Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VỀ VIỆC THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.38 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CNDCND LÀO
8
1.1. Đạo luật liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của
Ngân hàng
9
1.1.1. Pháp luật về đầu tư 9
1.1.2. Pháp luật về ngân hàng 13
1.1.3 Các hiệp định thương mại liên quan giữa Lào và Việt Nam 16
1.2. Quy đinh pháp luật về các loại hình Ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại CHDCND Lào
20
1.2.1. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 22
1.2.2. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh 26
1.2.3. Văn phòng đại diện 29
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Ngân hàng nước ngoài tại CHDCND
Lào
32
2.1 Áp dụng pháp luật về thành lập chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài tại CHDCND Lào
32
2.1.1 Nhận xét chung 34
2.1.2 Vấn đề áp dụng pháp luật trong quá trình thành lập chi


nhánh Ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào
38
2.2. Áp dụng pháp luật trong hoạt động của Ngân hàng nước
ngoài tại CHDCND Lào
65
Chương 3. Kiến nghị các giải pháp cho Chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại CHDCND Lào
74
3.1. Một số khó khăn trong tổ chức và hoạt động của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài
74
3.2. Một số giải pháp trong việc tổ chức và hoạt động của chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào
77
3.2.1. Tận dụng cơ hội bằng điểm mạnh hiện tại của Ngân hàng 80
1
nước ngoài
3.2.2. Một số giải pháp đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam
khi đầu tư vào CHDCND Lào
84
3.2.3 Các giải pháp cụ thể 87
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
MỞ ĐẦU
Lào là quốc gia có nhiều tiềm năng về khoáng sản, thủy điện,
nông - lâm nghiệp, nguồn lao động, đồng thời là cửa ngõ quan trọng để
thâm nhập vào thị trường lớn của tiểu vùng châu Á với khoảng 150 triệu
dân gồm các nước Thái Lan, Myanmar, Campuchia và Trung Quốc (tỉnh
2
Vân Nam)… Cũng như một số nước đang phát triển trong khu vực, nền

kinh tế Lào xuất phát điểm thấp nên đang cần nguồn lực rất lớn để phát
triển. Trong khi đó, thị trường tài chính Lào còn rất đơn sơ, thị trường
chứng khoán mới đi vào hoạt động (mới khai trương vào 10/10/2010), nên
Chính phủ Lào rất hoan nghênh sự đầu tư của doanh nghiệp các nước vào
thị trường Lào. Tại Hội nghị hợp tác đầu tư Việt - Lào diễn ra (2011),
dưới sự đồng chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng nước
chủ nhà Thongsing Thammavong, Sáu dự án với tổng vốn đầu tư 410 triệu
USD đã được cấp phép. Có thể nói việc hợp tác giữa hai quốc gia góp
phần mở ra một hướng đi mới cho các Doanh nghiệp Việt Nam để đầu tư
vào môi trường mới.
Xuất phát từ tầm quan trọng của tìm hiểu pháp luật Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào để thành lập Ngân hàng; xuất phát từ tính cấp thiết phải
làm rõ các quy định của pháp luật về mặt nội dung cũng như thủ tục thành
lập; với mong muốn tìm hiểu, phân tích thực trạng và góp ý những bài học
kinh nghiệm cho các Ngân hàng khi tham gia vào thị trường đầy tiềm
năng tại Lào; tác giả chọn đề tài “Về việc thành lập và hoạt động của
Ngân hàng nước ngoài tại Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào” làm đề tài
cho luận văn thạc sỹ của mình
Chương 1
TỔNG QUẢN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CHDCND
LÀO
3
1.1. Pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngân hàng
1.1.1. Pháp luật về đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên của CHDCND Lào được ban
hành ngày 19/4/1988, đã được thay thế bằng Luật Khuyến khích và quản
lý đầu tư nước ngoài được Quốc Hội thông qua ngày 14/3/1994, có hiệu
lực tháng 6/1994. Luật này chỉ điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài.
Theo Điều 1 Luật này, nước CHDCND Lào khuyến khích tư nhân và pháp

nhân nước ngoài đầu tư tại CHDCND Lào trên nguyên tắc các bên cùng
có lợi, tuân theo pháp luật của CHDCND Lào. Tư nhân và pháp nhân trên
gọi là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài có thể
hoạt động đầu tư trong mọi ngành kinh tế được Nhà nước cho phép đầu tư
tại Lào bao gồm kinh doanh mở nhưng phải có điều kiện thông qua Uỷ
ban quản lý đầu tư nước ngoài (FIMC), còn những ngành nghề kinh doanh
dành cho công dân Lào thì trong một số trường hợp, Uỷ ban quản lý đầu
tư nước ngoài sẽ xem xét giải quyết nếu thấy sự cần thiết.
Còn theo Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại nước
CHDCND Lào sửa đổi năm 2004, số 11/QH Thủ đô Viêng Chăn ngày
22/10/2004, Đầu tư nước ngoài được quy định như sau: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài có nghĩa là thu hút vốn gồm có tài sản, công nghệ và nhân lực
của nước ngoài vào CHDCND Lào với mục đích kinh doanh”. Các quan
điểm và định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài được đưa ra tuỳ theo
góc độ nhìn nhận của các nhà kinh tế, rát phong phú và đa dạng. Tuy
nhiên, dù được định nghĩa như thế nào thì bản chất của hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài
đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép
họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Qua đó,
chúng ta có thể rút ra một định nghĩa chung nhất như sau: Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản
xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có
thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền
4
quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu
được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định
của Luật ĐTNN của nước đó.
1.1.2. Pháp luật về ngân hàng
Luật Ngân hàng thương mại được Quốc hội Lào phê chuẩn vào
ngày 26/12/2006 với những điều khoản chung về thành lập, cơ cấu hoạt

