Đầu tư cho phát triển là gì?
2. Đầu tư phát triển
a. Khái niệm
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động này
nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và
sinh hoạt đời sống của xã hội.
Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trực tiếp không chỉ tạo ra tài sản
mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ mà còn duy trì
năng lực trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt của đời sống xã hội.
Được thể hiện ở chỗ, khi đi vào quá trình vận hành kết quả đầu tư thì máy
móc kỹ thuật và khoa học công nghệ phải luôn được bảo dưỡng, nâng cấp để
duy trì sản xuất, không những thế mà khoa học công nghệ phải luôn luôn
được đổi mới để phù hợp với trình độ khoa học công nghệ hiên đại, để bắt
kịp với nền khoa học tiên tiến trên thế giới. Hình thức đầu tư này đóng vai
trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nền kinh tế tại
mỗi quốc gia.
Đầu tư cho phát triển được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ nhằm duy trì tiềm
lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh
tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
b. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt với các loại

hình đầu tư khác, gồm những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi quy mô vốn, vật tư, lao động
5
thường là rất lớn. Khi đi vào vận hành kết quả đầu tư, thì vốn đầu tư là yếu
tố nằm đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện. Nó đòi hỏi người chủ đầu tư
phải có những biện pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch hợp lý để quản lý
vốn một cách chặt chẽ để hoạt động đầu tư có hiệu quả sử dụng vốn cao,
tránh thất thoát vốn.
+ Thời gian thực hiện đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công
thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công
trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn
lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn
lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt
chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn
đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết
quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời gian
sử dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng
lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn. Trong suốt quá trình vận hành, các kết quả
đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự
nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội…
+ Nếu sản phẩm của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng thì
thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên do đó quá
trình thực hiện đầu tư và đi vào vận hành kết quả đầu tư sẽ chịu ảnh hưởng
của điều kiện thời tiết, khí hậu, điều kiện thuỷ văn của địa điểm đó.
+ Dễ gặp phải rủi ro: Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và
thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài…nên mức rủi ro của hoạt
động đầu tư phát triển thường cao.
6

Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động
đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát
triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội
nói chung.
c. Vai trò của Đầu tư phát triển.
- Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư và việc tích lũy vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc
gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Việc gia tăng
vốn quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng
bình quân cho mỗi lao động. Theo mô hình Harrod-Domar, mức tăng trưởng
của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần.
g =
Y
Y

=
Y
Y


×

K
K


=
K
Y




×

Y
K

=
ICOR
1

×

Y
1

Từ đó có thể suy ra:

Y

=
ICOR
1

×
I
Trong đó:


Y: là mức gia tăng sản lượng



K: là mức gia tăng vốn đầu tư
I : là mức đầu tư thuần
K : là tổng quy mô vốn của nền kinh tế
Y : là tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR: là hệ số gia tăng vốn-sản lượng
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét
trong tiến trình đổi mới mở cửa nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với
chính sách đổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước
7
ngoài ngày càng đa dạng cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế đạt được cũng rất thỏa đáng.
- Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính
sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà
nước thể hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dựng cơ chế quản
lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như chính sách
tài khóa, chính sách tiền tề và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý.
Tỷ trọng vốn đầu tư cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và nền kinh tế. Không những thế, giữa
đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế có mối
quan hệ khăng khít với nhau. Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu
quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ
dẫn dến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế cao
kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư
dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn.
- Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
Tác động đến tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư
thường chiếm từ 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế
giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét
theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu
(AD) tăng (nếu các yếu tố khác không thay đổi.
AD=C+ I + G + X – M
8
Trong đó:
C: tiêu dùng
I: đầu tư
G: tiêu dùng của chính phủ
X: xuất khẩu
M: nhập khẩu
+ Tác động tới tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính
là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong
nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công
nghệ…, thể hiện qua phương trình sau:
Q= F (K, L, T, R…)
Trong đó:
K: vốn đầu tư
L: lao động
T: công nghệ
R: nguồn tài nguyên

Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:
9
D’
D
E2

E1
S
S’
Eo
Qo
Q1
Q2
Po
P2
P1
Q
P
Như vậy tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng
cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác nếu tác động
của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ…Do đó đầu tư gián tiếp làm
tăng tổng cung của nền kinh tế.
- Đầu tư có tác động hai mặt đến tính ổn định của nền kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư
dù là lớn hay nhỏ đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là
yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi đầu tư tăng lên, cầu của yếu tố đầu tư tăng lên làm cho
giá của các hàng hoá có liên quan tăng ( giá chi phí vốn, công nghệ, lao
động…), đến mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát, lạm phát làm cho
sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền
lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại.
Mặt khác, đầu tư làm cho cầu các yếu tố liên quan tăng, sản xuất của các
ngành này phát triển thu hút nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp,
nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động

này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Ngược lại khi giảm đầu tư cũng
dẫn đến tác động hai mặt theo chiều hướng ngược lại so với các tác động
trên đây. Vì vậy trong điều hành nền kinh tế vĩ mô, các nhà hoặch định
chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra chính sách nhằm hạn
chế tác động xấu nhằm phất huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của
toàn bộ nền kinh tế.
- Đầu tư có tác động lớn tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao
động.
10
Việc đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng chuyên môn cao, sản phẩm
làm ra có chất lượng yêu cầu cần phải được đầu tư vào công tác đào tạo từ
cấp thấp nhất đến cấp cao nhất, chi phí đào tạo ở đây bao gồm chi phí của
nhà nước và chi phí của dân cư cho con em đi học. Và như vậy, để có được
đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệm cần phải
thông qua tuyển dụng, chọn lọc,… để tiến hành khâu này cần phải tốn một
khoản chi phí nhất định, khi đó sẽ có được đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn, năng suất cao và sản phẩm làm ra có chất lượng tốt nhất.
- Đầu tư với việc tăng cường năng lực khoa học cộng nghệ của đất
nước.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát
triển khoa học, công nghê của môt doang nghiệp và quốc gia. Đầu tư và đặc
biệt đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo năng lực sản xuất, phục vụ
của nền kinh tế và của các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và đồng thời ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế.
Trong giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia
tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, qua trình chuyển
từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá chuyển từ đầu tư ít
sang đầu tư lớn ,thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ
không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của

khoa học và công nghệ. Mỗi doanh nghiệp mỗi nước khác nhau cần phải có
bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có
hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của tưng đơn vị cũng như toàn nền kinh
tế.
11
Như vậy, đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát
triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy
vốn là gì? Vốn huy động từ đâu?
3. Vốn và nguồn vốn
3.1. Khái niệm về vốn
Trong cuốn Từ điển kinh tế hiện đại có giải thích:"Capital - tư bản/vốn: một
từ dùng để chỉ một yếu tố sản xuất do hệ thống kinh tế tạo ra. Hàng hoá tư
liệu vốn là hàng hoá được sản xuất để sử dụng như yếu tố đầu vào cho quá
trình sản xuất sau. Vì vậy, tư bản này có thể phân biệt được với đất đai và
sức lao động, những thứ không được coi là do hệ thống kinh tế tạo ra. Do
bản chất không đồng nhất của nó mà sự đo lường tư bản trở thành nguyên
nhân của nhiều cuộc tranh cãi trong lý thuyết kinh tế." (Từ điển kinh tế học
hiện đại, NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội, 1999, Tr. 129)
Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói chung.trên phương
diện nền kinh tế,vốn đầu tư phát triển là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền toàn bộ
chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm vốn cố định và vốn
lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác. Nội dung của chỉ tiêu này
được thể hiện theo công thức sau:
Vốn đầu tư
phát triển
=
Vốn đầu tư xây
dựng cơ bản và
chi phí cho sửa
chữa lớn TSCĐ

