Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

VTiểu Luận Tìm hiểu sự tác động của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh Trung học phổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.6 KB, 33 trang )

TL: Giáo Dục Học 1
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Mổi con người sinh ra và lớn lên ai cũng cần một không gian nhất định để
phục vụ cho các hoạt động sống như sinh hoạt, vui chơi, nghỉ ngơi, sản xuất…
của mình. Không gian đó chính là môi trường xung quanh chúng ta_nơi chứa
đựng toàn bộ những yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội ảnh hưởng đến đời sống và
nhân cách con người.
Ở mổi giai đoạn phát triển của con người thì môi trường tác động đến nhân
cách thông qua những giá trị vật chất và giá trị tinh thần khác nhau. Lứa tuổi
chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của môi trường đến nhân cách là lứa tuổi học
sinh Trung học phổ thông. Đây là giai đoạn mà các em đã phát triển tương đối
về mặt tâm lý, đang trong thời kỳ tích lũy kiến thức, tu dưỡng đạo đức để chuẩn
bị cho cuộc sống trưởng thành, phần lớn các em đã biết định hướng cho tương
lai của mình, biết làm chủ suy nghĩ và hành động của mình.
Môi trường xung quanh cho các em những điều kiện tốt nhất để phát triển,
để hòa nhập và chung sống với cộng đồng, với xã hội. Ngay từ khi còn bé đã
biết giao lưu với người lớn, với môi trường tự nhiên và xã hội dần dần nhân
cách các em được hoàn thiện. Việc quan tâm đến các em ở lứa tuổi Trung học
phổ thông là trách nhiệm không chỉ của gia đình, nhà trường mà còn của toàn xã
hội.
Trong sự phát triển nguồn nhân lực cho đất nước đang đổi mới hiện nay, rõ
ràng nổi lên yêu cầu cấp bách là nâng cao chất lượng người lao động, đào tạo
nhân tài, đào tạo con người có nhân cách phù hợp với xã hội mới. Các em là
những con người mới, con người của thời đại, là những chủ nhân tương lai của
đất nước… vì vậy chúng ta cần tạo cho các em một môi trường tốt nhất cho các
em phát triển. Tuy nhiên, trước sự phát triển của cuộc sống hiện đại, những tác
động tiêu cực của xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của các em cũng
là một điều đáng lo ngại.
Xuất phát từ thực thực tế đó nên tôi chọn đề tài “Tìm hiểu sự tác động của
môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh Trung học


phổ thông” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về những tác động của môi trường đến sự hình thành và
phát triển nhân cách học sinh Trung học phổ thông. Từ đó đề xuất một số giải
pháp để tạo một môi trường tốt cho các em hoàn thiện nhân cách.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở khoa học để khảo sát, đánh giá sự tác động của các yếu tố
môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh Trung học phổ
thông.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 1
TL: Giáo Dục Học 1
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiển của yếu tố môi trường, đề tài đề suất
các biện pháp góp phần vào việc hình thành nhân cách học sinh Trung học phổ
thông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh Trung học phổ thông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp tìm kiếm và tổng hợp thông tin
6. Đóng góp của đề tài
Thông qua đề tài này, các sinh viên trong ngành sư phạm có thể biết rõ hơn
về đối tượng giảng dạy trong tương lai của mình để truyền đạt kiến thức tốt và
giúp các em phát triển.
7. Kết cấu bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tài liệu tham khảo, phần
nội dung gồm có 3 chương:
-Chương 1: Cơ sở lý thuyết và lý luận
-Chương 2: Môi trường tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách học

sinh Trung học phổ thông
-Chương 3: Những đề xuất nhằm giúp học sinh Trung học phổ thông hoàn thiện
nhân cách
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 2
TL: Giáo Dục Học 1
B. Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và lý luận
1.1. Nhân cách và sự phát triển nhân cách
1.1.1. Khái niệm nhân cách
-Nhân cách là toàn thể những thuộc tính đặc biệt mà một cá thể có được có
được trong hệ thống các quan hệ xã hội, trên cơ sở hoạt động và giao lưu nhằm
chiếm lĩnh các giá trị vật chất và tinh thần. Những thuộc tính đó bao hàm các
thuộc tính về trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể chất…
-Nhân cách là tổ hợp các thái độ, những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý
riêng trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ
vật do loài người sáng tạo, với xã hội và bản thân.
-Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được đánh giá từ
quan hệ qua lại của người đó với người khác, với tập thể, với xã hội và cả thế
giới xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại, tương lai. Nó
là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người
tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mổi con người, thể hiện những phẩm chất
bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc. Nhà tâm lý học Xô
Viết, X.L.Rubinstein cho rằng: “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính
đặc biệt không lập lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của
mình với những người xung quanh một cách có ý thức”.
Theo Bách khoa Toàn thư Liên Xô, nhân cách được thể hiện ở hai mặt: thứ
nhất là con người với tư cách là chủ thể các mối quan hệ và hoạt động có ý thức,
thứ hai là một hệ thống giá trị có ý nghĩa xã hội đặc trưng cho cá thể trở thành
một nhân cách.
Do cấu trúc nhân cách rất phức hợp nên một số nhà nghiên cứu giáo dục

thường nhấn mạnh đến các thuộc tính liên cá nhân (phản ánh mối quan hệ đa
dạng, phong phú của cá nhân với cộng đồng, xã hội) các thuộc tính nội cá nhân
(phản ánh những nét tính cách tính cách riêng, độc đáo trong cuộc sống nội
tâm); các thuộc tính siêu cá nhân (phản ánh những phẩm chất, năng lực sáng
chói có ý nghĩa xã hội, trở thành một nhân cách bất tử).
Mặt dù các quan điểm, định nghĩa trên có khác nhau, xuất phát từ mục đích
nghiên cứu riêng, nhưng nhìn chung có sự thống nhất khi xem xét nhân cách, đó
là:
-Những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với cá nhân và xã hội được
hình thành bằng hai con đường chủ yếu là hoạt động và giao lưu.
-Mổi cá nhân có một nhân cách riêng bao gồm hai mặt: Mặt tự nhiên và
mặt xã hội, trong đó mặt xã hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù
về nhân cách mổi con người.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 3
TL: Giáo Dục Học 1
-Nhân cách là tổng hợp những phẩm chất, năng lực không thành bất biến
của cá nhân mà nó thường xuyên giữ gìn, bảo vệ mà còn phải rèn luyện, bồi
dưỡng để nhân cách ngày càng hoàn thiên hơn.
1.1.2. Khái niệm sự phát triển nhân cách
Con người sinh ra chưa có nhân cách. Chính trong quá trình sống, hoạt
động, giao lưu… mà con người tự hình thành và phát triển nhân cách của mình
bằng con đường xã hội: Lĩnh hội các di sản văn hóa vật chất và tinh thần của
loài người.
1.1.2.1. Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển được
hiểu là:
-Là sự tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
-Sự phủ định cái cũ và xuất hiện cái mới.
-Động lực của sự phát triển là giải quyết các mâu thuẩn bên trong của sự
vật hiện tượng.
1.1.2.2. Sự phát triển nhân cách khác với sự phát triển cá nhân

Sự phát triển cá nhân bao gồm các mặt phát triển sau:
-Sự phát triển về mặt thể chất: Đó là sự tăng trưởng về chiều cao, trọng
lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các chức năng giác quan, sự phối hợp các chức
năng vận động của cơ thể.
-Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong quá trình
nhận thức, xúc cảm, tình cảm, nhu cầu, ý chí…
-Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các
mối quan hệ với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia
vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
Sự phát triển cá nhân là quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh thể chất và
tinh thần, các sức mạnh bản chất con người. Vì nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm
lý của mổi người nên sự phát triển nhân cách phải được hiểu sự phát triển mặt
tâm lý xã hội của con người.
Trong các sách giáo dục học trước đây, một số tác giả có sự hiểu biết lẫn lộn
giữa sự phát triển nhân cách và sự phát triển cá nhân. Nếu quan niệm như vậy
thì có thể hiểu khái niệm cá nhân là khái niệm nhân cách. Nhưng thực tế, hai
khái niệm này không phải là một.
Sự phát triển nhân cách là quá trình biến đổi không chỉ về lượng mà cả
những biến đổi về chất trong mổi nhân cách. Đó là quá trình nãy sinh cái mới và
hủy diệt cái cũ.
1.1.2.3. Sự hình thành và phát triển nhân cách chịu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 4
TL: Giáo Dục Học 1
Nhân cách hình thành và phát triển chịu sự tác động của nhiều yếu tố
nhưng giữ vai trò chủ đạo trong đó là yếu tố là yếu tố sinh thể, yếu tố môi
trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
Yếu tố sinh thể
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng
xương, bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã

hội cụ thể. Ngay từ lúc trẻ em ra đời, mỗi đứa trẻ đã có những đặc điểm hình
thái – sinh lý của một con người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền.
Những thuộc tính sinh học có ngay từ lúc đứa trẻ ra đời được gọi là những thuộc
tính bẩm sinh. Những đặc điểm, những thuộc tính sinh học của cha, của mẹ
được ghi lại trong hệ thống gen truyền lại cho con cái và được gọi là di truyền.
-Yếu tố sinh thể bao gồm các đặc điểm hình thể như cấu trúc giải phẫu sinh
lý, đặc điểm cơ thể, đặc điểm của hệ thần kinh và các tư chất.
Những yếu tố sinh học này có vai trò như thế nào trong sự hình thành và
phát triển nhân cách ? Theo quan điểm của tâm lý học Mácxít thì di truyền với
các đặc điểm sinh học nêu trên không quyết định chiều hướng cũng như giới hạn
phát triển của nhân cách con người. Mặc dù những đặc điểm sinh học có thể ảnh
hưởng mạnh đến quá trình hình thành tài năng, xúc cảm, sức khỏe thể
chất, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển con người nhưng nó chỉ đóng
vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân cách.
. Yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và
xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có
thể phân thành hai lại là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
-Nhân tố tự nhiên: bao gồm các điều kiện tự nhiên_ hệ sinh thái phục vụ
cho các hoạt động sống của con người. Hoàn cảnh địa lý, nước, không khí đất
đai, động vật, thực vật, khí hậu…
Vai trò: Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong
một môi trường nhất định. Hoàn cảnh tự nhiên vốn có sự tác động tới sự hình
thành và phát triển nhân cách của con người, chính hoàn cảnh sống đã được in
đậm dấu ấn trong tâm lý thông qua khâu trung gian là phương thức sống.
-Nhân tố xã hội: Bao gồm cả một hệ thống quan hệ chính trị, kinh tế, xã
hội-lịch sử, văn hóa, giáo dục được thiết lập. Con người hòa nhập với xã hội
thông qua nhân tố này.
Vai trò: Nhân tố xã hội có có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và
phát triển nhân cách. Rõ ràng là không có sự tiếp xúc với con người thì cá nhân

lớn lên trong trạng thái động vật, không thể trở thành một con người, một nhân
cách. Nhân cách đó là một sản phẩm của xã hội.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 5
TL: Giáo Dục Học 1
Yếu tố giáo dục
Giáo dục là những tác động tự giác (có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch,
có sự chuẩn bị một lực lượng nhất định có năng lực, có phẩm chất ) của thế hệ
trước đến thế hệ sau, nhằm hình thành ở thế hệ sau những phẩm chất, những
năng lực,…theo yêu cầu của xã hội.
Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát
triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.
Vai trò: Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách, thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những
kinh nghiệm xã hội - lịch sử đã được kết tinh trong các sản phẩm văn hóa vật
chất và tinh thần của nhân loại. Giáo dục có thể đem lại cho con người những
cái mà các yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem
lại được và nó có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối
sự hình thành và phát triển nhân cách như các yếu tố sinh thể (bẩm sinh di
truyển), yếu tố hoàn cảnh sống, yếu tố xã hội. Giáo dục có thể bù đắp cho những
thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh – di truyền không bình thường, hoàn
cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên, giáo dục uốn nắn những sai lệch của
nhân cách về một mặt nào đó so với các chuẩn mực, do tác động tự phát của môi
trường gây nên và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của xã
hội. giáo dục có thể đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục có thể “hoạch định
nhân cách trong tương lai” để tác động hình thành và phát triển phù hợp với sự
phát triển của xã hội.
Yếu tố hoạt động cá nhân
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người
là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng và được thực

hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
Vì vậy, mỗi loại hoạt động có những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con
người những phẩm chất tâm lý nhất định. Quá trình tham gia hoạt động làm cho
con người hình thành những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của họ được hình
thành và phát triển.
Vai trò: Hoạt động của cá nhân quyết định trực tiếp đến quá trình hình
thành và phát triển nhân cách con người, thông qua quá trình đối tượng hóa và
chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Hoạt động
để lại những dấu ấn lên chính con người, tâm lý được hình thành và phát triển
trong hoạt động và bằng hoạt động. Mỗi một dạng hoạt động đều đề ra cho con
người những yêu cầu nhất định, đòi hỏi con người thực hiện nó và tạo điều kiện
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 6
TL: Giáo Dục Học 1
cho con người thực hiện các yêu cầu đó nên mổi cá nhân cần rèn luyện phát huy
những tài năng của bản thân.
Mối quan hệ giữa hoạt động và sự phát triển nhân cách là mối quan hệ biện
chứng. Tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung của hoạt động khác nhau, mà hoạt
động có thể tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách ở những mức độ khác
nhau. Nói chung, hoạt động càng phong phú, phức tạp sẽ càng thuận lợi và tạo
điều kiện cho cá nhân phát triển hơn. Mặt khác, cá nhân càng phát triển thì càng
có thể tham gia vào các hoạt động phức tạp hơn.
*Các nhân tố này tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách, không
phải có giá trị song song hoặc bằng nhau hoặc đối lập nhau. Vì vậy, khi xem xét
mối quan hệ giữa các yếu tố thúc đẩy đến sự hình thành và phát triển nhân cách
cần phải thật sự khách quan, đúng đắn và khoa học.
1.1.3. Đặc điểm phát triển nhân cách học sinh Trung học phổ thông
1.1.3.1. Sự phát triển của tự ý thức
Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của
học sinh trung học phổ thông, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
tâm lý của lứa tuổi này.

Sự tự ý thức của học sinh THPT được biểu hiện ở nhu cầu tìm hiểu và
tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo các chuẩn mực đạo đức
của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống. Điều này khiến học
sinh quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và
năng lực riêng, cũng như tự đánh giá khả năng của mình.
Giai đoạn này, học sinh không chỉ tự ý thức về cái tôi của mình mà
còn nhận thức vị trí của mình trong tương lai. Xuất hiện khuynh hướng
phân tích và tự đánh giá bản thân mình một cách độc lập. Học sinh THPT
có nguyện vọng thể hiện cá tính của mình trước mọi người một cách độc
đáo, tìm cách đề người khác quan tâm đến mình hoặc làm điều gì đó nổi
bật.
1.1.3.2. Sự hình thành thế giới quan
Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý học sinh Trung học
phổ thông vì các em đang có nhu cầu khám phá, tìm hiểu về thế giới. Việc hình
thành thế giới quan dựa trên cơ sở những tri thức mà học sinh được học ở trường
về
những thói quen đạo đức, thấy được cái đẹp, cái tốt, xấu…dần dần ý thức
và quy vào các hình thức, tiêu chuẩn nguyên tắc hành vi xác định theo
một hệ thống hoàn chỉnh.
Học sinh THPT đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết
xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng
ngày.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 7
TL: Giáo Dục Học 1
Những thay đổi trong vị thế xã hội, trình độ phát triển của tư duy lý luận và
hơn nữa một khối lượng tri thức lớn mang tính phương pháp luận về các quy
luật của tự nhiên và xã hội mà các em tiếp thu trong nhà trường đã giúp các em
thấy được mối liên hệ giữa các tri thức khác nhau, giữa các thành phần của thế
giới. Nhờ đó các em bắt đầu biết liên kết các tri thức riêng lẽ lại với nhau để tạo
nên một biểu tượng chung về thế giới cho mình. Đối với các em, biểu tượng

chung về thế giới có một ý nghĩa nhân cách rất rộng, nó gắn liền với nhu cầu tìm
kiếm một chỗ đứng riêng mình trong xã hội, tìm kiếm một hướng đi, một nghề
nghiệp, một dự định cho cuộc sống của chính các em sau này. Như vậy thế giới
quan tức là quan điểm về thế giới nói chung, về cơ sở của sự tồn tại về mối liên
hệ giữa con người với tự nhiên, về những định hướng giá trị cơ bản… được hình
thành.
1.1.3.3. Xu hướng đời và nghề nghiệp
Học sinh THPT đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội cho bản
thân trong tương lai và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Họ đã
nhận thức được rằng cuộc sống trong tương lai phụ thuộc vào chỗ mình
có biết lựa chọn nghề nghiệp một cách đúng đắn không.
1.1.3.4. Hoạt động giao tiếp
-Giao tiếp với người lớn:
Quan hệ với bạn bè và cha mẹ. Tình bạn là cảm tình quan trọng nhất ở
lứa tuổi THPT. Ở tuổi này giao tiếp với người lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi
chiếm vị trí nhớ. Điều này là do các em khát khao có nhưng quan hệ
bình đẳng trong cuộc sống. Giai đoạn này họ đã có nhu cầu sống tự lập:
tự lập về hành vi, tình cảm và đạo đức, giá trị. Mối quan hệ với cha mẹ
trong giai đoạn này trở nên phức tạp nhưng cũng dần bình đẳng hơn.
-Giao tiếp trong nhóm bạn:
Ở tuổi này, quan hệ với bạn bè được mở rộng và chiếm vị trí quan
trọng. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi phát triển mạnh mẽ.
Tình bạn trong giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng, học sinh giai đoạn
này có khát vọng tự khám phá bản thân mình nhưng vì chưa có khả năng
hiện thực hóa biểu tượng bản thân mình nên thanh niên muốn kiểm tra
mình bằng cách so so sánh với người khác. Chính tình bạn thân thiết giúp
họ đối chiếu được những trải nghiệm, ước mơ…
-Giao tiếp với bạn khác giới:
Ở tuổi học sinh THPT đã xuất hiện một loại tình cảm đặc biệt - tình
yêu nam nữ. Đây là trạng thái hoàn toàn mới trong đời sống tình cảm của

