Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.71 KB, 27 trang )

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN
BÀI THU HOẠCH NHÓM 3
  
Đề Tài: HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA.
I. SƠ LƯỢC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA:
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã phát hiện ra quy luật khách quan
của quá trình biến chuyển cách mạng căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loài
người là những giai đoạn kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội phát triển
từ thấp đến cao. Thực tế chứng minh nhân loại đã có năm hình thái kinh tế - xã hội
kế tiếp nhau đó là: hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy; chiếm hữu nô
lệ; phong kiến; tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa mà đỉnh cao là cộng sản chủ
nghĩa.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu ta cần định nghĩa được về hình thái kinh tế - xã
hội (HTKTXH). HTKTXH là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ một xã hội (XH) ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản
xuất (QHSX) đặc trưng cho XH đó phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất (LLSX) và một kiểu kiến trúc thượng tầng (KTTT) tương ứng, xây dựng
trên cơ sở quan hệ đặc trưng ấy.
Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), là một trong những biểu hiện
của quan hệ xã hội,giữ và trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất
là quan hệ đầu tiên,quyết định những quan hệ khác. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
-Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất -Quan hệ tổ chức lao động sản xuất -Quan
hệ phân phối sản phẩm lao động.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời
kỳ nhất định, là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nôi dung vật chất của quá trình
1
sản xuất. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm yếu tố người lao
động và hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó
quan trọng nhất là công cụ lao động.
Kiến trúc thượng tầng hay Thượng tầng kiến trúc là một kháiniệm trong chủ


nghĩa duy vật lịch sử của Marx và Ph.Ăng-ghen đưa ra dùng để mô tả toàn bộ hệ
thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị-xã hội
tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Theo đó, kiến trúc
thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, lý luận về đấu tranh
giai cấp và cách mạng xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen tập trung nghiên cứu hình
thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa từ đó đưa ra dự báo về sự ra đời của hình thái
kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Vậy HTKTXH cộng sản chủ nghĩa là gì? về
HTKT - XH CSCN: là một khái niệm dùng để chỉ XH ở giai đoạn cao trong sự
phát triển lịch sử loài người, trong đó các yếu tố LLSX đã phát triển đến một trình
độ cao, QHSX được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu và một KTTT tương ứng. Theo đó các yếu tố LLSX, QHSX, KTTT đã có sự
phát triển cao hơn hẳn so với chủ nghĩa tư bản. Nét đặc trưng cho HTKTXH này là
chế độ công hữu về TLSX, là hình thái mà sự phát triển toàn diện, không hạn chế
của mỗi người trở thành mục tiêu trực tiếp.
II. XU HƯỚNG TẤT YẾU CỦA SỰ XUẤT HIỆN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ
HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA:
Trong các tác phẩm của mình đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, Chống Đuy-Rinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của
chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại, ông viết: “ Giai cấp
tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực
2
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của các thế hệ trước kia
gộp lại “. Nhưng mặt khác C.Mác và Ph.Ănggen cũng chỉ ra rằng: Trong xã hội
đối kháng giai cấp đó con người càng chinh phục, cải tạo thiên nhiên thì tình trạng
người áp bức, bốc lột người càng được mở rộng. Sự phát triển về kinh tế - xã hội
dưới chủ nghĩa tư bản càng gia tăng thì sự suy đồi về đạo đức, về lối sống con
người , sự nghèo khổ của giai cấp công nhân, nguy cơ mất việc làm của giai cấp

công nhân càng lớn.
C.Mác và Ph.Ănghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ
sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dẫn tới sự
kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi
hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh
vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công
nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai
cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ănghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào
những điều kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự
xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ
phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, theo chủ nghĩa Mác -
Lênin để hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa xuất hiện ở các nước tiền tư
bản, phải có những điều kiện nhất định là :
Thứ nhất, do chính sách xâm lược của chủ nghĩa tư bản đối với các nước thuộc
địa trên thế giới, ở các quốc gia này phải xuất hiện những mâu thuẫn mới: mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
3
quốc xâm lược với các quốc gia dân tộc bị xâm lược; mâu thuẫn giữa các nước tư
bản đế quốc tư bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, tư sản và nông
dân các nước thuộc địa…và đặc biệt là mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên chủ nghĩa
đế quốc xâm lược cùng bọn phong kiến tay sai, tư sản phản động một bên là cả dân
tộc gồm: công nhân nông dân, trí thức và những lực lượng yêu nước khác.
Thứ hai, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, hệ tư tưởng Mác - Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và
các dân tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước,

giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và
các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà dựa vào những
điều kiện lịch sử nhất định.
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện
trên lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao
động với giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt. Qua thực tiễn cuộc đấu tranh
đã khiến cho giai cấp công nhân hiểu rằng, muốn giành thắng lợi phải tiếp thu chủ
nghĩa xã hội khoa học hình thành chính đảng của giai cấp mình. Khi đảng cộng sản
ra đời, toàn bộ hoạt động của đảng đều hướng vào lật đổ nhà nước của giai cấp tư
sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập
nhà nước này là sự mở đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, một mặt chủ nghĩa Mác-Lênin xem sự ra đời chủ nghĩa Cộng sản là
kết quả tất yếu của sự vận động và phát triển của xã hội loài người, là quá trình
“lịch sử tự nhiên”, mặt khác cũng khẳng định hình thái kinh tế-xã hội cộng sản
chủ nghĩa ra đời là kết quả hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng hành
động đấu tranh cách mạng của giai cấp này bởi vì chế độ tư bản chủ nghĩa không
tự nó sụp đổ.
4
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa cao đã mang tính chất
toàn cầu ngày càng mâu thuẩn với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Nhưng sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi
dụng nhà nước, nhân dân nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy mâu thuẩn đối
kháng trong kinh tế và trong lĩnh vực xã hội không hề suy giảm. Mâu thuẩn đó chỉ
có thể giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình thái
kinh tế - xã hội chủ nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
“Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt,
chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc
của nó” nhưng cũng khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra

đời là kết quả hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh
cách mạng của giai cấp này, bởi vì thế chế độ tư bản chủ nghĩa không tự nó sụp đổ.
Ngày nay chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn kiên quyết bảo vệ
chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện chúng
có trong tay.
Trong khi nhấn mạnh vai trò tích cực của nhân tố chủ quan trong tiến trình cách
mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ mới xã hội chủ nghĩa, các
nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng cương quyết đấu tranh chống lại
khuynh hướng cách mạng phiêu lưu, không tính đến trình độ phát triển của hiện
thực cách mạng, không xem xét tới trình độ giác ngộ của nhân dân, thiếu sự chuẩn
bị chu đáo.
III. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA:
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã có những luận điểm khoa học về phân kỳ các giai
đoạn phát triển trong quá trình hình thành và hoàn thiện HTKT – XH CSCN.
Có thể khái quát các luận điểm cơ bản như sau:
5
*Tư tưởng của Mác – Ăngghen:
Một là, hình thái kinh tế xã hội CSCN phát triển qua 2 giai đoạn: Giai
đoạn thấp – CNXH và giai đoạn cao – CNCS.
+ Giai đoạn thấp (CNXH) xây dựng GCVS thành giai cấp thống trị giành lấy
dân chủ (chính quyền nhà nước) dùng nhà nước của GCVS tước đoạt mọi TLSX
chủ yếu trong tay GCTS tập trung vào tay nhà nước, mở đường cho LLSX phát
triển.
+ Giai đoạn cao (CSCN): Do những kết quả của cuộc cách mạng XHCN,
những cơ sở kinh tế xã hội cho sự tồn tại của nhà nước không còn nữa, nhà nước tự
tiêu vong. Cộng đồng xã hội mới được xây dựng trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của xã hội.
Mục đích chung của cả hai giai đoạn là tạo điều kiện để phát huy mọi năng
lực không của con người và thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu ngày

