Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thị trường trái phiếu và thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.26 KB, 28 trang )

Luận văn
Thị trường trái phiếu và
thực trạng thị trường trái
phiếu Việt Nam
MỤC LỤC
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
2
MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân trên 8%/năm. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thì yếu tố
nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế chiếm giữ vai trò quan trọng.
Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết
quả hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy động từ
dân cư, các tổ chức kinh tế, giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước ngoài, gồm
vốn FDI, ODA, FPI, là động lực và cơ sở để thay đổi công nghệ. Điều này thể
hiện chính sách, thể chế, luật pháp của Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới
kịp thời nhằm phù hợp hơn với xu thế quốc tế hóa. Tuy nhiên, việc huy động vốn
trong nước cũng chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động dài hạn thì việc phát
triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị
trường chứng khoán, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh
tế đất nước.
Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển đáng kể cả về
quy mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay chỉ tập trung
phát triển thị trường cổ phiếu mà chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát triển thị
trường trái phiếu. Do vậy, thị trường trái phiếu là thị trường hết sức tiềm năng, cần
có cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển thị trường này trong tương lai.
Với tính cấp thiết của việc phát triển thị trường trái phiếu mà em chọn đề tài
“Thị trường trái phiếu và thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam”.
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
1


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
I. Tổng quan về trái phiếu
1. Khái niệm
Trái phiếu (TP) là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu (Trái chủ) đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát
hành, gồm Chính phủ, Chính quyền địa phương và doanh nghiệp.
2. Đặc trưng:
Một trái phiếu thường có những đặc trưng sau:
2.1. Mệnh giá:
Là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại diện cho
số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm đáo hạn.
Ở VN, mệnh giá của trái phiếu được ấn định là 100.000 VNĐ và các mệnh
giá khác là bội số của 100.000 VNĐ. Mệnh giá của trái phiếu được xác định phụ
thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
2.2.Tỷ suất sinh lời của trái phiếu:
Là lãi suất danh nghĩa của trái phiếu quy định mức lãi mà nhà đầu tư hưởng
hàng năm. Thông thường có 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/ lần.
Mỗi trái phiếu có ghi lãi suất của tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán
cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể theo định
kỳ.
Lãi suất danh nghĩa được xác định bởi các điều kiện thị trường tại thời điểm
chào bán trái phiếu.
Số tiền lãi nhà đầu tư nhận được hàng năm = lãi suất coupon x MG.
2.3. Giá mua:
Giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để có được
quyền sở hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng, cao, hoặc thấp hơn mệnh giá. Tuy
nhiên dù giá mua thế nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá. Và đến
ngày đáo hạn, trái chủ sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái phiếu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu:

+ Kỳ hạn của trái phiếu: kỳ hạn càng dài, tính biến động của trái phiếu càng
lớn trước sự biến động của lãi suất thị trường.
+ Lãi suất tín dụng dài hạn: khi lãi suất này hạ thấp thì nhiều nhà đầu tư mua
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
2
TP làm cho cầu TP tăng và giá TP tăng và ngược lại
+ Tình hình lạm phát: khi nhà đầu tư mua TP các công ty phát hành cam kết
sẽ trả một lãi suất cố định trong suốt kỳ hạn của TP. Do đó khi lạm phát xảy ra, giá
TP sẽ giảm.
+ Tình hình kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp phát hành
+ Rủi ro về tỷ giá
+ Rủi ro thanh lý: rủi ro về tính thị trường phụ thuộc vào khả năng bán dễ
dàng một TP mới.
+ Rủi ro do biến cố bất ngờ
+ Rủi ro TD: nguy cơ công ty phát hành không có khả năng chi trả đúng hạn,
tức là không có khả năng chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn
2.4. Thời hạn:
Thời hạn của trái phiếu là số năm theo đó người phát hành hứa hẹn đáp ứng
những điều kiện của nghĩa vụ.
Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa quan trọng vì lợi tức trái phiếu phụ thuộc vào
thời hạn của nó.
2.5. Quyền mua lại:
Đối với loại trái phiếu có điều khoản chuộc lại cho phép tổ chức phát hành
trái phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc với mức giá dự kiến trước thời hạn
thanh toán. Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi
suất cao hơn đối với số tiền mà họ vay. Tổ chức phát hành thu hồi trái phiếu khi tỷ
lệ lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi suất của trái phiếu của tổ chức phát hành đã
phát hành trước đó và có thể phát hành trái phiếu mới với tỷ lệ lãi suất thấp hơn.
3. Phân loại trái phiếu
3.1. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng:

- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng
chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng
nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng
để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện
cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh
toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
3
toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và
địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm
mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm
công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro
thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi
suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi
suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn
cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng
hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương
hoặc chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu doanh nghiệp: là các trái phiếu do các công ty phát hành để
vay vốn dài hạn.Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham
dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi
định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh
giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các

cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho
khoản vay.
Trái phiếu doanh nghiệp bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế
chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này
được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền
đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng
tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những
trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm,
nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ
được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ
theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc
chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
4
gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một
bên nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán
trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song
lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với
những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền
bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động
trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể
thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi
trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng

khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
3.3. Theo thời gian đáo hạn:
+ Trái phiếu ngắn hạn: thời hạn 1 đến 5 năm:
+ Trái phiếu trung hạn: thời hạn 5 đến 15 năm
+ Trái phiếu dài hạn: trên 15 năm.
+ Trái phiếu vô hạn: không ghi ngày đáo hạn
3.4. Căn cứ theo phương thức trả lãi
+ Trái phiếu lợi tức
+ Trái phiếu chiết khấu
3.5. Căn cứ theo phạm vi lưu thông
+ Trái phiếu quốc nội
+ Trái phiếu quốc tế
4. Điều kiện phát hành
Đối với chủ thể phát hành là doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện sau:
- Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp tại
thời điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có
lãi, đồng thơi không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản
nợ phải trả quá hạn trên 1 năm.
- Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả vốn thu được từ đợt
phát hành trái phiếu.
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
5
- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về
điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
và các điều kiện khác.
II. Thị trường trái phiếu
1. Khái niệm
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ
chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức

năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh
tế.
Thị trường trái phiếu là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho
đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói
riêng và nền kinh tế nói chung.
2. Phân loại thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
2.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên
thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc
nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành
Vài trò của thị trường sơ cấp
- Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy
động qua việc phát hành chứng khoán
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhà
rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền san dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người
phát hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng
hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp
làm tăng vốn đầu tư.
- Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường là
Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành,
- Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất
định, trong thời gian hạn định.
2.2. Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
6
trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền nhượng quyền sở hữu trái phiếu.

Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành.
Đặc điểm thị trường thứ cấp
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu
thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà
phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành
trái phiếu mà vận chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường. Thị
trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó chặt chẽ
với thị trường sơ cấp.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá
trái phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có
thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
2.3. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị
trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Không có thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp. Thị
trường thứ cấp là một lọai thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn
chưa có một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại trái phiếu đa dạng,
phong phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu tư trái
phiếu.
Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự
phát triển của thị trường sơ cấp, vì một khi trái phiếu đã được phát hành ra trên thị
trường, nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra
tính thanh khoản cho trái phiếu thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra
mua trái phiếu.
Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho lưu
động hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt.
Vốn khả dụng thanh khoản cao của trái phiếu mà tính chất năng động của thị
trường thứ cấp đã hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu. Điều này chính
là điều kiện cơ bản để các nhà phát hành trái phiếu có thể bán được trái phiếu trên