lứa tuổi này. Tuy nhiên tình cảm này chỉ mới dùng ở mức yêu đương bạn
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 8
TL: Giáo Dục Học 1
bè, do lứa tuổi này ít bộc lộ tình cảm của mình. Nhìn chung đây là một
vấn đề phức tạp nó đòi hỏi sự nghiên cứu từ nhiều phía.
-Đời sống tình cảm của học sinh THPT:
Đời sống tính cảm của lứa tuổi này rất đa dạng phong phú, mang tính
sâu sắc. Nó gắn liền với thế giới quan, lý tưởng, nghề nghiệp…Thời kỳ
này, các nhà tâm lý đã phân chia các loại người theo đặc điểm cảm xúc
của họ như: loại người đa cảm, loại người lạnh lùng, loại người dề gần… chúng
dần được hình thành bởi nhiều yếu tố bản thân và xã hội.
1.1.3.5. Sự hình thành cái tôi cá nhân
Vị thế xã hội của lứa tuổi thanh niên nói chung và lứa tuổi Trung học phổ
thông nói riêng có nhiều thay đổi so với lứa tuổi trước đó. Một mặt các quan hệ
xã hội của các em được mở rộng. Trong các quan hệ đó người lớn kể cả thầy cô
giáo và bố mẹ đều nhìn nhận các em như những người “chuẩn bị thành người
lớn” và đòi hỏi các em có các cách ứng xử phù hợp với vị thế của mình. Mặt
khác, khác với học sinh lớp dưới học sinh trung học phổ thông đứng trước một
thách thức quan trọng của cuộc sống: phải chuẩn bị lựa chọn cho mình một
hướng đi sau khi tốt nghiệp phổ thông, phải xây dựng cho mình một cuộc sống
độc lập trong xã hội… Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách
quan của cuộc sống dẫn đến làm xuất hiện ở lứa tuổi này những nhu cầu về hiểu
biết thế giới, hiểu biết xã hội và các chuẩn mực người với người, hiểu mình và
tự khẳng định mình trong xã hội…
Bước sang giai đoạn này các chức năng tâm lý của con người cũng có
nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các
nghiên cứu các tâm lý học cho rằng hoạt động tư duy của thanh niên trong giai
đoạn này rất tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh. Các em
có khả năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy
lí luận liện quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả năng khái quát, các

em có thể tự mình phát hiện ra những cái mới.Với các em điều quan trọng là
cách thức giải quyết các vấn đề được đặt ra chứ không phải loại vấn đề nào được
giải quyết. Các em có xu hướng đánh giá nhưng bạn bè thông minh và những
thầy cô có phương pháp dạy tích cực, tôn trọng nhũng suy nghĩ độc lập của các
bạn, phê phán sự gò ép, máy móc trong phương pháp sư phạm.
Nhiều nhà tâm lý học nhận thấy rằng khi đánh giá các em mà chỉ nêu lên
những đặc điểm mang tính nhất thời liên quan đến những hoàn cảnh cụ thể trong
các mối quan hệ bố mẹ hoặc thầy cô giáo, thì các em chú ý nhiều hơn đến những
phẩm chất nhân cách có tính bền vững như các đặc điểm trí tuệ, năng lực, tình
cảm, ý chí, thái độ đối với lao động, quan hệ với những người khác trong xã
hội… Từ chỗ nhìn nhận được những phẩm chất mang tính khái quát chung của
mọi người xung quanh dần dần các em sẽ phát hiện ra thế giới nội tâm của mình.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 9
TL: Giáo Dục Học 1
Các em cảm nhận được sự rung động của bản thân và hiểu rằng đó là “cái tôi”
của mình.
Biểu tượng về “cái tôi” trong giai đoạn này thường chưa thật rõ nét. Do đó
đánh giá về bản thân không ổn định và có tính mâu thuẩn, nhiều khi các em còn
nghi ngờ điều đó. Nhu cầu giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè đồng lứa
phát triển mạnh ở giai đoạn này đã thực hiện một chức năng quan trọng là giúp
các em dần hiểu mình rõ hơn, đánh giá bản thân chính xác hơn thông qua những
cuộc trao đổi thông tin, trao đổi đánh giá về các hiện tượng mà các em quan tâm.
Thông thường biểu hiện về cái tôi được hình thành theo hướng các thuộc
tính tâm lý của con người như một cá thể được nhận biết sớm hơn các thuộc tính
nhân cách. Các em rất nhạy cảm với những đặc điểm của hình thức thân thể, các
em so sánh mình với người khác qua các đặc điểm bên ngoài. Một hiện tượng
rất thường gặp là học sinh giai đoạn này thường bắt chước thầy cô giáo mà họ
yêu quý hay một người mẩu lý tưởng nào đó mà họ chọn cho mình từ cách ăn
mặc, cử chỉ, dáng đi. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo các đặc điểm nhân
cách như ý chí, tình cảm, trí tuệ, năng lực, mục đích sống… ngày càng ý nghĩa

tạo nên một hình ảnh “cái tôi” có chiều sâu, có hệ thống, chính xác và sống động
hơn.
Ý thức về cái tôi rõ ràng và đầy đủ hơn đã làm cho các em có khả năng lựa
chọn con đường tiếp theo, đặt ra vấn đề tự khẳng định và tìm kiếm vị trí cho
riêng mình trong cuộc sống chung.
1.2. Môi trường tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh
Trung học phổ thông
1.2.1. Khái niệm môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan
hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
-Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực
vật, đất, nước Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng
nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên
khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất
thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm
phong phú.
-Môi trường xã hội: là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định ở các cấp khác nhau như:
Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ
tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể, Môi trường xã
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 10
TL: Giáo Dục Học 1
hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên
sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người
khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm
tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc

sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo
1.2.2. Vai trò của môi trường trong sự hình thành và phát triển nhân cách
- Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường xã hội có tầm
quan trọng đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính
người cũng không thể phát triển được. Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh
bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội xung quanh cần thiết cho
hoạt động sống và phát triển của các em.
- Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong
một môi trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ,
phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó giúp các
em chiếm lĩnh được các kinh nghiệm để hình thành và phát triển nhân cách của
mình.
- Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái
độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và
năng lực, vào mức độ cá nhân tham gia cải biến môi trường. Nói về mối quan hệ
này, C.Mác đã viết : “Hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong chừng mực mà
con người đã sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Chương 2: Thực trạng môi trường tác động tới sự hình thành tới sự
hình thành và phát triển nhân cách học sinh THPT
2.1. Các yếu tố môi trường tác động đến sự hình thành và phát triển
nhân cách học sinh Trung học phổ thông
2.1.1. Gia đình tác động đến sự hình thành nhân cách học sinh
Trung học phổ thông
-Gia đình là một tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế
văn hóa-xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, được hình thành, tồn tại
và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ
nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.
-Gia đình là tế bào của xã hội, là cầu nối giữa cá nhân với xã hội. là tổ ấm
mang lại các giá trị hạnh phúc cho cá nhân và xã hội, “gia đình tốt thì xã hội tốt,

GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 11
TL: Giáo Dục Học 1
nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”. Trong gia đình ngoài mối
quan hệ của cha mẹ với con cái còn có quan hệ giữa ông bà với con cháu và
quan hệ anh chị em.
Gia đình là môi trường có tác động rất mạnh đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh bởi nhiều lý do: quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh THPT diễn ra phần lớn trong môi trường này, người lớn
trong gia đình là mẫu hình nhân cách mà học sinh bắt chước theo ngay từ khi
còn nhỏ và ngay cả khi học THPT, sự hình thành nhân cách chịu tác động mạnh
với những tình cảm con người cụ thể, thời gian hoạt động ở gia đình của học
sinh THPT dài gấp nhiều lần ở các môi trường khác vv.
Trong quan hệ gia đình (ông bà, bố mẹ, anh chị em v.v ), học sinh THPT
luôn mong muốn khẳng định cái Tôi của mình, khẳng định vai trò và vị thế của
mình trong gia đình. Yếu tố tình cảm gia đình có ý nghĩa đối với học sinh giai
đoạn này, đó là quan hệ giữa cha mẹ, anh chị em, ông bà, họ hàng… và cách đối
xử của các thành viên trong gia đình với nhau.
Trong gia đình, lứa tuổi THPT đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm
như người lớn. Cha mẹ bắt đầu trao đổi với con cái ở lứa tuổi này về một
số vấn đề quan trọng trong gia đình. Học sinh lứa tuổi này bắt đầu quan
tâm đến nề nếp, lối sống, sinh hoạt và điều kiện kinh tế của gia đình. Đây
là lứa tuổi vừa học tập vừa lao động.
2.1.1.1. Tác động tích cực
-Ở gia đình các em được chăm sóc trên cả 2 mặt vật chất và tinh thần. Gia
đình với khả năng cao nhất của mình là cung cấp những điều kiện tốt nhất cho
thể chất và trí tuệ, tạo điều kiện học tập và phát triển theo khả năng của các em.
Có gia đình các em giai đoạn này sẽ phát triển ổn định về nhân cách. Nếu các
em được sống trong một gia đình có điều kiện phát triển về kinh tế, cha mẹ có
điều kiện và thời gian chăm sóc, yêu thương và quan tâm đến việc nuôi dạy con
cái thì trẻ sẽ có phẩm chất đạo đức tốt. Bên cạnh điều kiện sống của gia đình,

tấm gương đạo đức của cha mẹ cũng là ngọn đuốc soi sáng và giáo dục đạo đức
cho con cái. Cha mẹ có lối sống lành mạnh, hòa nhập, sống thiện, sống tốt, có
lòng nhân nghĩa và biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh, hiếu thảo với
ông bà cha mẹ,… thì con cái cũng học tập và có những phẩm chất tốt đẹp của
cha mẹ vì “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”
-Nếu các em được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền trống văn hóa,
có tinh thần yêu quê hương đất nước, yêu con người… thì các em sớm có những
đức tính tốt ngay từ khi còn bé, các em đã hình thành thế giới quan tốt đẹp cho
mình. Gia đình trí thức, bố mẹ có trình độ học vấn, có văn hoá, gia đình hoà
thuận, đầm ấm và hạnh phúc và đặc biệt gia đình là nơi để các con cảm thấy thật
sự an toàn khi sống ở đó sẽ có ảnh hưởng một cách tích cực đến định hướng giá
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 12
TL: Giáo Dục Học 1
trị nhân cách của các em. Các em sẽ có định hướng giá trị nhân cách đúng đắn
theo sự định hướng của bố mẹ và phát triển nhân cách của mình đúng với mong
muốn của xã hội.
-Cha mẹ và những thành viên trong gia đình là những người gần gũi mật
thiết thường xuyên ở bên cạnh các em, đặc biệt giai đoạn này các em cần được
quan tâm nhiều hơn. Gia đình phải đảm bảo cho các em thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình, đồng thời không để các em thiệt thòi, không xâm hại đến các
quyền của các em đã được pháp luật thừa nhận. Bảo vệ các em là không để các
em rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tệ nạn xã hội… Bởi vậy, các em được sống
trong gia đình đầy đủ sẽ có những điều kiện tốt cho sự hình thành và phát triển
nhân cách hơn những em mồ côi cha mẹ, không được sống trong mái ấm với các
thành viên gia đình.
-Cha mẹ, anh chị em trong gia đình sẽ chia sẽ những tâm tư tình cảm,
những nguyện vọng chính đáng của các em, ngăn chặn những tiêu cực có thể
xảy ra cho các em. Gia đình định hướng khuyên bảo cho các em đi đúng hướng,
làm những việc có ích cho xã hội, gia đình và bản thân… Khi các em làm được
những việc tốt hay đạt được một thành công nhỏ nào đó… bố mẹ sẽ động viên,

khen thưởng; nhắc nhở, phê bình đúng mực khi các em mắc khuyết điểm; cho
các em tự quyết định và làm một số công việc tự phục vụ nhu cầu của bản thân
và tăng tính tự lập cho cuộc sống sau này. Được tâm sự, chia sẻ với bố mẹ như
một người bạn, được hướng dẫn tự phục vụ và chăm sóc bản thân thân mình các
em sẽ ý thức được trách nhiệm trong gia đình mình.
-Khi các em gặp những điều khó khăn, những vấp ngã trong cuộc sống thì
đã có cha mẹ đứng sau để dìu dắt, ủng hộ những bước đi tiếp theo của các em, tư
vấn cho các em những điều hay lẽ phải, những việc nên làm và không nên làm,
nhắc nhở các em cách chọn bạn mà chơi, mà học tập, không đòi đòi theo những
thói hư tật xấu của các bạn, định hướng nghề nghiệp theo khả năng và sở thích
của các em…
-Có thể nói tự khẳng định bản thân trong quan hệ gia đình là một nhu cầu
tích cực của học sinh THPT, thể hiện mong muốn khẳng định cái Tôi của bản
thân theo hướng thay đổi vai trò và mối quan hệ trong gia đình, các em mong
muốn được tự khẳng định bản thân mình theo hướng tự quyết định, tự chịu trách
nhiệm cho những việc làm của mình. Do đó, cha mẹ và những người lớn trong
gia đình nên hiểu được đặc điểm tâm lý đặc trưng của lứa tuổi này. Cảm giác
người lớn khiến cho lứa tuổi học sinh THPT muốn được khẳng định bản thân,
muốn được độc lập và không bị phụ thuộc ở một mức độ nhất định vào cha mẹ
và những người thân trong gia đình. Do đó, cha mẹ và những người lớn trong
gia đình cần thay đổi những quy định về sự đỡ đầu vụn vặt, sự kiểm tra quá
đáng, sự chăm sóc quá tỷ mỉ, sự hướng dẫn quá mức chi tiết về mọi lĩnh vực
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 13
TL: Giáo Dục Học 1
trong cuộc sống của các em nhằm tránh những xung đột, mâu thuẫn đáng tiếc
xảy ra trong ra đình ảnh hưởng đến mối quan hệ thân thiết của cha mẹ và con
trong gia đình.
Để tạo môi trường chăm sóc thuận lợi, cha mẹ cần tạo một bầu không khí
yêu thương, đoàn kết, gắn bó, quan tâm giữa các thành viên trong gia đình. Cho
dù cuộc sống còn nhiều vất vả, khó khăn nhưng các bậc cha mẹ không nên bắt

các em làm những công việc quá sức, bỏ qua những xích mích nhỏ nhặt trong
gia đình để cho các em cảm thấy ấm áp trong tình thương gia đình.
2.1.1.2. Tác động tiêu cực
-Cuộc sống hiện đại, xã hội hiện đại, năng động đã kéo tất cả mọi người
trôi theo dòng chảy công việc. Thời gian cha mẹ đi làm, con cái đi học, rồi đi
học thêm kể cả ngày nghỉ… Bữa cơm tối nhiều khi không có đủ các thành viên
trong gia đình, thời gian dành cho việc trò chuyện chia sẽ với các em không
nhiều, nên các bậc cha mẹ không hiểu các em muốn gì, cần gì dẫn đến nhiều
trường hợp trẻ bị tự kỉ. Sự lơi lỏng, chỉ quan tâm tới công việc của một số cha
mẹ đã dẫn đến những hậu quả xấu như: Các em dễ hư hỏng, bị cuốn vào vòng
xoáy các tệ nạn xã hội, vi phạm đạo đức và pháp luật…
-Hiện nay, vấn đề “cơm áo gạo tiền” cũng là một trong những nguyên nhân
làm ảnh hưởng sâu sắc đến việc giáo dục đạo đức con cái của các bậc cha mẹ vì
đời sống vật chất góp phần chi phối đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, việc mưu sinh kiếm sống gặp không ít khó khăn,
cha mẹ lo làm kinh tế không quan tâm tới sự phát triển tâm sinh lý và các yếu tố
tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách của con em mình. Nếu các
em sống trong gia đình mà cha mẹ gây cãi, đánh nhau, rượu chè cờ bạc, hút
chích ma túy, cá độ, đá gà,… thì các em sẽ bị ảnh hưởng xấu đến việc hình
thành nhân cách và đạo đức. Tuy nói “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
nhưng những trường hợp con cái có những biểu hiện đạo đức tốt trong gia đình
thiếu văn hóa hoặc vô văn hóa thì rất hiếm.
-Sống trong một gia đình mà cha mẹ có những biện pháp giáo dục thiếu
khoa học như: sử dụng bạo lực để răng dạy các em, bắt các em phải làm theo
những ý muốn của mình mà không biết những điều đó con mình có thích hay
không,… Hay gia đình mà cha mẹ có những hành vi lệch chuẩn thì định hướng
giá trị nhân cách của các em cũng thiên về sự phát triển lệch lạc. Thực tế cho
thấy hành vi phạm tội của một số em học sinh bắt nguồn từ gia đình. Do cha mẹ
đánh đập, chửi mắng, thiếu quan tâm, hoặc cha mẹ là những người nghiên ma
tuý, cờ bạc, làm ăn phi pháp