động; cơ cấu tổ chức và nhân sự; các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng;
điều kiện quy chế kinh doanh; Quản lý, thanh tra Ngân hàng; Khôi phục
và phá sản Điều 2 về “Ngân hàng Thương mại” Luật Ngân hàng thương
mại năm 2006 quy định “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được
thành lập theo bộ luật này với lĩnh vực hoạt động chủ yếu là huy động tiền
gửi để cung ứng tín dụng, mua – bán ngoại hối, cung ứng dịch vụ thanh
toán và đầu tư”.
Với hoạt động huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi, ngân hàng
sẽ huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cùng với nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp. Còn hoạt động cấp tín dụng, ngân
hàng sẽ cung ứng nguồn tiền tệ huy động được vào đúng tay những nhà
doanh nghiệp cần vốn, góp phần không nhỏ tăng hiệu quả của đồng vốn
trên thị trường. Thêm vào đó với hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh
toán, ngân hàng sẽ trực tiếp tạo điều kiện cho người sử dụng vốn quay
vòng một cách nhanh chóng và hiệu quả.
1.1.3. Các hiệp định thương mại liên quan giữa Lào và Việt Nam
Trong thương mại, Việt Nam và Lào cũng đã có mối quan hệ từ
xa xưa, ban đầu chủ yếu là thông qua việc giao thương, trao đổi hàng hoá
của cư dân vùng biên giới hai nước. Mối quan hệ này được xác lập chính
thức thông qua con đường Nhà nước từ khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào ký Hiệp định Thương mại ngày
5
13/7/1961. Đây là bước đi đầu tiên và tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhất
cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển.
Tháng 2/1991, Hiệp định Thương mại thời kỳ 1991 - 1995 được
ký giữa hai Chính phủ, hai bên thoả thuận chấm dứt hình thức ký Nghị
đinh như trao đổi hàng hoá hàng năm, xoá bỏ tình trạng bao cấp của Nhà
nước, tạo ra một thời kỳ mới trong quan hệ thương mại hai nước Việt
Nam – Lào. Hiệp định Thương mại trong thời kỳ này cho phép mở rộng
đối trong trao đổi, không hạn chế các tổ chức, cá nhân tham gia trao đổi

làng hóa và dịch vụ, không hạn chế kim ngạch trao đổi, mở rộng danh
mục trao đổi từ các mặt hàng cấm xuất khẩu và cấm nhập khẩu, góp phần
làm phong phú, đa dạng các mặt hàng trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa
các doanh nghiệp của hai nước. Ngoài ra, Hiệp định thương mại được ký
vào ngày 09/3/1998 đang có hiệu lực một lần nữa khẳng định mong muốn
củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại
giữa hai nước một cách ổn định và lâu dài.
Về lĩnh vực đầu tư và bảo hộ đầu tư thì đến ngày 14/01/1996, tại
Viengchan, các bên đã ký Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với
mong muốn mở rộng và tăng cường hợp tác lâu dài về kinh tế, công
nghiệp và đặc biệt là tạo những điều kiện thuận lợi cho đầu tư của các nhà
đầu tư của Bên ký kết tại lãnh thổ của Bên ký kết còn lại. Ngày
19/12/2012 hai bên đã thoả thuận một Nghị định thư về sửa đổi Hiệp định
này, nhằm đưa ra các quy định hợp lý hơn tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp phát triển cũng như hoạt động.
1.2. Quy định pháp luật về các loại hình Ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại CHDCND Lào
1.2.1. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
Điều 35 về “Chi nhánh của công ty cổ phần”, Luật doanh nghiệp
Lào năm 2005 đã quy định “Công ty cổ phần nước ngoài có ý định thành
6
lập chi nhánh tại Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào phải đăng ký doanh
nghiệp như quy định trong Luật này”. Theo đó, việc đăng ký doanh
nghiệp được cụ thể hoá tại Chương II của Luật này.
Ngoài ra, Khoản 18, Điều 3 về “Giải thích từ ngữ”, Luật Ngân
hàng thương mại lào năm 2006 quy định “Chi nhánh Ngân hàng thương
mại nước ngoài” là một bộ phận Ngân hàng thương mại nước ngoài được
cấp phép tiến hành kinh doanh ngân hàng tại CHDCND Lào theo pháp
luật nước CHDCND Lào.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, cơ bản nêu ra các dẫn