(1)
+
Vốn lưu
động bổ
sung
(2)
+
Vốn đầu tư
phát triển khác
(3)
12
Bảng 1: Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn thời kỳ 1995-2009
Đơn vị tính: %
Năm Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn nước ngoài Tổng số
1995 69.6 30.4 100
1996 74.0 26.0 100
1997 72.0 28.0 100
1998 79.2 20.8 100
1999 82.7 17.3 100
2000 82.0 18.0 100
2001 82.4 17.6 100
2002 82.6 17.4 100
2003 84.0 16.0 100
2004 85.8 14.2 100
2005 85.1 14.9 100
2006 83.8 16.2 100
2007 75.7 24.3 100
2008 70.2 29.8 100
2009 74.3 25.7 100
Trong giai đoạn 1995-1997, nguồn vốn trong nước chiếm hơn 70%, vốn đầu

tư nước ngoài chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bước sang
giai đoạn 1998-2006, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh, chỉ chiếm
chưa đến 20%, đó là do hiệu ứng của khủng hoảng tài chính Đông Nam Á
1997 khiến cho môi trường đầu tư của Việt Nam có nhiều bất lợi. Bằng
những biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô cùng với sự nỗ lực hoàn thiện hệ
thống pháp lý, từ 2007-2009, Việt Nam trở thành lựa chọn hợp lý của nhiều
nhà đầu tư nước ngoài, mặc dù tình hình kinh tế thế giới có nhiều bất ổn do
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhờ đó tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đã
tăng và chiếm 30%. Xu hướng này là một tín hiệu tốt, phù hợp với cơ cấu
đầu tư hợp lý về nguồn vốn là giảm dần tỷ trọng vốn trong nước, tăng dần tỷ
trọng vốn nước ngoài; mặt khác vẫn đảm bảo nguyên tắc vốn trong nước là
13
quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng theo định hướng phát triển kinh tế
xã hội.
3.2. Các nguồn vốn cơ bản
Có rât nhiều cách phân chia các nguồn vốn huy động vào hoạt động đầu
tư phát triển kinh tế. ở đây tôi xin đưa ra một cách phân chia nguồn vốn huy
động, mà ta sẽ dựa vào các nguồn này để xem xét vấn đề huy động vốn vào
ngành đầu khí ở phần sau.
3.2.1 Nguồn vốn trong nước
- Nguồn vốn nhà nước
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước
phân theo nguồn vốn thời kỳ 2003-2010.
Đơn vị: %
Năm
Tổng
số
Nguồn vốn nhà nước
Vốn ngân sách
nhà nước

Vốn tín dụng đầu tư
phát triển nhà nước
Vốn đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước
2003 100 43.62 31.06 25.32
2004 100 44.71 28.17 27.12
2005 100 43.76 30.45 25.79
2006 100 45.03 30.81 24.16
2007 100 49.49 25.48 25.02
2008 100 54.40 22.26 23.34
2009 100 54.13 14.50 31.37
2010 100 54.21 15.41 30.38
Thực trạng Việt Nam cho thấy vốn đầu tư từ ngân sách chiếm tỷ trọng
lớn nhất, khoảng 50% trong tổng số vốn từ khu vực nhà nước. Tỷ trọng vốn
tín dụng đầu tư phát triển nhà nước chiếm khoảng 30% giai đoạn 2003-2006
và giảm dần từ năm 2007 đến 20010 chỉ còn 15,41%. Vốn đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ nhỏ nhất nhưng có xu hướng tăng dần, từ
2008 đến nay nguồn vốn này đã đóng góp 30% vào tổng vốn đầu tư khu vực
nhà nước.
14
+ Vốn ngân sách nhà nước
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền
kinh tế quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở
rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên,
bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước…). Đi cùng với sự mở rộng
quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
cũng gia tăng đáng kể. Tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2001-
2005 tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước hàng năm
đạt gần 23% GDP. Nguồn thu ổn định từ sản xuất trong nước đã bước đầu
dần dần tăng. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%, tỷ lệ chi