thị trường sơ cấp và huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu.
3. Các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành trái phiếu chính phủ
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
7
và trái phiều chính quyền địa phương.
- Ngân hàng: Các ngân hàng thương mại tham gia thị trường trái phiếu với tư
cách là nhà phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn trung dài hạn, đáp ứng nhu cầu
kinh doanh, cho vay tín dụng của ngân hàng.
- Tổ chức tài chính: công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư là các tổ chức kinh doanh
trên thị trường chứng khoán.
- Doanh nghiệp: phát hành trái phiếu doanh nghiệp, đó là các công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Cá nhân, hộ gia đình là các nhà đầu tư - những người thực sự mua và bán
trái phiều trên thị trường trái phiếu.
4. Vai trò thị trường trái phiếu đối với việc huy động vốn cho Doanh nghiệp:
Thị trường TPDN là một trong những kênh huy động vốn trung và dài hạn cho
các DN và là nơi tạo ra tính thanh khoản cho các công cụ trên thị trường vốn thông
qua hoạt động mua bán trao đổi TP giữa những người có nhu cầu tham gia trên thị
trường. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để đạt được sự tăng trưởng và
phát triển bền vững thì nhất thiết phải sử dụng nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư
vào những dự án mang tính chiến lược lâu dài. Do vậy, việc hình thành, phát triển
TTTP nói chung và TTTPDN nói riêng là điều kiện không thể thiếu.
• Đối với sự phát triển của nền kinh tế:
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ những năm cuối thập kỷ 90 và
đặc biệt là từ những bất ổn trên thị trường tài chính – tiền tệ, thị trường hàng hóa
trong thời gian vừa qua càng cho chúng ta thấy được một cách sâu sắc hơn ý nghĩa
của TTTPDN đối với nên kinh tế.
Trước hết, đứng trên góc độ quản lý vĩ mô, TTTPDN có tác dụng phân tán
sự tập trung vào hệ thống NH bằng cách đa dạng hóa các rủi ro tín dụng trong nền

kinh tế và góp phần tạo một nguồn cung cấp tín dụng khác cho các doanh nghiệp.
Nhờ vậy gánh nặng của các NH được giảm bớt và rủi ro các hoạt động cho vay đã
được san sẻ phần nào sang một lực lượng người cho vay đông đảo – những nhà đầu
tư TP trên thị trường. Từ đó, TTTPDN có thể thu hút được những khoản vốn manh
nha, nhàn rỗi trên thị trường để đáp ứng được những dự án có nhu cầu vốn lớn với
mức rủi ro được phân tán.
Thứ hai, TTTPDN phát triển sẽ trở thành một trong những công cụ điều tiết
nguồn vốn trung dài hạn ở tầm vĩ mô, góp phần nâng cao hiệu quả của việc phân
phối và tái phân phối các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Để làm được điều
này thì cần phải có một thị trường thứ cấp về TPDN phát triển. Khi đó, nguồn cung
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
8
và cầu vốn sẽ dễ dàng gặp nhau, hạn chế được những rắc rối về phía các NH do
không kiểm soát được nguồn vốn cho vay trong điều kiện dự thừa vốn; và khi thị
trường đang khan hiếm vốn thì các NH lại không đủ sức giải ngân hết tất cả các
khoản vay từ đó có thể bỏ lở những cơ hội đầu tư tốt.
Thứ ba, phát triển TTTPDN là việc làm cần thiết giúp thỏa mãn nhu cầu
giao dịch, trao đổi, mua bán của những đối tượng tham gia, sở hữu nhằm nâng cao
tính thanh khoản của TP góp phần làm tăng tốc dòng tiền cho nền kinh tế. Từ đó,
giúp TP trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư. Mặt khác thông qua kênh huy động
vốn này các nhà đầu tư cũng như người cần vốn có thể lựa chọn phương thức vay
hay cho vay phù hợp nhất với mình.
Bên cạnh đó, việc phát triển TTTPDN góp phần làm giảm nguy cơ khủng
hoảng cán cân nợ giúp nền kinh tế phát triển bền vững hơn. Việc phát hành TPDN
giúp làm tăng giá trị các khoản nợ huy động được trên các thị trường nội địa, hạn
chế bớt việc đi vay nước ngoài từ đó hạn chế được sự ảnh hưởng của những biến
động tỷ giá hối đoái
•Đối với các doanh nghiệp phát hành
Doanh nghiệp có thể thông qua TTTP để huy động vốn từ đông đảo công
chúng đầu tư với thời hạn vay đa dạng, đặc biệt là thích hợp với những dự án đầu tư