- Hoặc một số gia đình có cuộc sống kinh tế đầy đủ nhưng con cái lại có
những biểu hiện sai lệch chuẩn mực đạo đức do phụ huynh chỉ cung cấp tiền
nhưng lại không quan tâm tới việc học tập, đời sống tinh thần, giao tiếp xã hội
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 14
TL: Giáo Dục Học 1
của con và việc giáo dục gần như phó mặt cho nhà trường, dẫn đến tình trạng
nhiều học sinh không được trang bị những kỹ năng sống tối thiểu. Với thực
trạng hiện nay khi mà rất nhiều em học sinh THPT ở các thành phố lớn, thị xã
hoặc một số gia đình giàu có thiếu hụt những kỹ năng sống cơ bản và cần thiết,
các em không biết làm bất cứ một công việc nào cho dù là những công việc tự
phục vụ nhu cầu của bản thân hay những công việc nhà đơn giản mà đáng lẽ ra ở
lứa tuổi này các em bắt buộc phải biết làm để chuẩn bị cho bản thân những kỹ
năng sống cần thiết khi các em bước chân ra khỏi cổng trường THPT bước vào
một cuộc sống độc lập của những người trưởng thành. Điều này có ảnh hưởng
rất nhiều đến sự khẳng định cái Tôi độc lập của các em, đến sự hình thành và
phát triển nhân cách.
-Hơn nữa, cuộc sống hôn nhân của cha mẹ cũng quyết định quá trình hình
thành nhân cách học sinh THPT. Cha mẹ có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc,
quan tâm, thương yêu giúp đỡ và chia sẽ lẫn nhau những khó khăn trong cuộc
sống luôn tạo ra một niềm tin và định hướng cho con cái phát triển. Ngược lại,
cuộc sống hôn nhân của cha mẹ không hạnh phúc, đỗ vỡ sẽ tạo ra một áp lực lớn
về tinh thần cho các em, làm cho các em chán nản, bi quan trong cuộc sống, dễ
rơi vào tệ nạn xã hội, đạo đức bị suy thoái.
-Phần lớn các gia đình ở thành phố sống khép kín, ngày càng ít có sự giao
tiếp giữa các gia đình trong khu dân cư. Nên không tạo được sự giao tiếp với
mọi người xung quanh, đặc biệt là các em ít có cơ hội giao lưu với người lớn,
các bạn cùng trang lứa nên tỉ lệ sống tự kỉ thanh niên giai đoạn này ở thành phố
là khá cao.
2.1.2. Nhà trường tác động đến sự hình thành và phát triển nhân
cách hoc sinh Trung học phổ thông.

Bản chất mỗi con người sinh ra là thánh thiện, là tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Do
vậy, bên cạnh sự giáo dục đạo đức ở gia đình, việc giáo dục đạo đức ở nhà
trường cũng rất quan trọng.
Nhà trường có một vai trò quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cho
học sinh. Học sinh có thể tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn nhưng kiến thức ở
nhà trường vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu vì đó là kiến thức đã được chuẩn
hóa, đạt độ chính xác cao và có định hướng. Bên cạnh đó việc truyền đạt kiến
thức thì nhà trường cũng góp phần trong việc hình thành và phát triển nhân cách
của học sinh.
2.1.2.1. Tác động tích cực
-Trường học là nơi các em được học tập giao lưu với thầy cô và bè bạn, đây
là một môi trường lành mạnh, tốt đẹp để các em phát triển cả thể chất, tinh thần
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 15
TL: Giáo Dục Học 1
và nhân cách. Ở đây, các cá nhân được giao lưu với nhau, với tập thể lớp học,
trường học… tạo điều kiện cho sự phát triển mổi cá nhân.
-Nhờ được học tập và rèn luyện trong nhà trường mà các em có được
những kĩ năng sống tốt, hạn chế được những tệ nạn xã hội, những tác động tiêu
cực của xã hội vì các em được những thầy cô giáo trong trường rèn luyện những
kỹ năng thông qua những chương trình hoạt động ngoài giờ, hay hoạt động
ngoại khóa… Nhà trường còn tổ chức nhiều cuộc thi cho các em như Olympic
các môn học, các cuộc thi về an toàn giao thông, về pháp luật… để nâng cao
hiểu biết cho các em.
-Các em có thể noi theo những tấm gương tốt của các bạn trong lớp, trong
trường để tự mình vương lên trong học tập cũng như rèn luyện. Học sinh trung
học phổ thông đã biết thần tượng cho mình những thầy giáo hay một nhân vật
nổi tiếng nào đó để phấn đấu trong cuộc sống.
-Giáo viên chủ nhiệm cũng góp một vai trò không nhỏ trong việc định
hướng sự hình thành và phát triển nhân cách các em, ngoài việc giảng dạy,

hướng dẫn các em bước đi đúng con đường tương lai, giáo viên chủ nhiệm còn
đóng vai trò như một người mẹ, người cha tư vấn những tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng… của các em.
2.1.2.2. Tác động tiêu cực
Một số cán bộ quản lý, giáo viên và bạn bè thường có những định kiến,
thiếu thiện cảm; sử dụng các biện pháp hành chính thái quá; sự lạm dụng quyền
lực của các thầy cô giáo, nhà quản lý; sự thiếu gương mẫu trong mô phạm giáo
dục; việc đánh giá kết quả, khen thưởng, kỷ luật thiếu khách quan và không
công bằng; sự phối hợp không đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục đều có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình giáo dục đạo đức của các em.
Trước hết cần kể đến cách dạy học của một số thầy cô giáo, trong quá trình
dạy học có một số người thường to tiếng với học sinh khi có một số thành viên
trong lớp làm không đúng ý, hoặc chậm hiểu hơn so với các bạn khác. Đứng
trong khu vực sân trường ta sẽ cảm nhận thấy điều này không phải là hiếm gặp.
Hiện tượng này tác động chậm rãi nhưng đều đặn, liên tục làm cho học sinh trở
nên nóng tính, dễ bùng nổ bạo lực khi không vừa ý điều gì đó với bạn bè hoặc
những người xung quanh. Quá trình dân chủ hóa trường học, với những quy
định về việc tôn trọng nhân cách người học làm cho một số giáo viên chuyển từ
thái cực này sang thái cực khác, trở nên vô cảm đối với những vi phạm nhỏ của
học sinh; bởi lo sợ vi phạm luật hoặc sự phản ứng tiêu cực. Sự vô cảm đó làm
cho những vi phạm của học sinh ngày càng leo thang, "cái sảy nảy cái ung" cũng
bắt nguồn từ đó. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một vấn đề rất khó, phần
lớn là giáo dục thông qua tích hợp với các hoạt động khác; sự tích hợp làm cho
công tác này trở thành thứ yếu trong hoạt động của các nhà trường. Giáo dục
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 16
TL: Giáo Dục Học 1
đạo đức cho học sinh được thực hiện thông qua nhiều hoạt động, qua giảng dạy
các môn học. Môn học có khả năng giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả
nhất là môn giáo dục công dân thì gần như bị vô hiệu hóa, lý do chính do môn
học này không phải là môn thi tốt nghiệp, không phải là môn thi đại học. Trong