ngân sách nhà nước bình quân bằng 28% GDP. Trong đó chi đầu tư phát
triển đạt bình quân 30,2% tổng chi ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn
2000-2007, tỷ trọng vốn ngân sách trong tổng số vốn đầu tư của khu vực nhà
nước có xu hướng tăng lên từ 43.62% năm 2000 đến 54.21% năm 2007,
nhưng giảm về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2008, trong
vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước đạt 100900 tỷ
đồng, chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư cả nước. Đến năm 2009, vốn từ ngân
sách nhà nước tiếp tục tăng lên đến 153800 tỷ đồng, chiếm 21,8% tổng vốn
đầu tư cả nước.
+ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển nhà
nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Nếu như trước năm 1990 vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì
trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có tín hiệu gia tăng và bắt đầu
có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước.
Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn này mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn
15
xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín dụng đầu tư của nhà nước có xu
hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng
không có sự gia tăng đáng kể.
+ Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Trong giai đoạn 1991-1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh
nghiệp nhà nước là 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền
kinh tế. Từ năm 1998-2001, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước
chậm lại nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của toàn bộ nền kinh tế,
nộp ngân sách chiếm 40% tổng thu của ngân sách nhà nước, tạo việc làm
cho trên 1,9 triệu người. Thời kỳ 2000-2007 đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước đạt trên 76,74 nghìn tỷ đồng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thông

thường nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi
mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,
phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân
doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân
cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25%
tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực
tiếp vào khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn
2001-2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. Từ đó đến nay nguồn này tiếp tục gia tăng cả về quy mô
và tỷ trọng.
Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân
và hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển nông nghiệp,
16
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương.
Trong 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, nhà nước liên tục hoàn thiện
các chính sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế hộ gia đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và thúc đẩy sự đan xen, hỗn hợp các
hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Với Luật Doanh nghiệp thống nhất
(2005) và Luật đầu tư chung (2005) chính thức có hiệu lực từ giữa năm
2006, các tầng lớp dân cư và khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục được khuyến
khích, động viên đại bộ phận tích lũy cho đầu tư phát triển.
Có thể nhận thấy huy động nguồn lực trong nước nhìn chung vẫn còn
nhiều hạn chế. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của đất nước lớn nhưng khả
năng đáp ứng các nguồn vốn thấp. Trong cơ cấu nguồn vốn trong nước,
nguồn vốn ngân sách chiếm tỷ trọng cao, các nguồn vốn khác chiếm tỷ trọng

thấp trong khi tiềm năng thu hút vốn là khá cao. Điều này do cơ chế, chính
sách huy động các nguồn vốn còn thiếu đồng bộ, chưa mang tính khuyến
khích và hấp dẫn cao, thiếu tính năng động, sáng tạo trong khai thác các
nguồn vốn, ví dụ có thể nhận thấy rõ tâm lí của khu vực tư nhân và người
dân chưa tin tưởng vào sự ổn định của nền kinh tế, lo lắng trước nguy cơ lạm
phát nên huy động vốn từ nguồn này chưa đúng với tiềm năng của nó.
3.2.2 Vốn đầu tư nước ngoài
a. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
FDI là nguồn vốn đầu tư vô cùng quan trọng đối với một quốc gia
đang phát triển như Việt Nam. Tính đến nay, Việt Nam đã thu hút được hơn
70 quốc gia đưa vốn vào đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau. Chỉ tính
trong giai đoạn 2001-2006, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm trung bình
khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Bảng 3: Tình hình thu hút vốn đầu tư giai đoạn 2000-2009
Đơn vị: triệu USD
Năm Số dự án Vốn đăng kí Vốn thực hiện
17
200
0
391 2838.9 2413.5
200
1
555 3142.8 2450.5
200
2
808 2998.8 2591
200
3
791 3191.2 2650
200

4
811 4547.6 2852.5
200
5
970 6839.8 3308.8
200
6
987 12004 4100.1
200
7
1544 21347.8 8030
200
8
1171 60217 12000
200
9
839 21800 10000