trung dài hạn, với chi phí đi vay thấp hơn so với các khoản vay NH.
Đối với các dự án đầu tư dài hạn, DN phải chi ra một lượng vốn lớn trong
thời gian dài. Tuy nhiên, các NHTM do một số điều kiện hạn chế nên khó có thể
đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn lớn như vậy. Khắc phục hạn chế trên, TTTP có
thể đáp ứng nhu cầu này của DN. Việc tài trợ vốn bằng cách phát hành TP không bị
hạn chế về quy mô, tức là doanh nghiệp có thể huy động một số vốn lớn bất kỳ nào
đó nếu có nhu cầu, với điều kiện DN phát hành phải thuyết phục bằng một phương
án sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn
trả lãi, vốn gốc khi đáo hạn. Điều này có thể giúp DN thực hiện kịp thời và đầy đủ
những dự án, kế hoạch của mình. Chính vì vậy, việc này còn đòi hỏi DN phải không
ngừng củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh trạnh và hiệu quả
kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu tư.
Ngoài khả năng đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn lớn, TTTP còn là kênh huy
động vốn có chi phí phát hành, chi phí sử dụng vốn tương đối rẻ hơn so với các hình
thức khác. Các DN có thể tìm kiếm được nguồn vốn phù hợp với đặc tính của mình
nhờ sự đa dạng của TTTPDN.
•Đối với nhà đầu tư:
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
9
TTTPDN còn là nơi cung cấp các sản phẩm đầu tư dài hạn. theo cấu trúc thời
hạn của lãi suất, những khoản đầu tư có thời hạn càng dài thì lãi suất yêu cầu đối
với nó càng cao và ngược lại. Đặc biệt, trong điều kiện TTCK và thị trường tín
dụng gặp nhiều song gió thì TTTPDN được xem như là nơi trú ngụ an toàn nhằm
giảm sự tác động từ những cơn bão đó.
Các nhà đầu tư có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình khi chọn đầu
tư vào TTTPDN. Từ đó, mang lại cho nhà đầu tư thu nhập ổn định, ít rủi ro. Khi
đầu tư vào thị trường trái phiếu DN, người đầu tư trở thành chủ nợ của công ty phát
hành TP. Cho nên các nhà đầu tư sẽ được DN trả lãi TP cho dù tình trạng kinh
doanh ra sao
Như vậy, đối với những người không muốn chấp nhận rủi ro, không muốn