chiếu của pháp luật Lào về việc thành lập cũng như các hoạt động của một
chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
1.2.2. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh
Theo luật về khuyến khích ĐTNN tại CHDCND Lào doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp của người nước ngoài đầu
tư tại CHDCND Lào. Sự thành lập doanh nghiệp có thể thành lập pháp
nhân mới hoặc thành lập chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài.
Theo Điều 25 về “Vốn đăng ký”, Luật khuyến khích đầu tư nước
ngoài có quy định “Vốn đăng ký của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tối
thiểu phải bằng 30% tổng vốn hoạt động”. Trong toàn bộ thời gian hoạt
động, giá trị tài sản của doanh nghiệp không được nhỏ hơn vốn đăng ký.
Ưu điểm của quy định này là Hình thức vốn sẽ đảm bảo tính độc lập tự
chủ của nhà đầu tư. Không có quy định không bị lệ thuộc, chia sẻ quyền
lợi với một bên nào khác, do đó dự án được triển khai nhanh, hoạt động có
hiệu quả, nhanh thu hồi vốn và có lãi. Đây là hình thức mà nhà đầu tư
nước ngoài bỏ 100% vốn, nước sở tại không phải bỏ vốn, không tham gia
trực tiếp quản lý mà NSNN vẫn có được nguồn thu từ hoạt động của
doanh nghiệp này đồng thời giải quyết được việc làm cho người lao động.
7
Tuy nhiên nhược điểm của vấn đề này cũng có những điểm như Đối với
nước đầu tư thì lĩnh vực kinh doanh bị hạn chế hơn do nước sở tại không
cho phép và nếu nhà đầu tư không hiểu rõ về chính sách – pháp luật, văn
hoá, chính trị, nguồn lao động, thị trường của nước sở tại thì rất dễ bị thiệt
hại, gặp nhiều trắc trở trong kinh doanh. Ngoài ra, Đối với nước nhận đầu
tư: Sẽ phải đối phó với một những hiện tượng tiêu cực do nhà đầu tư nước
ngoài mang lại, một số ngành nghề, lĩnh vực bị chi phối vì mục tiêu của
nhà đầu tư là lợi nhuận tối đa.
1.2.3. Văn phòng đại diện
Điều 32 về “Điều kiện thành lập công ty trực thuộc, chi nhánh,
đơn vị sự nghiệp và văn phòng đại diện” Luật Ngân hàng thương mại năm

2006 có quy định “Ngân hàng thương mại có mục đích thành lập công ty
trực thuộc, chi nhánh, đơn vị sự nghiệp và văn phòng đại diện phải đảm
bảo những điều kiện sau:
1. Bộ máy quản lý điều hành hoạt động, hệ thống thanh tra, kiểm
toán sổ sách nội bộ có hiệu quả;
2. Hệ thống nhận – truyền thông tin có thể đáp ứng cho công tác
quản lý hiệu quả;
3. Thực hiện điều lệ bảo vệ sự ổn định Ngân hàng Thương mại.”
Ngoài ra, Ngân hàng nước ngoài muốn thành lập văn phòng đại diện phải
thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước CHDCND Lào, luật
khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào. Điều kiện
thành lập, bổ sung hồ sơ, đơn xin thành lập công ty trực thuộc, chi nhánh
và văn phòng đại diện được quy định trong từng trường hợp riêng.
Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI CHDCND LÀO
8
2.1. Áp dụng pháp luật về việc thành lập của chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài tại CHDCND Lào
2.1.1 Nhận xét chung
Đối với doanh nghiệp thì việc đầu tư ra nước ngoài giúp các
doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, tìm kiếm cơ hội đầu
tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Việc này còn giúp
các doanh nghiệp tăng nội lực kinh doanh: tích luỹ kinh nghiệm trên
thương trường quốc tế; học hỏi tiếp thu công nghệ và bí quyết công nghệ;
sử dụng đội ngũ quản lý và khoa học kỹ thuật bản xứ… Có thể thấy, hoạt
động đầu tư ra nước ngoài thể hiện mối quan hệ hữu cơ ”Ích nước, lợi cho
nhà đầu tư”, cho nên cần có những giải pháp mang tính chủ động làm cho
hoạt động này phát triển có hiệu quả, và làm giảm tác động hạn chế như
sau của hoạt động đầu tư ra nước ngoài như làm phân tán nguồn lực về tài

chính, về con người, làm giảm bớt khả năng tạo việc làm ở trong nước.
2.1.2 Vấn đề áp dụng pháp luật trong quá trình thành lập chi
nhánh của Ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào
Tại Điều 30 về “Thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự
nghiệp, hiện diện thương mại”, Luật các TCTD năm 2010 có quy định
“Tuỳ theo loại hình hoạt động, sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận bằng văn bản, tổ chức tín dụng được thành lập: Chi nhánh, văn
phòng đại diện và các hình thức hiện diện thương mại khác ở nước
ngoài”. Chủ quản là Ngân hàng nhà nước cũng đưa ra quy định cụ thể về
những điều kiện tiên quyết tại Điều 8 về “Điều kiện mở chi nhánh, văn
phòng đại diện ở nước ngoài” Thông tư 21/2013/TT-NHNN ngày 09-9-
2013 của Ngân hàng nhà nước quy định về mạng lưới hoạt động của ngân
hàng thương mại. Cụ thể, Ngân hàng thương mại được mở chi nhánh, văn
phòng đại diện ở nước ngoài khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
1. Điều kiện tiên quyết của phía Ngân hàng thương mại là “Có thời gian
hoạt động tối thiểu là năm năm;hoạt động kinh doanh có lãi ba năm liền
kề trước năm đề nghị mở chi nhánh, văn phòng đại diện; đảm bảo các tỷ
9
lệ an toàn; phân loại nợ, trích lập đủ dự phòng rủi ro theo quy định; tỷ lệ
nợ xấu so với tổng dư nợ dưới 3% tại thời điểm đề nghị mở chi nhánh,
văn phòng đại diện ở nước ngoài;Có bộ máy quản trị, điều hành và kiểm
toán nội bộ hoạt động có hiệu quả; Có hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ
theo quy định của NNHNN; Có hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu quản
lý trực tuyến của ngân hàng thương mại; chấp hành đúng chế độ báo cáo
thống kê theo quy định của NHNN”.
2. Điều kiện đủ của phía Ngân hàng thương mại là “Có các văn bản nội bộ
quản lý chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài đảm bảo hoạt động an
toàn, hiệu quả và đúng quy định pháp luật của nước sở tại; Không bị
Thanh tra Ngân hàng xử phạt hành chính tổng cộng từ ba mươi triệu đồng
trở lên trong thời gian một năm tính đến thời điểm đề nghị mở chi nhánh,