thực tế, học sinh, xã hội nghiễm nhiên cho đó là môn học phụ; hiệu quả giáo dục
của môn học này cũng bị giảm thiểu đến mức tối đa.
Về phía nhà trường, môi trường giáo dục ít nhiều đã bị cơn lốc của kinh tế
thị trường làm cho vẩn đục. Xu hướng thương mại hóa giáo dục, căn bệnh thành
tích trong học hành và thi cử, việc chạy trường, chạy lớp, … đã làm nhiều người
thầy đánh mất cả lòng tự trọng và sự tin yêu của xã hội dành cho. Nhiều người
thầy phải bươn chải để lo cho cuộc sống bộn bề, khó khăn, thiếu bồi dưỡng về
chuyên môn, rèn luyện về đạo đức. Cũng có một bộ phận đã phải lấy việc dạy
thêm, học thêm làm phương kế sinh nhai, lấy việc quà cáp, biếu xén làm niềm
vui … Hình ảnh về nhân cách cao đẹp của một số người thầy trong mắt các em
đã bị biến dạng. Niềm tin, sự kính trọng của các em dành cho các thấy đã bị
giảm sút. Mặt khác, nội dung chương trình ở hầu hết các bộ môn, dù đã có điều
chỉnh, thay mới theo hướng giảm tải, bớt tính hàn lâm, nghiêng về thực hành,
ứng dụng, nhưng vẫn còn khà nặng nề; phương pháp dạy - học phát huy tính tích
cực nơi học sinh, dù có những chuyển biến tốt đẹp, nhưng vẫn chưa thực hiện
một cách sâu rộng và phát huy hết hiệu quả của nó.
Một số ít giáo viên chủ nhiệm lớp thiếu sự gắn bó, sâu sát nắm bắt tâm tư
nguyện vọng của học sinh; tư tưởng, phương hướng, phương pháp, biện pháp
giáo dục học sinh đôi khi không phù hợp, hiệu quả chưa cao; công tác phối hợp
với phụ huynh học sinh để giáo dục học sinh chưa kịp thời, thiếu thường xuyên,
hiệu quả thấp… dẫn đến các hậu quả xấu ảnh hưởng đên sự hình thành và phát
triển nhân cách các em.
Một số hoạt động ngoại khoá còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả
thấp, chưa thường xuyên, chưa thu hút được học sinh tham gia tích cực. Tiết
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hằng tuần, giờ sinh hoạt lớp; giờ sinh hoạt
15 nhìn chung chưa đồng bộ và chưa phát huy hiệu quả thật sự. Dẫn đến các em
còn thiếu một số kỹ năng, tinh thần bạn bè, tinh thần đồng đội giảm… điều này
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em.
Thực tế cho thấy, hiện nay, học sinh ở các cấp học đều có những biểu hiện
suy thoái về đạo đức đặc biệt là lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông.

-Tỷ lệ học sinh bỏ học, tỷ lệ học sinh yếu, kém ở mức cao. Do sự thiếu
quan tâm đúng mức của các bậc cha mẹ và đặc biệt là các thầy cô giáo dạy các
em, không tìm hiểu nguyên nhân và không có những biện pháp xử lý kịp thời
khi các em bỏ học dẫn đến tình trạng bỏ học kéo dài ảnh hưởng đến kết quả học
tập và đạo đức của các em.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 17
TL: Giáo Dục Học 1
-Nhiều trường học còn sơ sài trong việc phổ biến các nội quy và chấp hành
nội quy, chưa có biện pháp xử lý thỏa đáng khi các em vi phạm… nên dẫn đến
tình trạng học sinh vi phạm nội qui của nhà trường vẫn còn, tỷ lệ học sinh có
hạnh kiểm trung bình và yếu vẫn còn cao.
-Một bộ phận học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội như đánh nhau, cờ bạc,
bạo lực học đường; không kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè, mọi người
xung quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê
games bỏ học hoặc tự tử vì games; …do đoi đòi theo các bạn xấu trong trường
và xã hội.
-Đáng báo động hơn nữa hiện tượng học sinh đánh giáo viên cũng gia tăng.
Bên cạnh đó, tình trạng sống thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng
tăng cao. Điều này ảnh hưởng của do lối sống quá dễ dãi, đánh mất truyền thống
tốt đẹp của người Á Đông, đó là: tôn trọng lễ nghĩa gia phong, công dung ngôn
hạnh, hiếu tiết lễ nghĩa,
2.1.3. Xã hội tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách
học sinh Trung học phổ thông
Sự phát triển con người nói chung, nhân cách nói riêng chỉ có thể phát triển
đúng quy luật khi mổi cá nhân tự nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa mối
quan hẹ cá nhân-xã hội xét trên phương diện lợi ích. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: “Chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành một cách tự nhiên,
do đó chừng nào còn có sự chia cắt lợi ích riêng và lợi ích chung… thì chừng đó
bản thân con người sẽ trở thành một lượng xa lạ, đối lập với con người và nô
dịch con người chứ không phải là bị xã hội thống trị”.

2.1.3.1. Tác động tích cực
Xã hội ngày càng tiến bộ thì các em có nhiều hơn những điều kiện để phát
triển như sự phát triển của khoa học công nghệ, sự giao lưu văn hóa của các dân
tộc trong nước và ngoài nước, có sự tiếp xúc với cuộc sống cộng đồng được
nhiều hơn… những điều đó tạo môi trường thuận lợi cho các em hình thành và
phát triển nhân cách.
Các em được sống trong xã hội mà mọi cá nhân, tổ chức đều tạo những
điều kiện tốt nhất cho các em phát triển. Vì các em là nguồn nhân lực trẻ của đất
nước. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục, nâng cao trình độ kiến thức, kỉ năng và nâng cao ý thức trách
nhiệm công dân. Chăm lo, phát triển và phát huy tài năng của các em; tạo điều
kiện cho các em học tập nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức, chuyên môn, tay
nghề; có cơ chế, chính sách giải quyết việc làm, tạo vốn cho các em mưu sinh,
lập nghiệp khi ra trường; xây dựng cơ sở vật chất các trung tâm văn hóa, thể dục
thể thao, giúp các em rèn luyện, nâng cao thể chất; lãnh đạo phát triển các phong
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 18
TL: Giáo Dục Học 1
trào hành động cách mạng trong thanh niên, khơi sức sáng tạo, khả năng cống
hiến để thanh niên vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học, kỹ thuật, đi
đầu trong giải quyết những vấn đề bức bách của xã hội. Như nguyên Thủ tướng
Phan Văn Khải đã phát biểu: “Các ngành, các địa phương, các trường học phải
xem các gương mặt trẻ tiêu biểu như tấm gương cần phải nhân rộng, tạo thành
phong trào trong thanh niên, từ đó đẩy lùi tệ nạn tiêu cực”.
Hình ảnh xung kích đi đầu trong các phong trào tình nguyệt đã trở thành
nét nẹp của tuổi trẻ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Các
em đã có nhiều chiến dịch tình nguyện chung sức vì cộng đồng tại các địa
phương đã góp phần phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo; tham gia các hoạt
động văn hoá, giáo dục, y tế, chăm sóc thiếu niên nhi đồng; tuyên truyền phổ
biến pháp luật, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự an toàn giao thông; tổ
chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Những hoạt động đó sẽ giúp các em có

một thế giới quan tốt cho sự hoàn thiên nhân cách.
2.1.3.2. Tác động tiêu cực
Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, cùng với sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ đã làm cho những giá trị đạo đức của con người
đang đứng trước nguy cơ suy thoái trầm trọng. Việc giao lưu văn hóa ngoại ảnh
hưởng trực tiếp đến giá trị đạo đức của học sinh. Đa số học sinh hiện nay chạy
theo xu hướng Hàn Quốc, ăn mặc, kiểu tóc, hình thức bề ngoài… đua đòi ăn
chơi mà quên đi những bản sắc văn hóa tốt đẹp của đất nước mình. Các em
hướng hoạt động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ, nhiều khi vô
bổ, ít chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách. “Tớ chỉ thích
điện thoại nào đời mới ”, “Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập ”, “Hàng hiệu
hợp thời ở chỗ ”.
Khoa học công nghệ phát triển, học sinh tiếp xúc với internet và học rất
nhiều điều hữu ích từ nó. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, internet có nhiều
điểm tiêu cực như có những hình ảnh, phim ảnh không phù hợp với những giá
trị đạo đức của con người Việt Nam. Học sinh xem nhưng thiếu người định
hướng và giáo dục nên sẽ dễ nhận thức sai lầm kéo theo hành vi sai và phạm tội.
Hơn nữa, việc thường xuyên chơi game online và sống trong ảo giác sẽ gây ra
những hành vi dần ảnh hưởng đến đạo đức, làm tha hóa nhân cách, lệch lạc về
nhận thức, từ đó dẫn đến những hành vi tiêu cực, có thể hủy hoại tương lai của
giới trẻ.
Tốc độ lan truyền thông tin trên Intenet nhanh chóng là một tiện ích, các
trang mạng xã hội như Facebook, Twiter… lại được các em sử dụng rất nhiều,
nhưng nó mang lại hệ quả khó lường. Tuổi trẻ luôn được xem là nhanh nhạy
trong việc nắm bắt các thành tựu kỹ thuật mới, các bạn trẻ rất am hiểu việc sử
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 19
TL: Giáo Dục Học 1
dụng các công cũ kỹ thuật như điện thoại di động có quay phim chụp ảnh,
chuyển tải dữ liệu lên mạng … Thế nhưng, tuổi trẻ cũng lại rất chậm để cảm
nhận được hậu quả của những đoạn phim, bức ảnh được gửi lên mạng. Ngày