càng cao của con người. Phân biệt ranh giới giữa hai giai đoạn nói trên có ý nghĩa
hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Kinh nghiệm cho thấy cả trong hoạt
động về lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn không nên có sự lẫn lộn giữa hai giai
đoạn đó không nên dùng ý chí đơn thuần hay nhiệt tình cách mạng để đốt cháy giai
đoạn.
Ví dụ như: Trong giai đoạn xã hội XHCN. Khi mà của cải vật chất xã
hội chưa thật dồi dào, trình độ tự giác của con người trong lao động và hưởng thụ
chưa cao, nếu vội xoá bỏ nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, áp dụng nguyên
tắc phân phối CSCN (kể cả bao cấp tràn lan cũng là biểu hiện của phân phối CSCN
làm cho nền kinh tế, xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng, trí tuệ kém hiệu quả.
Hai là, giữa xã hội TBCN và XHCN là một thời kỳ quá độ từ xã hội nọ
sang xã hội kia.
Xã hội của thời kỳ quá độ đó là xã hội vừa thoát khỏi xã hội tư bản do đó
nó là một xã hội xét về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần… còn mang
6
nhiều dấu vết của xã hội cũ. Đó là một xã hội chưa phát triển trên cơ sở của
chính nó, chính vì vậy thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Công cụ thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính cách
mạng của GCCN.
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ để cho CNXH lọt lòng từ xã hội cũ mà ra…
tức là, để loại bỏ dần cái cũ, xây dựng và củng cố dần cái mới. Đó cũng là thời kỳ
tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần để hình thành xã hội mới cao hơn xã hội tư
bản.
*Tư tưởng của Lênin:
Lênin đã cụ thể hoá và làm phong phú thêm tư tưởng của Mác về 2 giai đoạn
của HTKT CSCN.
Trong các tác phẩm của mình trên cơ sở diễn đạt các tư tưởng của Mác
khi xác định vị trí của thời kỳ quá độ trong quá trình hình thành và phát triển của
hình thái kinh tế xã hội CSCN Lênin viết:
- Những cơn đau đẻ kéo dài (tức là TKQĐ).

- Giai đoạn đầu của xã hội CSCN. ( “giai đoạn thấp” là XH –XHCN hay
CNXH)
- Giai đoạn cao của xã hội CSCN. (“giai đoạn cao” là XHCSCN hay
CNCS“)
Lênin đã phát triển lý luận của Mác về sự quá độ từ CNTB lên CNXH và
làm rõ hơn vấn đề quá độ từ xã hội tiền tư bản đi lên CNXH. Lênin đã chỉ ra các
kiểu quá độ đặc biệt của các nước đã qua CNTB ở mức trung bình và “quá độ bỏ
qua giai đoạn phát triển TBCN” của nhiều nước vốn từ nước nông nghiệp lạc
hậu – các nước “tiền tư bản”… lên CNXH. Đó là kiểu quá độ đặc biệt (tất nhiên
sẽ khó khăn, phức tạp, lâu dài)
Lênin cũng chỉ ra điều kiện “quá độ bỏ qua”
7
+ Có ĐCS lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, có đường lối xây dựng
và bảo vệ đất nước theo mục tiêu XHCN.
+ Giai cấp vô sản đó phải giành được chính quyền. Tận dụng được thành
quả của Cách mạng.
+ Phải xây đựng được khối đoàn kết liên minh công-nông vững chắc.
Trong điều kiện lich sử mới được hình thành sau cách mạng tháng 10 Nga vĩ
đại. Lênin đã khẳng định với sự giúp đỡ của các nước vô sản tiên tiến, các nước lạc
hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định tiến
tới CNCS không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
Do đó, ở các nước “quá độ bỏ qua” dù là “ quá độ rút ngắn” thì cũng
không thể chủ quan nóng vội, “đốt cháy giai đoạn”… mà phải vận dụng đúng
đắn những quy luật khách quan, những tiền đề và những điều kiện cụ thể…để
giành thắng lợi từng bước, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tóm lại, cả theo Mác - Ăngghen, Lênin khi phân chia HTKT – XH CSCN
đều nói đến các giai đoạn: TKQĐ, CNXH, CNCS; HTKT – XH CSCN đã bắt đầu
từ TKQĐ cho đến khi xây dựng xong giai đoạn cao của xã hội cộng sản, trong đó
xã hội XHCN được tạo ra sau khi kết thúc TKQĐ lên CNXH.
1. THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:

a. Khái niệm TKQĐ lên CNXH:
Là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội,
bắt đầu từ khi GCCN và nhân dân lao động giành được chính quyền Nhà nước cho
đến khi tạo ra được những cơ sở của CNXH trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã hội
Để chuyển từ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà
chủ nghĩa xã hội phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó, cần trải qua một
thời kỳ quá độ nhất định, là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các
mặt của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình
8
thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ
được thực hiện. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa
trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng
trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc
lột và bất công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần
phải có thời kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ
cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỷ thuật nhất
định cho chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ
nghĩa tư bản, cần phải có thời gian xây dựng và cải tạo quan hệ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn
phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian để giai cấp công nhân có thể làm quen với
những việc đó.
VD: Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường
phát triển của các nước không phải từ nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa sẵn có mà
từ nền sản xuất lạc hậu, quy mô nhỏ là chủ yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời
kỳ mà nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng với giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đảm đương nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương
ứng làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xã hội.
9
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chỉ có
nghĩa là trong lịch sử nước ta sẽ không có một giai đoạn nào trong đó giai cấp tư
sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị
trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng để tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nhà nước cách mạng phải giải quyết những vấn đề phức tạp, trong đó
có nhiều vấn đề mà giai cấp tư sản đã từng làm ở những nước đã trải qua chủ nghĩa
tư bản, như chuyển nền kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa, tích lũy vốn, hợp tác
lao động, cách mạng kỹ thuật và công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, ứng dụng
công nghệ mới, hoàn thiện quản lý kinh tế - xã hội tham gia vào quá trình trên có
nhiều thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư bản tư nhân, được phát triển ở mọi lĩnh
vực mà nhà nước không cấm.
Do đó, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là chọn con đường
phát triển "rút ngắn" lên CNXH. Về mặt chính trị, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là bỏ qua việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng
TBCN. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan
hệ sản xuất TBCN, nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
c. Đặc điểm, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ
đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống
nhất vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị,
kinh tế, văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trên lĩnh vực kinh tế: là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế có nhiều thành phần (VD: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
10
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước), được xác lập trên
cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu (VD: sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp), về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh
tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác
nhau (VD: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối ngoài
thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi khác).
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề.
Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển
như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy việc mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu.
Nước ta có điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế: Nguồn lao động dồi dào,
cần cù, thông minh; nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lý thuận; cơ sở vật chất –
kỷ thuật đã được xây dựng.
Đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là kinh tế nhiều thành phần.
Trên lĩnh vực chính trị: do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa
dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng
lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai cấp, tầng lớp này
vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ
phận có trình độ, ý thức khác nhau, do đó ý thức chính trị của các bộ phận cũng có
sự khác nhau.
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
11

Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của
lịch sử, xu thế phát triển của thời đại. Con đường tiến lên XHCN của Việt Nam là
bỏ qua thời kỳ chủ nghĩa tư bản bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa mới tốt đẹp
hơn.
Vì lịch sử thế giới đã có nhiều trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã
hội lỗi thời để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn (tiêu biểu là nước Nga)
và Việt Nam là một trường hợp đặc biệt nhưng vẫn là một hiện tượng phù hợp với
quy luật phát triển lịch sử.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa Việt Nam phát triển theo con đường chủ nghĩa
xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm
của cách mạng Việt Nam, đặc điểm tình hình Việt Nam: Chính trị, Kinh tế, Xã hội,
Tư tưởng – văn hóa.
Cách mạng dân tộc, dân chủ diễn ra với mục tiêu dành độc lập, tự do… Tạo
tiền đề làm cho dân lao động thoát khỏi cảnh bần cùng, sống một đời hạnh phúc.
Dẫn đến cách mạng XHCN là sự tiếp tục hợp logic của cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ.
Quá độ lên XHCN là xu hướng khách quan của loài người nên cuộc cách
mạng được ủng hộ rất lớn. Trước khi đổi mới, tình hình chính trị nước ta cực kì
căng thẳng. Quan hệ Việt Nam – Campuchia, Việt Nam – Trung Quốc, Mỹ bao vây
cô lập, Liên Xô đang trong thời gian trì trệ.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội: là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn
hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin giữ vai
trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông…
V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm,
nguy hiểm hơn cả bọn phản cách mạng công khai. Trên lĩnh vực văn hóa cùng tồn
tại văn hóa củ và văn hóa mới, và chúng thường xuyên đấu tranh nhau.
12
Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn ra cuộc
đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và các
thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân

lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân
đã cầm quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh với
những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư
tưởng, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Tồn tại nhiều tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập nhau.
Các dân tộc đoàn kết bình đẳng cùng tiến bộ, có quan hệ hợp tác với các nước trên
thế giới.
Tương ứng với kinh tế nhiều thành phần với một cơ cấu phức tạp bao gồm
nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội; giữa các giai cấp vừa có sự thống nhất vừa có sự
đối kháng nhau về lợi ích cơ bản.
d. Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên
CNXH:
Trong lĩnh vực kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải
sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất
cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền
kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này phải tuân
thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bước phát triển tất yếu
là phải cải tạo quan hệ sản xuất cũ, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản xuất
tư hữu xã hội chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
13
nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này đòi hỏi
phải tuân thủ quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử, bối cảnh
cụ thể của mỗi nước để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích hợp.
Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống
phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt
động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ chức chính
trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây
dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử.
VD: Trong hoàn cảnh mới Đảng và Nhà nước đang ra sức bảo vệ thành quả
Cách mạng trước các thế lực thù địch, âm mưu diễn biến hòa bình.
Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng
văn hóa xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên truyền
phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
toàn xã hội: khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với
tiến trình xây dựng CNXH; xây dựng nền văn hóa mới XHCN đậm đà bản sắc dân
tộc, tiếp thu những giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
VD: Cần loại bỏ các hình thức mê tín dị đoan. Hiện nay, trong một xã hội
hiện đại, không ngừng phát triển vẫn tồn tại các hoạt động mê tín dị đoan gây ảnh
hưởng xấu tới tư tưởng văn hóa, đe dọa sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Điển
hình là trường hợp của bé Y Nôn. Cuối năm 2013, bỗng nhiên da toàn thân Y Nôn
bị mọng nước, lở loét nên phải nghỉ học. Sau đó, giáo viên phát hiện rồi báo chính
quyền địa phương vận động gia đình đem cháu đến Trung tâm y tế huyện Kon
Plông để điều trị. Tại đây, bé Y Nôn được chẩn đoán là viêm da nhiễm trùng toàn
thân. Tuy nhiên, cha mẹ nghe lời thầy mo trong làng cho rằng bé Y Nôn bị “ma
14
rừng” bắt tội nên ôm con trốn bệnh viện để về nhà cúng. Cha mẹ cúng làm phép
mà bệnh không thuyên giảm nên đem em bỏ ngoài rìa làng
Ngày 27/2, bác sĩ Nguyễn Thanh Tân, Giám đốc Bệnh viện Phong - Da liễu
Trung ương Quy Hòa (TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) cho biết, tập thể bác sĩ bệnh
viện đã nỗ lực cấp cứu thành công bệnh nhi Y Nôn (11 tuổi, ở làng Đăk Sú, xã Đăk
Long, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) bị hoại tử thượng bì nhiễm độc. Hiện sức
khỏe bệnh nhân tạm thời qua cơn nguy kịch nhưng vẫn đang được theo dõi chăm
sóc đặc biệt.
Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại; từng bước khắc
phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư trong xã
hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa
người với người.
Tóm lại, Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ
lịch sử có điểm riêng với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển kinh tế - xã hội Cộng
sản chủ nghĩa chỉ có thể được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
2. XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:
Là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội XHCN là nền đại công
nghiệp.
Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản
ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Nếu công cụ thủ công là
đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền
đại công nghiệp cơ khí đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản.
15
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, cao hơn chủ
nghĩa tư bản thì cơ sở vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp
có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước
tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển cao là
điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối
với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Cả mặt thực tế, cả lôgíc - lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã
hội chủ nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết
những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là
giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản

xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa khi nó hoàn
thiện phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát
triển đã có lực lượng sản xuất cao (VD: Mỹ, Nhật, Pháp, Đức, ) thì lên xã hội xã
hội chủ nghĩa giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ phải trải qua một cuộc cách mạng
chính trị thành công. Khi đó chính trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao là
một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa
xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt
Nam và các nước khác) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ
nghĩa xã hội. Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba đang đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn
và ngày càng vững chắc hơn.
16
Thứ hai, xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
Trong giai đoạn XHCN giai cấp vô sản sẽ sử dụng quyền lực thống trị của
mình để đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp TB. Các TLSX từng bước sẽ tập
trung vào tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Đến giai đoạn XHCN thì
QHSX XHCN mới được xác lập một cách đầy đủ nhất. TLSX chỉ còn 2 hình thức
sở hữu là sở hữu toàn dân và tập thể, người lao động tự làm chủ TLSX nên không
còn tình trạng bóc lột.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội
không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất (còn các chế độ tư hữu khác: chế độ tư hữu chủ nô, phong
kiến, xét trên toàn cầu thì đã bị chủ nghĩa tư bản xoá bỏ trước đó rồi). Bởi vì chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đại
đa số nhân dân lao động, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập
đoàn tư bản lũng đoạn và giai cấp thống trị xã hội.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều
giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế sản xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ
thể như thuê mướn lao động cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột những cá
nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả
một chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và
Đảng Cộng sản Nga, sau một thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến"
(trưng thu lương thực do yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ
chính sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời
kỳ thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP) với kinh tế hàng hoá 5 thành phần
(kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước và kinh
17
tế có vốn đầu tư nước ngoài) và tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường nhiều loại
sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã
hội. Việc xoá bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy
ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan
điểm của V.I. Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng đến thời kỳ
XHCN sẽ phải xóa bỏ hoàn toàn tư hữu để xây dựng xã hội không áp bức, bóc lột.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ
chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự
giác của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và
mục đích đó mà các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học
cho đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới
của bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của Đảng Cộng sản,
đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ
luật lao động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những
quy định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ
luật tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của
mình trước xã hội, trước mọi công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương

nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như
thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn thiện chủ nghĩa xã hội.
Đương nhiên để có được kiểu tổ chức lao động như vậy cần đẩy mạnh tuyên
truyền, vận động kết hợp với đấu tranh, khắc phục tư tưởng của những nhà sản
xuất nhỏ.
Thứ tư, Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động - nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
18
Trong xã hội XHCN, nền SX đã phát triển nhưng vẫn còn nhiều hạn chế
nhất định, vì vậy thực hiện phân phối theo LĐ là tất yếu. Trong quá trình lao động
cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu
dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động của họ đã
tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội. Bằng
thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng
trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông, Nguyên tắc phân phối này
là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở
giai đoạn này.
Thứ năm, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân,
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của
nhân dân
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác
định rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Thực
chất nhà nước đó là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra.
Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân
dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội.
Nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước, theo V.I. Lênin, nhà
nước chuyên chính vô sản (hay nhà nước xã hội chủ nghĩa) không còn nguyên nghĩa
như nhà nước của chủ nghĩa tư bản, mà là "nhà nước nửa nhà nước", với tính tự giác,
tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính

mình ngày càng rõ hơn.
Nhà nước mang bản chất của GCCN vì nhà nước XHCN là cơ quan quyền
lực tập trung của GCCN, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng CS, bảo vệ lợi ích GCCN
và nhân dân LĐ; trấn áp những thế lực phản động.
19
Nhà nước tập hợp nhiều tầng lớp ND nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của
toàn thể nhân dân. Nhà nước XHCN tạo mọi điều kiện tốt nhất để toàn thể nhân
dân tham gia vào công việc nhà nước với tinh thần tự giác, trách nhiệm cao. Quyền
tự do dân chủ ngày càng được đề cao để xứng đáng là nhà nước của dân, do dân và
vì nhân dân.
GCCN có những lợi ích tương đồng, gắn liền với lợi ích của dân tộc sẽ đại
diện chân chính cho dân tộc để đấu tranh, bảo vệ lợi ích dân tộc, phát huy tính dân
tộc.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con người
thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo
những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về
chính trị suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật
chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh tế, mức sống vật
chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã
không còn chế độ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ xã hội. Đây là
những tiền đề chính trị, kinh tế khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước
thực hiện việc giải phóng con người và phát triển con người toàn diện. Không có
những tiền đề cơ bản đó không thể giải phóng con người, không thực hiện được
công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh xã hội Nói bình đẳng trong chủ nghĩa
xã hội, là nói trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước,
trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù họ
ở thành phần kinh tế nào ) trước pháp luật chung của nhà nước; bình đẳng nam, nữ,
bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, v.v
Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư

liệu sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội thực hiện xóa bỏ đối
kháng giai cấp, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Đây là một quá trình lâu dài
20
và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh
tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…Tuy nhiên, trong giai đoạn xã hội XHCN, sự bình
đẳng được xác lập trong điều kiện xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước do đó,
chưa thể có “bình đẳng thực sự”.
Những đặc trưng trên đây là những nét chung nhất của chế độ xã hội xã hội
chủ nghĩa, là tiêu chí phân biệt xã hội chủ nghĩa với chế độ xã hội khác. Đồng thời,
những đặc trưng ấy còn là mục tiêu phấn đấu của tất cả các quốc gia dân tộc đi
theo con đừng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Mác - Lênin hiện nay. Tuy nhiên,
tùy điều kiện lịch sử, đặc điểm, mức độ trình độ của mổi quốc gia có những đặc
trưng khác nhau.
VD: Đặc trưng cơ bản của CNXH ở Viêt Nam.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng nhằm những mục tiêu cơ
bản:
Mục tiêu tổng quát, là “Xây đựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù
hợp, làm cho nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục tiêu cụ thể: thực hiện đầy đủ 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội như Đại
Hội X đã nêu.
Một, Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Hai, Do dân làm chủ.
Ba, Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp.
Bốn, Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
21
Năm, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm

no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
Sáu, Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết tương trợ
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Bảy, Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Tám, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
3. GIAI ĐOẠN CAO CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ
NGHĨA:
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự
báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã
hội tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động
của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu. Trong tác phẩm
“Phê phán Cương lĩnh Gôta” C.Mác đã viết: “Khi nào lao động trở thành không
những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc
nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức
sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra
dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của
pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu”.
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có điều
kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn sự
khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc
đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế mới có thể có và được
thực hiện. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp
22
tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho rằng, khi xã
hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân
chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng
không còn, nhà nước luật pháp tự tiêu vong, pháp luật trở thành phong tục, tập

quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện. Tới giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn
toàn, chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện
phát triển toàn diện năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội
V.I.Lênin cho rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc, mà là một quá
trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời
nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy
vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản”.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình
thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa, đã cho chúng ta những bài học đúng đắn sau
đây:
Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình
thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự
xuất hiện của giai đoạn này. Sự xuất hiện của HTKTXH CSCN là một tất yếu
khách quan. Mọi ý muốn thực hiện giai đoạn cao của CSCN đều không thực tiễn.
Ví dụ: sau khi giành được độc lập, nước ta đã đề ra mục tiêu xây dựng ngay
chế dộ CSCN và thực tế không thành công nên phải tiến hành cải cách năm 1986.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực lượng sản
xuất, cơ cấu lại tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục tinh thần tự giác của con
người
23
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ
thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn
cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn
còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai
cấp tư sản”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế
giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn

nguyên giá trị.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra các dự báo và luận giải
về sự ra đời, hình thái kinh tế xã hội Cộng chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật
phát triển khách quan của xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vân động của
xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác
động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định, từ
đó tạo nên tính phong phú đa dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng
đồng người cũng như của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển
của lịch sử không bao giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những
bước thăng trầm với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước
khủng hoảng và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện
chứng của lịch sử. Từ đó, C.Mác đưa ra kết luận: “tôi coi sự phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
IV. KẾT LUẬN:
Mặc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông
Âu, nhưng đó chỉ mang tính cục bộ do vận dụng chưa linh hoạt lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tế. Những tử tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn
nguyên giá trị. Hiện nay, chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục phát triển, đạt được nhiều
24
thành tựu, là đối trọng của chủ nghĩa tư bản và tất yếu sẽ thay thế hình thái kinh tế
xã hội tư bản theo dự đoán của các nhà sang lập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa học để ta phân
tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu của định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình hình
khủng hoảng kinh tế xã hội, đổi mới theo định hướng của xã hội vừa phù hợp với
xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như
vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên giá trị
khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực sự khoa học để
phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước hiện đại ở Việt Nam.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu đối với tất cả nhân loại. Chúng ta

phải nhận thấy rằng con đường mà chúng ta đang đi tới là một con đường gian lao,
thử thách, đòi hỏi toàn Đảng - toàn dân - toàn quân ta phải cùng đồng lòng, chung
sức và cùng cố gắng, thì mới có thể thành công. Chúng ta bước được tới đỉnh vinh
quang hay không, có bước được đến CNXH - CNCS hay không, điều đó còn phải
tuỳ thuộc vào tất cả mọi người có cố gắng, nỗ lực hay không. Tất cả chúng ta sẽ
cùng cố gắng để có thể thực hiện được ước mơ và nguyện vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân, bởi quá độ được đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ tìm được thấy
hạnh phúc, ấm no và công bằng, chúng ta sẽ thấy được ánh sáng của văn minh nhân
loại, cái mà bấy lâu nay chúng ta tìm kiếm nó.
Câu hỏi cuối bài :
Câu 1: Tại sao lựa chọn con đường quá độ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN đó là con đường hợp lý, đúng đắn đối với nước ta ?
Gợi ý trả lời:
Sự lựa chọn này phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với nguyện vọng
của cộng đồng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động của nước ta, phù hợp
25

×