văn phòng đại diện ở nước ngoài; Cơ quan thanh tra, giám sát của nước sở
tại nơi mở chi nhánh, văn phòng đại diện có thoả thuận hợp tác thanh tra,
giám sát với cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng Việt Nam.”
3. Điều kiện về năng lực của Ngân hàng thương mại là “Có tổng tài sản
Có đạt 100.000 tỷ Đồng Việt Nam trở lên theo báo cáo tài chính hợp nhất
được kiểm toán tại thời điểm 31 tháng 12 của năm trước liền kề năm đề
nghị”.
Ngoài ra hồ sơ, trình tự mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài
cũng được quy định tại Điều 12 về “Hồ sơ đề nghị chấp thuận đủ điều
kiện thành lập chi nhánh, phòng giao dịch ở trong nước; chấp thuận thành
lập văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp ở trong nước; chi nhánh, văn
phòng đại diện, ngân hàng 100% vốn ở nước ngoài”, Thông tư
21/2013/TT-NHNN.
Áp dụng pháp luật CHDCND Lào
a) Quy định về hình thức đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào
10
Điều 4, Luật Đầu tư nước ngoài của CHDCND Lào, nhà đầu tư nước
ngoài được phép đầu tư vào CHDCND Lào theo 2 hình thức sau: liên
doanh với một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào; doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài. Theo Điều 5 Luật này, liên doanh là đầu tư nước ngoài được
thành lập và đăng ký theo pháp luật của CHDCND Lào, trong đó cùng sở
hữu và kinh doanh với một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào. Việc điều hành tổ
chức và hoạt động của liên doanh và mối quan hệ giữa các bên được điều
chỉnh bởi hợp đồng được ký kết giữa các bên và điều lệ về liên doanh, phù
hợp với pháp luật của CHDCND Lào.
Điều 7, Luật này cũng đã nêu doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
là đầu tư nước ngoài của một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài mà không
có sự tham gia của nhà đầu tư Lào, được đăng ký theo pháp luật của
CHDCND Lào. Doanh nghiệp được thành lập ở Lào có thể là một công ty
mới hoặc là một chi nhánh hoặc một văn phòng đại diện của một công ty

nước ngoài.
Thủ tục đầu tư nước ngoài phức tạp hơn, theo quy định đơn xin đầu tư
nước ngoài bao gồm 2 loại:
- Đơn xin đầu tư trong biên lai kinh doanh khuyến khích hoặc dự án
không liên quan đến việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc
quyền liên quan đến tài nguyên thiên nhiên nhưng không có ảnh hưởng
đến môi trường, sức khoẻ và văn hoá của đất nước.
- Đơn xin đầu tư trong biên lai kinh doanh mở nhưng phải có điều kiện
hoặc dự án liên quan với việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc
quyền liên quan đến tài nguyên thiên nhiên nhưng không có ảnh hưởng
đến môi trường, sức khoẻ và văn hoá của đất nước.
b) Quy định về ưu đãi đầu tư theo pháp luật CHDCND Lào
Theo Điều 10 Luật đầu tư nước ngoài nhà đầu tư nước ngoài được phép
thuê đất và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ hợp đồng thuê bất động
sản, được phép sở hữu các lợi ích từ đất và động sản khác và chuyển giao
các lợi ích phát sinh từ mối quan hệ sở hữu các tài sản đó. Nhà đầu tư
nước ngoài được tự do vận hành doanh nghiệp của mình trong khuôn khổ
11
pháp luật CHDCND Lào. Chính phủ không can thiệp vào việc quản lý
kinh doanh của các doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài.
Cũng theo Điều 5 của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước tài sản, vốn
của các nhà đầu tư bảo đảm bằng các quy định cụ thể của pháp luật. Nhà
nước không tịch thu vốn và tài sản đầu tư của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng những tài sản, vốn
đầu tư đó thì các nhà đầu tư sẽ được bồi thường và thanh toán theo quy
định của pháp luật CHDCND Lào.
c) Pháp luật chuyên ngành lĩnh vực Ngân hàng tại Lào
Việc thành lập được quy định khá chi tiết tại Chương II “Thành lập và cơ
cấu ngân hàng” Luật Ngân hàng thương mại Lào năm 2006. Cá nhân và tổ
chức có mục đích thành lập Ngân hàng thương mại phải trình đơn lên