nay, chỉ một chuyện nhỏ trong lớp cũng có thể dễ dàng được quay phim lại bằng
điện thoại di động, cũng nhanh chóng được chuyển tải lên mạng, có hàng ngàn
đến hàng triệu lượt người xem. Là lứa tuổi dễ bị kích động, dễ bắt chước, không
ít những bạn trẻ tự làm hại mình khi sử dụng không kiểm soát các tiến bộ của
công nghệ
Mặt khác, xã hội ngày nay phát triển đa dạng, phong phú. Những mặt trái
của sự phát triển nền kinh tế thị trường để lại hậu quả suy thoái về đạo đức. Con
người vì lợi nhuận bất chấp thủ đoạn hại nhau, vì lợi sẵn sàng giết nhau,… Môi
trường sống xung quanh cùng với những tệ nạn xã hội đang diễn ra tràn lan và
ngày càng xâm nhập sâu vào học đường cũng là nguyên nhân gây ra sự suy thoái
về đạo đức…. Do vậy, các em ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố đó, ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị
trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc
trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận học sinh ở nước ta đang có những biểu
hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởngchạy theo lối sống buông thả,
lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những
sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm
pháp luật
Xã hội càng phát triển thì có nhiều vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, các em
phần nhiều bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xung quanh hình thành những thói hư,
tật xấu:
-Hút thuốc lá: Ở trên lớp các em thấy bạn bè mình hút thuốc, khi về nhà thì
gặp những người lớn trong gia đình hút nên cũng tập tành theo vì các em muốn
chứng tỏ mình là người lớn.
-Rượi chè bắt đầu từ những lúc các em tụ tập lại, lúc đầu chỉ là uống nước
nhưng càng về sau để chứng tỏ mình là người sành điệu, đua đòi, bắt chước bạn
bè, người lớn.
-Bài bạc nãy sinh vào những dịp lễ tết, hay chỉ là chơi cho vui với bạn bè
nhưng lâu dần nó trở thành thói quen. Bất cứ khi nào cũng có thể chơi và tệ hơn

nữa là chơi ăn tiền.
-Các em thường tụ tập lại ăn chơi, nếu không có tiền ăn chơi thì nãy sinh
trộm cắp, cướp giật, về nhà trộm của của cha mẹ, hoặc là hàng xóm “bần cùng
sinh đạo tặc”
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 20
TL: Giáo Dục Học 1
-Chít hút ma túy, tham gia đua xe, gây mất trật tự, phá làng phá xóm, chơi
game cũng được xem là vấn nạn ngày càng phổ biến.
Ngoài ra còn một bộ phận không nhỏ học sinh giai đoạn này không có lý
tưởng sống, mờ nhạt mục đích học tập, thực dụng hay có những suy nghĩ lệch
lạc ảnh hưởng xấu đến động cơ, ước mơ, hoài bão vươn lên.
Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản
thân họ, gia đình học, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến
bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực
thù địch đang “chờ đợi” và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để
tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” hòng chống phá và ngăn chặn sự phát
triển của cách mạng Việt Nam.
2.2. Giải pháp
Để giúp học sinh xây dựng được mối quan hệ bạn bè tốt đẹp, lành mạnh,
bền vững rất cần sự kết hợp từ ba phía: gia đình, nhà trường và xã hội.
Gia đình:
Việc các em mong muốn khẳng định mình trong gia đình, trong quan hệ
với bạn bè và người khác, cũng như sự phát triển tự ý thức và nhu cầu độc lập
của các em là vấn đề cần được chú ý, quan tâm trong hoạt động giáo dục đối với
lứa tuổi học sinh THPT hiện nay ở cả phạm vi gia đình. Chúng ta cần tôn trọng
những quan điểm, nhu cầu và mong muốn chính đáng của các em, sẽ là sai lầm
nếu chúng ta chỉ nhìn các em như là những đứa trẻ còn non nớt.
Các hình thức giáo dục con cái trong gia đình cần được bố mẹ và các thành
viên trong gia đình chú ý đặc biệt, tránh sử dụng các hình thức giáo dục thiếu
tích cực và đặc biệt là các hình thức giáo dục roi vọt, xâm phạm thể chất và tinh

thần của con em mình.
Nhà trường:
Nhà trường cần xây dựng được bầu không khí lành mạnh tốt đẹp cho các
em. Hơn nữa, nhà trường cần tăng cường nội dung giáo dục đạo đức cho các em
dưới nhiều hình thức. Coi trọng việc giáo dục đạo đức cũng giúp các em nhận
thức và có những cách ứng xử đúng đắn trong mối quan hệ bạn bè. Nhà trường
cũng cần đưa việc giáo dục giới tính nói chung và tâm lí giới tính nói riêng vào
giảng dạy chính khóa trong nhà trường phổ thông.
Bộ giáo dục cần có chiến lược xây dựng chương trình giáo dục đạo đức đầy
đủ và quy mô hơn so với hiện tại, trong đó coi việc giáo dục đạo đức cho người
học là một vấn đề quan trọng. Chỉ khi coi trọng việc giao dục đạo đức thì việc
giáo dục học sinh hướng tới xây dựng những mối quan hệ bạn bè lành mạnh,
trong sáng mới trở nên có hiệu quả.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 21
TL: Giáo Dục Học 1
Tăng cường sự quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa của chi bộ Đảng, Ban
Giám hiệu, các tổ chức đoàn thể, các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường
đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức để giáo
dục cho học sinh, nhằm thu hút người học tham gia học tập rèn luyện một cách
tích cực.
Việc kiểm tra đánh giá kết quả của hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh phải đảm bảo công bằng, công khai, khen thưởng, phê bình, nhắc nhở kịp
thời.
Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức
công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh… tổ
chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với
lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”.
Xã hội:
Các cá nhân, tổ chức ở các địa phương, ban, ngành, đoàn thể nên tạo những

điều kiện thuận lợi nhất để giáo dục cho các em hoàn thiên nhân cách.
* Gia đình cần kết hợp với nhà trường, xã hội trong việc giáo dục
giá trị cho các em, không nên phó mặc trách nhiệm giáo dục giá trị con em
mình cho nhà trường và xã hội.
Thứ nhất, phải thiết lập được mối quan hệ bền vững giữa gia đình – nhà
trường – xã hội. Trong cuộc sống chúng ta luôn có những khó khăn vì nhiều lí
do khác nhau. Cha mẹ phải chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần cho gia đình
nên đôi lúc không thể có được thời gian theo sát con cái để có những biện pháp
giáo dục thích hợp hướng con mình theo cái tốt, cái thiện. Do vậy, cha mẹ muốn
con trở thành công dân tốt phải tạo sự gắn kết với nhà trường (đặc biệt là thường
xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm) và xã hội. Với nhà trường thì phải
không ngừng liên lạc với phụ huynh (nhất là những học sinh yếu kém, thường vi
phạm nội qui, nề nếp…) để hiểu nhiều hơn về học sinh và có giải pháp khắc
phục hữu hiệu. Đồng thời cả gia đình, nhà trường và xã hội phải có sự kết nối và
thống nhất trong các hoạt động vui chơi giải trí và biện pháp giáo dục trẻ. Nhà
nước phải can thiệp và quản lý những hoạt động văn hóa - xã hội, đảm bảo tạo
môi trường sống lành mạnh cho trẻ. Chính vì thế, chúng ta phải đặt quan hệ giữa
gia đình, nhà - trường - xã hội trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời
nhau. Đây là giải pháp cơ bản nhất để hoàn thiện việc giáo dục đạo đức cho thế
hệ trẻ hiện nay.
Thứ hai, phải tạo một môi trường sống, môi trường giao tiếp và học tập
tốt ở gia đình, nhà trường và xã hội.
Đây là một trong những yếu tố cần thiết cho sự phát triển nhân cách ở trẻ.
Có môi trường sống, làm việc và học tập tốt, học sinh sẽ ít có cơ hội trở thành
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 22
TL: Giáo Dục Học 1
người xấu, không thể phạm tội. Hiện nay, môi trường sống xung quanh rất phức
tạp, luôn diễn ra những tệ nạn xã hội ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành
tư tưởng, đạo đức lối sống của học sinh. Do vậy, bản thân của các bậc phụ
huynh, giáo viên phải nắm được những hoạt động văn hóa, thương mại, các trò