* Giai đoạn 2000 – 2007 là giai đoạn FDI phục hồi và tăng tốc. Nếu
như năm 2000 Việt Nam mới chỉ thu hút được 391 dự án với 2413.5 triệu
USD vốn thực hiện thì đến năm 2007 đã là 1544 dự án ( tăng 394,9% so với
năm 2000). Cùng với đó, vốn thực hiện cũng tăng 332,7% đạt 8030 triệu
USD. Đây là một con số kỉ lục, cho thấy mức độ khả quan của việc thu hút
FDI vào Việt Nam trong những năm tiếp theo và là tiền đề tốt để tiếp tục
quảng bá môi trường đầu tư, củng cố niềm tin đối với các nhà đầu tư nước
ngoài.
Mặt khác, cơ cấu FDI theo đối tác trong giai đoạn này cũng có nhều
thay đổi. Trong những năm đầu của thế kỉ 20,các nhà đầu tư lớn chủ yếu
18
đến từ châu Âu, chiếm 36% tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Tuy

nhiên,đến hết năm 2004, châu Á đã vượt qua châu Âu trở thành chủ đầu tư
lớn nhất tại Việt Nam với 67,8% tổng vốn đăng ký, trong khi đó châu Âu
chỉ chiếm 11,2% và châu Mỹ chiếm 8% tổng vốn đăng ký vào Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2007, các nước châu Á như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore, Hồng Kông là 5 nước đứng đầu danh sách FDI vào Việt
Nam.
Như vậy, nhìn chung, trong giai đoạn này mặc dù số dự án và số vốn
đăng kí có tăng lên đáng kể nhưng tỉ lệ các dự án có sử dụng công nghệ cao,
công nghệ nguồn còn thấp. Hơn nữa, các đối tác như châu Âu và Hoa Kì lại
có hàm lượng đầu tư chưa cao, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của
họ.
* Năm 2008
Mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới khiến nền kinh tế
nước ta gặp phải nhiều bất ổn, như chỉ số giá tiêu dùng cao, môi trường kinh
doanh kém thuận lợi so với năm trước... năm 2008 vẫn đi qua với kết quả
“ngoạn mục” về thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của
cả nước, đạt hơn 64 tỉ USD - mức cao nhất từ trước tới nay. Cụ thể tổng số
dự án FDI được cấp mới vào Việt Nam năm 2008 là 1.171 dự án với tổng số
vốn đăng ký đạt 60,217 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007. Trong năm
2008, số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng ký tăng vốn với
tổng số vốn đăng ký tăng thêm 3,74 tỷ USD (tăng 42,3% so với cùng kỳ năm
2007). Quy mô dự án bình quân là 51,47 triệu USD/dự án, cao hơn rất nhiều
so với thời gian trước. Vốn thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD (là năm cao
nhất kể từ năm 1997 đến nay và tăng 43,2% so với 2007), vốn đăng ký kể cả
cấp mới và tăng thêm của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động đạt tới
64,011 tỷ USD, tăng 199,9% so với năm 2007 cho thấy hoạt động của các
19
doanh nghiệp FDI hiện có là ổn định và phát triển, tạo sức hấp dẫn cho các
nhà đầu tư mới.
* Năm 2009

Riêng năm 2009, vốn đầu tư đăng kí vào Việt Nam đạt 21,8 tỉ USD,
bằng 30% so với năm 2008; vốn thực hiện đạt 10 tỉ USD. Xuất khẩu của khu
vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6
% so với năm 2008 và chiếm 52,7 % tổng xuất khẩu cả nước. Nhập khẩu của
khu vực đầu tư nước ngoài năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD, bằng 89,2 % so với
năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập khẩu cả nước. Như vậy, trong năm
này, khu vực đầu tư nước ngoài đã xuất siêu 5,03 tỷ USD. Theo các báo cáo
nhận được đến 15/12/2009, trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được
cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ
bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký
tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3%
so với năm 2008.
b. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi,
việc thu hút vốn ODA đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam trong nhiều năm nay. Hiện nay, với
quy mô tài trợ khác nhau, Việt Nam đã có trên 45 đối tác hợp tác phát triển
song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động.
Bảng 4: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2000 – 2007
20
Năm Cam kết Ký kết
2000 2.400,50 1.772,02
2001 2.399,10 2.427,42
2002 2.462,00 1.826,17
2003 2.838,40 1.772,98
2004 3.440,70 2.569,22
2005 3.748,00 2.529,11
2006 4.445,60 2.824,58
2007 5455 3.122,47