Ngân hàng Nhà nước CHDCND Lào. Hồ sơ xin thành lập bao gồm:
1. Kế hoạch hoạt động và sơ đồ tổ chức Ngân hàng Thương mại;
2. Giấy chứng nhận khả năng tài chính và thông tin cần thiết về cổ đông
chính;
3. Giấy chứng nhận bằng cấp, kinh nghiệm, hồ sơ năng lực hoạt động kinh
doanh và chuyên môn của người điều hành trong thời gian 5 năm;
4. Danh sách cổ đông và tỉ lệ góp vốn;
5. Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng qua Internet phải thực hiện
theo quy định tại điều 59 và 60 của Luật Ngân hàng thương mại Lào;
Ngân hàng Nhà nước CHDCND Lào sẽ cấp giấy phép thành lập trong thời
gian 10 ngày hành chính kể từ ngày người trình đơn hoàn thành các điều
kiện bổ sung. Điều kiện bổ sung bao gồm các thủ tục như sau:
1. Có hợp đồng góp vốn, điều lệ và luận chứng kinh tế kỹ thuật phù hợp;
2. Cổ đông góp đầy đủ vốn theo số lượng nắm giữ cổ phần của mình;
3. Có đủ số cán bộ đạt tiêu chuẩn;
4. Trang bị đủ thiết bị kỹ thuật và địa điểm nhằm đảm bảo hoạt động;
5. Xây dựng đồng bộ hệ thống hoạt động, thanh tra, kiểm tra và quản lý
ngân hàng.
Có thể nói với lượng thủ tục khá nhiều được nêu ở trên thì việc thành lập
ngân hàng liên doanh, chi nhánh hay một văn phòng đại diện đều phức
12
tạp. Điều này cũng hợp lý với lý do mô hình nhỏ của nhà đầu tư là Ngân
hàng thương mại nước ngoài đều có mối quan hệ với các khoản tài chính
như hoạt động cấp tín dụng, các giao dịch thanh toán Mô hình phải bảo
đảm tính tuân thủ cũng như lường trước được những rủi ro không đáng có
mới có.
2.2. Áp dụng pháp luật trong hoạt động của Ngân hàng nước ngoài tại
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Theo quy định tại Điều 40 về “Các hoạt động của Ngân hàng Thương
mại” Luật Ngân hàng thương mại Lào năm 2006 đã có quy định hai lĩnh

vực hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại bao gồm hoạt động
ngân hàng và hoạt động tài chính. Ngoài ra cụ thể 02 hoạt động này tại
Điều 41 và 42 của Luật này. Hoạt động ngân hàng gồm:
1. Nhận gửi các loại tiền như: Gửi tiết kiệm ngày, gửi tiết kiệm, gửi tiết
kiệm 3 tháng, 6 tháng, 1 năm và trên một năm có lãi suất hoặc không có
lãi suất;
2. Cung ứng tín dụng dưới mọi hình thức như cho vay ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn; giảm giá mua và cam kết giảm giá mua thương phiếu có giá
trị; thế chấp, ngoài ra còn cung ứng tín dụng với nhiều hình thức nhưng
phải được Ngân hàng Nhà nước CHDCND Lào cho phép;
3. Cung cấp dịch vụ thanh toán và thu phí dịch vụ;
4. Phát hành và quản lý các công cụ thanh toán như: Séc, các loại thẻ
thanh toán;
5. Mua – bán ngoại hối;
6. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và tài sản có giá trị.
Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh tài chính của Ngân hàng thương mại
như sau:
1. Phát hành và mua – bán động sản;
2. Đại diện lĩnh vực tài chính;
3. Kinh doanh bảo hiểm;
4. Hoạt động cho thuê;
5. Dịch vụ cố vấn tài chính;
6. Dịch vụ cố vấn đầu tư và xoay vòng vốn;
13
7. Thế chấp việc phát hành và mua – bán bất động sản;
8. Hoạt động các lĩnh vực tài chính khác theo quy định ngân hàng nhà
nước Lào đề ra.
Về khả năng sinh lợi của các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào
Lào, nhìn chung, cao hơn so với các ngân hàng trong nước do các ngân
hàng này sử dụng vốn được cấp và vốn vay tương đối hiệu quả, mức rủi ro

thấp. Bên cạnh đó, các ngân hàng này còn có nguồn thu đáng kể từ các
hoạt động phi tín dụng, mảng hoạt động còn yếu của các ngân hàng Việt
Nam hiện nay;
Về lĩnh vực Tín dụng, mặc dù có rất nhiều tích cực trong hoạt
động tiếp thị khách hàng vay vốn, nhưng với một thị trường cạnh tranh rất
gay gắt hơn thị trường Việt Nam. Bởi thị phần Khách hàng đa số tin tưởng
vào các ngân hàng trong nước nên các ngân hàng nước ngoài khá khó tiếp
cận, mặc dù đã có những bước giảm lãi suất cho vay, tăng mức tiếp thị
Khách hàng vay, tạo điều kiện cho Khách hàng trong các hoạt động này.
Có thể nói mức tăng trường tín dụng là hết sức khó khăn. Với phương
châm chính là phục vụ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bên Lào,
Do đó, nghiệp vụ kinh doanh các ngân hàng cũng bị tác động rất nhiều.
Mặt khác hiện nay các khách hàng quan hệ thường xuyên còn rất ít, đa số
khách hàng chỉ quan hệ cầm chừng, thăm dò.
Về nguồn vốn: vấn đề tâm lý khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng
vẫn là nguyên nhân chính dẫn đến việc huy động vốn rất khó khăn, tăng
trưởng rất chậm không tạo được nền vốn vững chắc cho NH. Phần lớn
vốn cho vay VND hiện nay Chi nhánh sử dụng hạn mức tín dụng tại
BIDV TW do vay không có chủ động cao, chi phí tăng lên.
Có thể nói các chi nhánh, văn phòng đại diện tại Lào vẫn được sự
hỗ trợ của ngân hàng mẹ trong công tác vốn, thanh toán, do đó vẫn có thể
giải quyết được phần nào về nguồn vốn cho vay, đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng vay vốn.
Chương 3
14
KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP CHO CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
NƯỚC NGOÀI HOẠT ĐỘNG VÀO CHDCND LÀO
3.1. Một số khó khăn trong việc tổ chức và hoạt động của chi
nhánh ngân hàng nước ngoài
Do việc áp dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức

tài chính nước ngoài, nhất là về việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, mở chi nhánh và các điểm giao dịch, dỡ bỏ dần hạn chế về huy
động tiền gửi bằng VND và khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng nên
hoạt động của các ngân hàng nước ngoài ngày càng sôi động.
Theo Công văn số 403/2012/CV-HHNH về cung cấp thông tin
của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam gửi Vụ Hợp tác quốc tế nêu khá rõ tình
hình hoạt động của các Tổ chức Tín dụng Việt Nam trên thị trường một số
đối tác để cung cấp các thông tin để chuẩn bị cho vòng đàm phán Hiệp
định thương mại tự do.
Theo đó đã cụ thể một số khó khăn trong lĩnh vực thành lập ngân
hàng của Việt nam như sau:
Tại Singapore, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB)
đang cập nhật thông tin để xây dựng đề án nâng cấp văn phòng đại diện
lên chi nhánh. Tuy nhiên hiện tại MAS không hoan nghênh việc nâng cấp
văn phòng đại diện lên chi nhánh do tình hình kinh tế tại Việt Nam và
chính sách thắt chặt việc thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh của
các Tổ chức tín dụng nước ngoài tại Singapore.
Tại Hoa Kỳ, VCB nhận thấy môi trường pháp lý với hệ thống quy
định dày đặc, không đồng nhất giữa các Bang khiến cho việc hoạt động
rất tốn kém về thời gian, chi phí đặc biệt trong việc xin cấp phép riêng
theo thủ tục của từng Bang. Bản thân sự chặt chẽ trong các quy định khiến
các ngân hàng hạn chế mở tài khoản chuyên dùng cho dịch vụ chuyển tiền
của các công ty chuyển tiền tại Mỹ. Do đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc
duy trì và hoạt động của Công ty.
Tại Cộng hoà Liêng bang Đức, Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam (Vietinbank) chưa có thương hiệu tại nước sở tại, mạng lưới chi
nhánh còn hạn chế, chi phí cao, thiếu thông tin về tình hình thị trường tài
15
chính ngân hàng của nước sở tại, các quy định pháp lý về việc thành lập
và mở văn phòng đại diện, chi nhánh hay ngân hàng con tại nước sở tại.

Tại Cộng hoà Séc, thông tin thị trường và các quy định pháp luật
của nước sở tại thường không đầy đủ và nếu có thì bằng tiếng Séc. Ngoài
ra, thời gian xin cấp phép kéo dài vì các điều kiện đặt ra bởi cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đặc biệt là quy định pháp luật về phòng chống rửa
tiền.
Về tình hình hoạt động ngân hàng lại có những màu sắc khó khăn
riêng, cụ thể:
Tại Singapore, VCB thành lập Văn phòng đại diện ngày 19-8-
2006. Văn phòng đại diện không hoạt động kinh doanh và giao dịch tại
Singapore mà thực hiện nhiệm vụ chính là duy trì, nâng cao và mở rộng
mối quan hệ với các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế tại Singapore;
quảng bá thương hiệu VCB đến các nhà đầu tư tại nước này nhằm thu hít
các dự án của các doanh nghiệp nước sở tại tại Việt Nam; hỗ trợ các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tìm hiểu thị trường, kinh doanh,
giao dịch tại thị trường nước này; thực hiện các báo cáo nghiên cứu thị
trường; duy trì các mối quan hệ với các cơ quan quản lý tại Singapore;
nắm bắt các thay đổi chính sách, các quy định quản lý và pháp luật.
Tại Cộng hoà liên bang Đức, Vietinbank thành lập 02 chi nhánh
tại Đức bao gồm 01 chi nhánh tại Frankfurt đi vào hoạt động từ tháng
9/2011 với vốn pháp định ban đầu là 5,6 triệu EUR (tương đương 147 tỷ
đồng) và một chi nhánh tại Berlin (thành lập tháng 5/2012) hoạt động như
một phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh tại Frankfurt. Cả hai chi nhánh
đều hoạt động trên lĩnh vực: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn và
tiền gửi thanh toán; cho vay đối với cá nhân và doanh nghiệp; hoạt động
thanh toán; hoạt động mua bán ngoại tệ; kinh doanh thẻ. Vào tháng 6, chi
nhánh Vietinbank tại Frankfurt đã được NHNN Việt Nam chấp thuận và
Bộ kế hoạch và đầu tư cấp phép thành lập ngân hàng con với tên mới là
Ngân hàng TNHH Công thương Việt Nam (Châu Âu)
Tại Cộng hoà Séc, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt
Nam (BIDV) đã có văn phòng đại diện tại Cộng hoà Séc, khai trương hoạt