chơi giải trí và con người xung quanh nhà và trường. Vì chính môi trường xã hội
gần gũi này trực tiếp ảnh hưởng và góp phần hình thành và hoàn thiện nhân cách
của học sinh. Nếu môi trường xung quanh phức tạp thì chúng ta sẽ có những
biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn những hậu quả xấu xảy ra đối với học sinh.
Thứ ba, những người giáo dục phải gương mẫu, hiểu tâm sinh lý của học
sinh và có tâm huyết với việc giáo dục trẻ thành công dân tốt.
Cha mẹ, giáo viên phải luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có
những hình thức khen thưởng và xử phạt công bằng giữa các thành viên, không
phân biệt đối xử giữa các con và các học sinh; phải biết cách khen chê đúng lúc,
nên khen nhiều hơn chê để động viên và khích lệ trẻ. Cha mẹ và Thầy Cô phải
đặt mình vào vị trí của học sinh, phải hiểu được tâm sinh lý của học sinh để có
những phương pháp giáo dục đúng đắn phù hợp cho từng đối tượng học sinh.
Chúng ta phải có sự hòa nhập và hợp tác với chúng, vừa là các bậc tiền bối,
cũng vừa là những người bạn và vừa là những nhà tư vấn tâm lý đáng tin cậy để
chúng có thể chia sẽ những vui buồn và những bế tắt trong cuộc sống, trong học
tập và trong các mối quan hệ bạn bè và xã hội khác.
Thứ tư, chúng ta phải giáo dục đạo đức cho học sinh ngay từ nhỏ và giáo
dục phải thường xuyên, suốt đời; phải theo dõi các mối quan hệ của học sinh và
giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, lý tưởng sống và lòng yêu
nước
Việc giáo dục đạo đức cho một học sinh trở thành một công dân tốt thì nhà
trường phải chú trọng ngay từ khi trẻ mới hình thành nhận thức, đó là những lúc
ở nhà và việc giáo dục đạo đức ở trẻ bắt đầu từ các cấp học. Quan trọng nhất là
nền tảng giáo dục ở cấp Tiểu học vì đây là những buổi học đầu tiên mà học sinh
làm quen với môi trường giáo dục. Có lẽ ở nhà các em được cưng chiều nhiều
nên khi vào học quí Thầy Cô sẽ là những người dạy cho các em lẽ sống công
bằng, phân biệt đúng - sai và phải làm đúng theo lẽ phải, dạy cho các em hiểu
vai trò, trách nhiệm của một người con trong gia đình và cách giao tiếp văn hóa
trong xã hội,… Ở bậc Trung học cơ sở là thời điểm các em có sự chuyển biến về
tâm sinh lý và luôn hiếu kỳ, tò mò, muốn khám phá thế giới xung quanh. Vì vậy,

chúng ta phải dạy cho học sinh cách tiếp cận và thu nhận thông tin từ thực tiễn
cuộc sống và vận dụng nó một cách đúng đắn vào cuộc sống. Đối với học sinh
Trung học phổ thông, đây là giai đoạn các em phát triển khá hoàn thiện về mọi
mặt, nhận thức đã sâu sắc và chín chắn hơn, tuy nhiên các em vẫn còn những
suy nghĩ bồng bột, nông cạn nên dễ rơi vào những cám dỗ trong cuộc sống, sa
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 23
TL: Giáo Dục Học 1
vào cạm bẫy xã hội và trở thành tội phạm mà bản thân các em không hay biết,
hoặc biết nhưng vẫn làm do không hiểu mức độ nặng nhẹ của sự việc, hoặc do
không biết làm như thế là phạm pháp. Do vậy việc dạy chữ và dạy người cho
học sinh phải xuyên suốt từ cấp thấp đến cấp cao, không gián đoạn.
Chương 3: Những đề xuất nhằm giúp học sinh Trung học phổ thông
hoàn thiện nhân cách
Hơn lúc nào hết, hiện nay việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, giáo dục giá trị
sống, kỹ năng sống cho học sinh, lý tưởng sống, giáo dục lòng yêu nước cho học
sinh là rất quan trọng và cấp thiết. Nó góp phần xây dựng thành công con người
mới xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
3.1. Bồi dưỡng về đạo đức, chính trị, pháp luật, lối sống, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng
-Ngày nay giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục lòng trung thành với
Đảng, hiếu với dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha nhân ái, cần cù liêm
khiết và chính trực. Đó là đạo đức Xã hôi Chủ nghĩa, là đạo đức Xã hội Chủ
Nghĩa là đạo đức của cá nhân , tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân
thực, tích cực, khác với đạo đức vị kỉ cá nhân. Giáo dục đạo đức học sinh gắn
chặt với giáo dục tư tưởng- chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc
văn hóa dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước XHCN, cung cấp cho học sinh
những phương thức ứng xử đúng đắn trước các vấn đề của xã hội, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng… giúp các em có khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản
thân một cách tự giác, có khả năng chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối
sống.

-Bồi dưỡng về chính trị là nâng cao khả năng nhận thức cho các em về chủ
quyền dân tộc, về sự tồn tại và toàn vẹn lãnh thổ, về sự giàu mạnh của đất nước.
Thực hiên đường lối của Đảng của nhà nước về chiến lược phát triển đất nước
và tuân thủ các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia. Về quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân thể hiện trong cuộc sống lao động, học tập và hoạt động
chính trị xã hội vì hạnh phúc của nhân dân. Các em phải có nhiệm vụ bảo vệ tổ
quốc, chống lại mọi thủ đoạn xâm phạm đến an ninh chủ quyền quốc gia và giữ
vững khối đại đoàn kết dân tộc.
-Bồi dưỡng về pháp luật là các em phải có nghĩa vụ trong việc cùng toàn
dân tham gia đóng góp xây dựng các bộ luật của nhà nước, đấu tranh để pháp
luật được thực hiện công bằng, phấn đấu cho một nhà nước pháp quyền, và
quyền lợi của mọi người được nhà nước bảo vệ.
-Lý tưởng đối với tuổi trẻ như ánh sáng mặt trời với sự sống, là sự gắn bó
hữu cơ, là sự tự nguyện, tự giác, là sự đòi hỏi tự thân, nó thường trực, hướng tới:
“Không một chút nào được quên”. Lý tưởng sống của thanh thiếu niên không
chỉ dừng lại ở nhận thức, ý thức và quan niệm, mà phải được tôi rèn trong thực
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 24
TL: Giáo Dục Học 1
tiễn học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tế, phải thành hành động, thông
qua hành động, và hiệu quả của hành động. bác dạy: “Điều gì phải thì cố làm
cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái
nhỏ”.
Phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống và lý
tưởng của thế hệ trẻ. Mỗi một đoàn viên thanh niên phải xác định rõ trách nhiệm
trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới
cái mới, cái tiến bộ. Bản thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết
vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người; cần phải tự tin vào chính mình, giữ
vững niềm tin trong cuộc sống, vào các giá trị chân, thiện, mỹ; vượt qua mọi
khó khăn gian khổ như Bác Hồ đã dạy: “gian nan rèn luyện mới thành công”.

-Tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với các lực lượng tham gia
giáo dục đạo đức đạo đức, chính trị, pháp luật, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng cho học sinh:
Giáo dục đạo đức, chính trị, pháp luật, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng thông qua các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động Đoàn, các hoạt động
xã hội như bảo vệ môi trường, bảo vệ khu dân cư, tham gia các phong trào tình
nguyện, các quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ giúp bạn học tốt…
Lồng ghép, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh và các cuộc vận động lớn: Dân chủ- kỉ cương- tình thương- trách nhiệm”,
“mổi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, các phong
trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, Xây dựng “ Trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong trường học”.
-Tổ chức chỉ đạo, thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức đạo đức, chính
trị, pháp luật, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho học sinh.
Đối với giáo viên chủ nhiệm nên có một phương pháp chủ nhiệm tốt với
một kế hoạch toàn diện, hợp lý. Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình,
năng lực tùng học sinh, học sinh có hoàn cảnh khó khăn… đến việc xử lý tình
huống. Đòi hỏi cần phải có sự nghiêm khắc của người thầy, đồng thời phải có
tấm lòng yêu thương, thể hiện trách nhiệm lòng vị tha như một người cha đối
với con cái; thông cảm chia sẽ niềm vui, nổi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó
khăn, khuyên bảo chân tình, tạo động lực cho các em phấn đấu hoàn thiện nhân
cách…
Đối với giáo viên bộ môn: Phấn đấu dạy tốt môn học của mình, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho các em tiếp thu kiến thức, trong quá trình dạy nên lồng
ghép các vấn đề về đạo đức, chính trị, pháp luật, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng cho học sinh.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Kim Liên SVTH: Ngô Thị Phương 25

×