Đơn vị: Triệu USD
Năm 2008, cùng với kỉ lục thu hút FDI, Việt Nam cũng tạo nên 1 kỉ
lục mới về mức cam kết ODA - 5,426 tỉ USD, mức cam kết này tăng 1 tỉ
USD, xấp xỉ 20% so với năm 2007. Như vậy, liên tiếp trong 5 năm 2003-
2008, ODA cam kết luôn cho Việt Nam những con số kỉ lục. Trong năm
2008, ngân hàng phát triển châu Á (ADB) tiếp tục là nhà tài trợ đẫn đầu với
mức cam kết lên tới 1,350 tỉ USD. Nhật Bản trở thành nhà tài trợ lớn thứ 2
với tổng số vốn cam kết đạt 1,111 tỉ USD, tăng 20% so với năm 2007.
Do chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế - tài chính
toàn cầu, tổng mức cam kết ODA năm 2009 cho Việt Nam chỉ đạt 5,01 tỉ
USD (giảm 7,7% so với năm 2008). Trong đó, Ngân hàng thế giới (WB) vẫn
là nhà tài trợ đa phương lớn nhất với mức vốn cam kết đạt 1,66 tỉ USD, tiếp
theo là ADB với 1,56 tỉ USD và các tổ chức thuộc Liên hiệp quốc đứng thứ
3 với 97,7 triệu USD. Còn các nhà tài trợ song phương , Liên minh châu Âu
(EU) đứng đầu với số vốn cam kết đạt 893,48 triệu USD, trong đó Pháp hỗ
trợ nhiều nhất với 280,96 triệu USD, Hàn Quốc cũng tuyên bố số vốn ODA
là 268,7 triệu USD và Mĩ là 128,12 triệu USD.
Đến Hội nghị nhóm các tư vấn các nhà tài trợ cho VIệt Nam
(CG2009) đã cam kết con số ODA kỉ lục cho năm 2010 – 8,063 tỉ USD. Đây
là con số cam kết vô cùng ấn tượng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều
khó khăn, việc tiếp cận các nguồn vốn con` nhiều hạn chế. Trong đó, WB
21
vẫn là nhà tài trợ hàng đầu của Việt Nam với con số 2,498 tỉ USD, tiếp đến
là Nhật Bản với 1,640 tỉ USD. ADB cam kết tài trợ 1,479 tỉ USD, trong khi
Ủy ban châu Âu (EC) cam kết 331 triệu USD; Mỹ 270 triệu USD, EU là
1,082 tỷ USD, trong đó Pháp là nhà tài trợ lớn nhất với mức cam kết 378
triệu USD, tiếp sau là Đức 137 triệu USD.
c) Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Trong các nguồn vốn được đầu tư thì nguồn vốn tín dụng từ các ngân
hàng thương mại cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.