mạo hiểm thị TTTPDN có thể là nơi đầu tư cần xem xét đến.
•Đối với TTCK và thị trường tiền tệ:
Có thể nói rằng TTTPDN đã làm đa dạng hóa hình thức huy động vốn trên
TTCK, tránh tình trạng quá tập trung vào TTCP gây mất thế cân bằng giữa thị
trường vốn và thị trường nợ trên TTCK. Hơn thế nữa, nó còn là một công cụ tài
chính hữu hiệu nhất trong việc “nối” TTCK với thị trường tiền tệ - tín dụng trong
vai trò “chạy tiếp sức” và làm tăng tính thanh khoản cho TTCK. Thúc đẩy cả TTCK
và thị trường tiền tệ phát triển mạnh tránh tình trạng mất cân bằng giữa hai thị
trường.
Ngoài việc giúp tạo thế cân bằng giữa các thị trường, nó còn làm giảm bớt áp
lực lên thị trường cổ phiếu và tín dụng, đặc biệt khi những thị trường này gặp nhiều
biến động như trong thời gian gần đây.
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
10
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
I. Nhận xét chung về Thị trường trái phiếu VN.
Hiện nay thị trường trái phiếu Việt Nam mới trong giai đoạn đầu phát triển
với sự tồn tại của thị trường trái phiếu Chính phủ. Dư nợ trái phiếu còn rất thấp
(khoảng 7% GDP) so với các thị trường trong khu vực (Trung Quốc 21%, Thái Lan
33%, Malaysia 62%), chủ thể phát hành không đa dạng, chưa có hệ thống các nhà
tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế. Hơn nữa,
một thị trường để giúp hai đối tượng rất quan trọng là doanh nghiệp và chính quyền
địa phương huy động vốn lại hầu như chưa tồn tại. Để đạt được mục tiêu tăng
trưởng kinh tế bình quân 7,5%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010, nhu cầu vốn đầu tư
của toàn bộ nền kinh tế là rất lớn, khoảng 30 - 35% GDP/năm. Do đó, hiện nay Việt
Nam đang triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu
nội địa, đặc biệt là tạo kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp và các
chính quyền địa phương trong bối cảnh Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế theo
hướng xoá bỏ bao cấp của nhà nước cho khu vực doanh nghiệp và phân cấp ngân

sách cho chính quyền địa phương.
II. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay
2.1 Các chủ thể phát hành trái phiếu hiện nay
- Chính phủ: Chính phủ phát hành trái phiếu nhằm thu hút vốn cho đầu tư
phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm quốc gia, phục vụ phát
triển kinh tế.
- Chính quyền địa phương: Chủ yếu cho các địa phương huy động vốn phục
vụ cho việc xây dựng các công trình cơ sở vật chất hạ tầng tại địa phương của mình,
chủ yếu phát hành thông qua công chúng của chính địa phương đó thông qua
KBNN.
- Ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu
nhằm huy động vốn trung dài hạn, đáp ứng nhu cầu kinh doanh, cho vay tín dụng
của ngân hàng.
- Doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia thị trường vói tư cách là nhà
phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp, doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm
huy động vốn, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh.
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
11
2.2. Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu VN hiện nay
- Trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước: Hàng hoá giao dịch
trên thị trường trái phiếu chủ yếu là Trái phiếu Chính phủ nên chưa tạo được sức
hấp dẫn cho nhà đầu tư.
Trong khi thị trường CP có nhiều phát triển vượt bậc thì thị trường TP đang
"bò đi" từng bước. Nhiều đợt đấu giá TP CP gần đây mặc dù khối lượng đăng ký
đấu thầu tương đối cao, bình quân gấp 3 lần khối lượng gọi thầu, nhưng tỉ lệ thành
công lại có xu hướng giảm dần. Cụ thể, quý I/2007 tỉ lệ thành công đạt 99%; quý
II/2007 giảm xuống 82,46% và đến cuối quý III/2007 giảm còn 58,39%. Nguyên
nhân chủ yếu do việc đưa ra mức lãi suất trần thấp, chỉ 7,05 - 7,8%/năm (có đợt chỉ
là 6,5%/năm) đối với TP kỳ hạn 5 năm; 7,95% - 8,6%/năm đối với TP kỳ hạn 10
năm; 8 - 8,8%/năm đối với TP kỳ hạn 15 năm, trong khi kỳ vọng về lãi suất của