16
động vào ngày 07-11-2012 với chức năng là đại diện của BIDV trong các
mối quan hệ tại các nước sở tại; kết nối khách hàng, nghiên cứu thị
trường, xây dựng hình ảnh của BIDV tại Cộng hoà Séc.
3.2. Một số giải pháp trong việc tổ chức và hoạt động của chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào
3.2.1. Tận dụng cơ hội bằng các điểm mạnh hiện tại của ngân
hàng nước ngoài
Tận dụng cơ hội bằng các điểm mạnh hiện tại, làm mạnh hơn các điểm
mạnh thông qua tối ưu hoá cơ hội: Các Ngân hàng thương mại Việt Nam
có thể tập trung sâu hơn vào phân đoạn thị trường khách hàng là các chính
khách, cán bộ, nhân viên… người Lào đã từng học tập và sinh sống tại
Việt Nam. Ðây chính là các nhân tố “lõi” để phát triển khách hàng, đặc
biệt là khách hàng địa phương. Áp dụng triệt để hình thức “marketing
truyền miệng” và “marketing thông qua người nổi tiếng” để thu hút các
khách hàng tiềm năng khác. Có thể lựa chọn các nhân viên giỏi và “trụ
cột” từ chính những cán bộ đã được đào tạo tại Việt Nam và có quan hệ
gần gũi với Việt Nam. Ðây là nguồn nhân lực sẵn có tại địa phương, hiểu
biết thị trường bản địa. Ngoài ra, Tiềm lực tài chính của các Ngân hàng
thương mại tại Lào tương đối tốt và đang dần được tăng cường. So với
yêu cầu vốn tối thiểu của chi nhánh mở tại Lào (5 triệu USD), tất cả các
chi nhánh và đơn vị liên doanh tại Lào đều có vốn đăng ký cao hơn nhiều
(Ngân hàng Lào Việt: 24,3 triệu USD, MB chi nhánh Lào: 12 triệu USD,
và Vietinbank chi nhánh Lào: 22 triệu USD). Mặc dù so với một số chi
nhánh ngân hàng nước ngoài khác, con số này không cao, nhưng điều đó
thể hiện quyết tâm và sự cam kết chắc chắn của các ngân hàng Việt Nam
trong việc đầu tư và phát triển hoạt động tại thị trường Lào.Nhân lực có
chất lượng tương đối tốt.
Giải pháp sử dụng các điểm mạnh để hạn chế các điểm yếu: Hiểu biết về
thị trường Lào một cách tương đối rõ ràng. Sự tương đồng về lịch sử phát

triển, cũng như mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai quốc gia trong hầu
17
hết các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội đã mang lại cho các ngân hàng
Việt Nam tại Lào sự hiểu biết khá tốt về thị trường Lào. Sự hiểu biết này
được đánh giá là “tài sản vô hình” lớn nhất của các ngân hàng thương mại
tại Lào, khuyến khích các ngân hàng bắt đầu và mở rộng hoạt động. Do
vậy, BIDV, Sacombank, MB đều khởi xướng hoạt động đầu tư ra nước
ngoài bắt đầu từ thị trường Lào, và Vietinbank đầu tư vào thị trường Lào
ngay sau khi bắt đầu mở chi nhánh tại Ðức.
Giải pháp tận dụng các cơ hội để “hoá giải” các điểm yếu: Bởi những
điểm yếu của các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam là mức độ tiếp cận
với khách hàng thấp. Hầu hết các khách hàng của ngân hàng thương mại
tại Lào đều là các doanh nghiệp của Việt Nam đang đầu tư và kinh doanh
tại Lào. Rất ít khách hàng là doanh nghiệp bản địa hoặc người dân địa
phương. Ví dụ, MB mới có 16 khách hàng vay vốn, trong đó một số khách
hàng Lào lớn là Unitel, Star Telecom, công ty xây dựng Inthavong; và 371
khách hàng gửi tiền. Vietinbank cũng mới đang tập trung vào các khách
hàng là doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.2. Một số giải pháp đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam khi
đầu tư vào CHDCND Lào
Nên tăng cường tìm hiểu môi trường đầu tư của Lào: Muốn đầu tư có hiệu
quả, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm cơ hội cũng như tìm hiểu
môi trường vĩ mô, vi mô của Lào, từ đó thấy được những thuận lợi và khó
khăn cũng như khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp mình.
Như vậy mới có thể lựa chọn được lĩnh vực, địa bàn đầu tư phù hợp đồng
thời xây dựng được những chiến lược hợp tác lâu dài nhằm đạt được hiệu
quả kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội mà dự án mang lại. Muốn làm
được điều đó, doanh nghiệp cần thực hiện như Chủ động tìm kiếm thông
tin qua các trang Web, các cơ quan đại diện kinh tế thương mại của Việt
Nam, các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong đầu tư tại Lào; Thành lập

bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường, liên tục cập nhật các thông tin về
18
hệ thống luật pháp, các thay đổi trong cơ chế, chính sách, hoạt động của
thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính tại Lào…;Tiến
hành điều tra thị trường Lào một cách trực tiếp thông qua các chuyến đi
thực tế tại Lào; Thường xuyên tham gia các buổi hội thảo xúc tiến đầu tư
của Lào, các chương trình tập huấn về đầu tư ra nước ngoài do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư tổ chức.
Không ít doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư tại Lào phàn nàn rằng, mặc
dù ở cấp Trung ương, Chính phủ Lào tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
các dự án của Việt Nam, nhưng trong quá trình triển khai ở các địa
phương, họ gặp nhiều thủ tục hành chính phức tạp. Doanh nghiệp Việt
Nam nên kịp thời thông báo với Chính phủ Lào về những khó khăn mà họ
gặp phải trong quá trình đầu tư tại Lào để cả hai phía cùng bàn bạc những
biện pháp giải quyết. Chính phủ Lào đã và đang tích cực tuyên truyền,
giáo dục đạo đức công chức, sẽ xử lý kiên quyết những đối tượng có hành
vi tiêu cực, nhũng nhiễu các nhà đầu tư.
3.2.3 Các giải pháp cụ thể
Giải thích cho tình hình hoạt động và những khó khăn nêu trên trước hết
là ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài nói chung cũng như việc đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng
nói riêng. Bao gồm các chính sách như: chính sách tài chính- tiền tệ, chính
sách xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối… các chính sách này liên quan
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư, nếu các nhà đầu tư nhận thấy rằng
đầu tư trong nước mang lại nhiều hiệu quả hơn so với đầu tư ra nước
ngoài thì các nhà đầu tư sẽ không thực hiện hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nữa, mà thay vào đó sẽ tập trung đầu tư trong nước, khả năng xuất
khẩu , khả năng nhập khẩu cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp.
19

Thay đổi tư duy về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng: Nhà nước
ở đây cụ thể hơn là Ngân hàng Nhà nước cần phải coi hoạt động này là
một hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng không kém gì hoạt động thu
hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài , vì cả lý thuyết và thực tiễn.
Cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách theo hướng tăng
cường khuyến khích các ngân hàng Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài bằng cách Đơn giản hoá thủ tục đăng ký và cấp giấy phép, tiến tới
xoá bỏ hình thức cấp giấy phép chuyển sang đăng ký đầu tư; Rút ngắn
thời gian cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt
Nam.
Chính phủ cần yêu cầu các bộ, ngành có liên quan đến hoạt động của các
doanh nghiệp ở nước ngoài nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, điều
chỉnh hoạt động kinh tế mới này, đồng thời quy định rõ chế độ và nội
dung báo cáo đối với các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài để thực
hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. Cần thành lập hiệp hội đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như ngành ngân hàng nói
riêng để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam giải
quyết các vướng mắc.
Về mặt cơ chế chính sách cần tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư
trên tầm vĩ mô trước hết là ở các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có nguyện
vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc
giữa Chính phủ với các doanh nghiệp có dự án đầu tư trực tiếp ở nước
ngoài, với Chính phủ tại nước sở tại để giải quyết các bất cập trong quá
trình đầu tư ra nước ngoài, hoặc là cung cấp các thông tin cần thiết như
quan hệ cung cầu hàng hoá, triển vọng phát triển của thị trường nước
ngoài, môi trường đầu tư của nước sở tại, thông tin về đối tác đầu tư và
các cơ hội đầu tư mới.
20

- Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Theo đó, Việt Nam cần đàm phán, ký kết các hiệp định đầu tư đa
biên nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các doanh nghiệp và tạo cơ chế
pháp lý ổn định để giải quyết các tranh chấp có thể nảy sinh khi thực hiện
đầu tư ra nước ngoài.
KẾT LUẬN
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào ngày càng phát triển đi vào
chiều sâu, thiết thực và hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực. Ðây là tài sản vô
giá của hai nước, hai dân tộc, cần được tiếp tục vun đắp và gìn giữ cho
muôn đời sau”.
21
Trong tiến trình hội nhập, đầu tư sang Lào là một hướng đi đúng
đắn đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhằm từng bước nâng cao hình
ảnh cũng như vị thế của doanh nghiệp Việt nam trên trường quốc tế.
Trong quá trình đầu tư sang Lào các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đã
gặt hái được không ít thành công và trở thành một trong những nhà đầu tư
lớn nhất tại Lào. Tuy vậy việc tiến hành đầu tư đã gặp không ít vướng
mắc từ phía cơ chế chính sách cũng như từ chính năng lực của doanh
nghiệp. Nâng cao năng lực nhận thức về vai trò của nhà đầu tư cũng như
thực hiện tốt văn bản quy định, thoả thuận hợp tác đầu tư giữa Việt Nam
và Lào là cơ sở để doanh nghiệp Việt Nam có được môi trường ban đầu
thuận lợi tiến hành đầu tư tại Lào. Các doanh nghiệp Việt Nam cần năng
động, linh hoạt hơn nữa mới có thể hoạt động kinh doanh. Đây là dấu hiệu
đo lường sức khoẻ, sức cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam. Họ
không chỉ phát triển mạnh mẽ trong nước mà còn từng bước thâm nhập và
khẳng định thương hiệu tại thị trường quốc tế.
22

×