Các số liệu của WB đã cho thấy luồng vốn đầu tư từ các ngân hàng
thương mại nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu tăng, WB đã ước tính luồng
vốn đầu tư thật sự vào Việt Nam có thể đạt được mức tăng 10%/năm. Các
kết quả khả quan này, theo các nhà đầu tư nước ngoài, là do môi trường đầu
tư ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Việc gia nhập vào WTO vào tháng
11/2006 đã giúp cho Việt Nam rất nhiều trong việc thu hút vốn từ các ngân
hàng thương mại quốc tế. Với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam trở
nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài do đã tạo ra được sự tin
tưởng vào cơ chế, chính sách ổn định ở nước ta.
Trong năm 2008, WB đã dành cho Việt Nam nhiều khoản vay ưu đãi
với số tiền cho vay rất lớn, cùng với thời gian vay kéo dài. Có nhiều dự án
cho vay với kỳ hạn 40 năm. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc tạo điều kiện
thuận lợi cho nước ta đi lên. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và WB đã ký kết Hiệp định Tín dụng và các văn kiện khác cho khoản tín
dụng xóa đói giảm nghèo lần thứ 7 (PRSC-7) với trị giá 150 triệu USD (kí
kết vào ngày 29/7/2008 tại Việt Nam), được vay trong 40 năm trong đó có
10 năm ân hạn với lãi suất 0%. Sau sự thành công của kí kết này, ngày
7/8/2009, đại diện của WB tại Việt Nam đã tiếp tục kí Hiệp định tài trợ và
các văn kiện pháp lí liên quan đến Chương trình Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo
8 (PRSC8) trị giá 350 triệu USD.
22
Là một đối tác quan trọng, từ năm 2003 cho đến nay, ADB đã cho
chúng ta vay nhiều khoản tín dụng ưu đãi. Ngày 1/12/2003, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và ADB đã ký kết Hiệp định khoản vay trị giá 55 triệu USD
cho dự án "Phát triển giáo dục trung học phổ thông". Thời hạn vay là 32
năm, trong đó có 8 năm ân hạn, lãi suất trong thời gian ân hạn là 1%/năm, lãi
suất trong những năm tiếp theo là 1,5%/năm; phần vốn đối ứng của Chính
phủ Việt Nam là 25 triệu USD. Dự án được tiến hành từ năm 2003 - 2009.
Không chỉ quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế, ADB còn rất quan tâm
đến chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ Việt Nam. Ngày

8/9/06, Dự án phòng chống HIV/AIDS cho Thanh niên do ADB tài trợ đã
chính thức được khởi động. Theo đó, chiến lược phòng chống HIV/AIDS
đến 2010 và tầm nhìn 2020 là khống chế sự lây lan trong cộng đồng dân cư
xuống 0,3%. Dự án có tổng kinh phí 26,7 triệu USD; trong đó, ADB tài trợ
20 triệu USD và Chính phủ Việt Nam đóng góp 6,7 triệu USD.
Không chỉ có vậy, ngoài WB và ADB, cũng còn rất nhiều Ngân hàng
thương mại thế giới khác dành cho Việt Nam những sự ưu ái đầu tư đặc biệt.
d) Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế, Nhà
nước ta rất coi trọng việc huy động nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế.
Ngày 25/10/2005, Việt Nam phát hành lượng trái phiếu đầu tiên trị giá 750
triệu USD ra thị trường vốn quốc tế và được đánh giá là khá thành công (trái
phiếu của Vinashin). Sau đợt phát hành, đã có nhiều doanh nghiệp "nhăm
nhe" đưa trái phiếu của mình ra thị trường quốc tế và Bộ Tài Chính luôn
khẳng định sẽ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện kế hoạch phát hành. Tập đoàn
Điện lực Việt Nam đã trình Chính phủ và được đồng ý về nguyên tắc kế
hoạch phát hành 800 triệu USD trái phiếu doanh nghiệp (TP doanh nghiệp)
ra thị trường quốc tế. Đầu tháng 6/2007, Bộ Tài chính đã kiến nghị Chính
phủ thông qua Nghị quyết phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường vốn
23
quốc tế với thời hạn từ 15 đến 20 năm (hiện tại được mở rộng thời hạn huy
động từ 10 đến 30 năm) cho Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải,
Tổng công ty Sông Đà và Lilama vay lại để đầu tư các dự án...
Mặc dù nhận thức rõ các lợi ích có thể đem lại từ phát hành trái phiếu
quốc tế, song hiện nay, việc phát hành loại trái phiếu này đang gặp phải rất
nhiều khó khăn trước mắt. Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị
trường quốc tế từ tháng 6/2007 đã bị hoãn lại. Sự thận trọng có lẽ bắt nguồn
từ bối cảnh kinh tế toàn cầu, đặc biệt là nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn, thị
trường tài chính quốc tế tạm rơi vào tình trạng trầm lắng khiến các nhà đầu
tư Mỹ cũng như các nước khác có phần dè dặt hơn trong việc tham gia đầu

tư vào trái phiếu của các quốc gia khác.
Về phía bản thân các chủ thể trong nước, rõ ràng, để phát hành trái phiếu
ra thị trường quốc tế thì hiện tại doanh nghiệp vẫn đang gặp các trở ngại nhất
định về định giá hệ số tín nhiệm, về năng lực tài chính, về khâu kiểm toán...
Điều quan trọng nhất lúc này là các doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị
tất cả các điều kiện phát hành và chờ đến khi thị trường phục hồi trở lại sẽ
chớp lấy thời cơ. Doanh nghiệp Việt Nam phải xác định được nhà đầu tư vào
trái phiếu là ai để công bố công khai kế hoạch phát hành, mục đích huy động
vốn, tình hình hoạt động... một cách minh bạch. Đây là điều kiện tối cần
thiết để đẩy nhanh tiến trình thâm nhập thị trường vốn quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam, từ đó tạo tiền lệ mở đường cho phát hành cổ phiếu và
niêm yết quốc tế.
Tuy nhiên, cũng nhận thấy rằng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn
chưa thực sự chiếm tỉ trọng cao trong tổng cơ cấu nguồn vốn đầu tư, chưa
thực sự thể hiện hết khả năng kích thích tăng trưởng, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội Việt Nam như mong đợi. Mặt khác, đối với từng nguồn vốn thì cơ
cấu đầu tư vào Việt Nam cũng chưa hợp lí, còn nhiều hạn chế. Đơn cử như
việc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hàng năm với con số khá cao,
24
nhưng lại chỉ tập trung chú trọng vào các ngành bất động sản, dịch vụ lưu
trú, còn các ngành khác thì hầu như không có hoặc không đáng kể. Hơn thế
nữa, đối với việc sử dụng các nguồn vốn vay, do trình độ quản lí và trình độ
công nghệ yếu kém, đã làm giảm khả năng tác động của nguồn vốn nước
ngoài với vai trò là “cú huých” của nền kinh tế.
* Về cơ bản, cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn của Việt Nam vẫn còn nhiều
điểm hạn chế, chưa hợp lí. Đặc biệt là việc sử dụng quá nhiều nguồn lực
trong nước cho đầu tư phát triển, mà chưa phát huy được hết khả năng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong từng nguồn vốn, cũng chưa huy
động triệt để mọi nguồn lực, gây nhiều gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Điều đó là do một vài tồn tại :

- Trước hết, hiệu suất sử dụng vốn cận biên của nước ta còn thấp, dẫn
đến việc tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế không được đảm bảo; do
đó, năng lực tích lũy của nội bộ nền kinh tế không cao, việc huy động vốn
trong nước gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, việc nguồn vốn đưa vào đầu tư
không đạt được hiệu quả như mong đợi đã làm thiệt hại không ít nguồn vốn
đầu tư nước ngoài.
- Thứ hai, môi trường kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều bất ổn, được thể hiện
qua việc giá trị đồng nội tệ mất giá, tình trạng lạm phát, hay việc lãi suất và
tỉ giá hối đoái liên tục thay đổi. Hơn nữa, hệ thống luật pháp đầu tư đặc biệt
là các quy định về thuế, phí, lệ phí còn quá thiếu và yếu, nhiều luật chồng
chéo và thường xuyên thay đổi cũng làm hoang mang các nhà đầu tư. Hơn
thế nữa, chính sách huy động các nguồn vốn còn thiếu đồng bộ, chưa mang
tính khuyến khích và hấp dẫn cao, thiếu tính năng động, sáng tạo trong việc
thu hút các nguồn vốn. Điều đó cũng làm hạn chế khả năng thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, là nguyên nhân cơ bản gây ra cơ cấu đầu tư bất hợp lí theo
nguồn vốn ở Việt Nam.
25

×