NĐT ngày một cao, xuất phát từ việc tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%.Cùng với
sự ra đời của hai trung tâm giao dịch chứng khoán là tại Tp.HCM và Hà Nội, các
trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ cũng bắt đầu được giao dịch một
cách rộng rãi hơn so với trước đây nhưng vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư có tổ chức, do đó, khối lượng giao dịch rất ít.Điều này có thể bắt nguồn
từ quy mô của thị trường, cơ sở vừa yếu vừa thiếu của hạ tầng thanh toán trong hệ
thống tài chính Việt Nam. Cụ thể bao gồm một số điểm sau:Trước hết, quy mô của
trái phiếu nói chung và trái phiếu chính phủ nói riêng hiện chiếm tỉ lệ rất thấp trong
tổng tài sản tài chính cả nước với chỉ bằng 8% so với GDP, con số này khoảng 5 tỷ
USD rất nhỏ bé nếu so với mức đủ để đạt tính thanh khoản 100-200 tỷ USD.Huy
động vốn thông qua loại hình trái phiếu hiện chưa phải là kênh phổ biến mà chủ yếu
là thông qua hệ thống ngân hàng với tổng tài sản chiếm đến 80% cơ cấu tài sản tài
chính. Điều này tạo sự bất cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay của hệ
thống ngân hàng, thiếu một kênh huy động vốn dài hạn để phục vụ cho các mục tiêu
phát triển lâu dài. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm tăng chi phí vốn cho nền kinh
tế.
Mặt khác, lượng trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ hiện chủ yếu được
giao dịch hoặc nắm giữ bởi các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính tương đương
cũng làm cản trở sự phát triển của thị trường trải phiếu. Điều này tạo sự đơn điệu
trong danh mục đầu tư, dẫn đến giá trái phiếu có mức biến động đáng kể khi các
nhà đầu tư này thực hiện bán ra hoặc mua vào.
Khối lượng phát hành mỗi đợt tương đối nhỏ chỉ khoảng 20 - 30 triệu
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
12
USD/đợt khó thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư có tổ chức và vì vậy cũng làm
giảm sức hấp dẫn của trái phiếu chính phủ.
Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các
công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm
giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình.
Hệ thống thanh toán chưa có sự liên thông giữa các thị trường trong khu vực,

dẫn đến nhà đầu tư gặp khó khăn khi giao dịch xuyên biên giới và điều này cũng
làm cho nhà đầu tư không mặn mà mấy với loại hình chứng khoán này.
Tuy vậy, những đợt phát hành vừa qua cho thấy nhu cầu của nhà đầu tư đang
rất quan tâm đến thị trường trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ, khối
lượng đặt mua thường từ 2000 - 3000 tỷ VND, gấp 4 - 5 lần mức phát hành.
Rất may là xu hướng này đang dần được khắc phục (với lãi suất trái phiếu
phát hành đang giảm dần trong những đợt gần đây, từ 7.9% đợt 1/2007 xuống còn
7.2% trong đợt 5/2007). Điều này có thể thấy rõ qua định mức tín nhiệm quốc gia
được các tổ chức trên thế giới nâng lên cao hơn so với trước.
Tính đến 30-9-2007, đã có hơn 114.809 tỉ đồng trái phiếu được niêm yết giao
dịch trên Sở GDCK TPHCM (HOSE) và Trung tâm GDCK Hà Nội (HASTC), tăng
gấp hơn 104 lần so với giá trị niêm yết năm 2000. Bên cạnh trái phiếu Chính phủ
niêm yết với tỷ trọng trên 90% tổng giá trị trái phiếu niêm yết còn có trái phiếu
chính quyền địa phương và trái phiếu của các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, mức vốn hóa thị trường trái phiếu hiện nay khoảng 8% GDP là
khá thấp nếu như so sánh với thị trường trái phiếu của các nước trong khu vực (bình
quân khoảng 50-70%, trừ Nhật Bản trên 100% GDP ). Điều đó có nghĩa là kênh huy
động vốn của Chính phủ thông qua thị trường trái phiếu để đáp ứng nhu cầu đầu tư
của ngân sách còn hạn chế và vì vậy cần có sự đầu tư thích đáng hơn cho thị trường
này.
Trên thị trường trái phiếu Chính phủ hiện nay, được chào đón và thu hút
nhiều nhất các nhà đầu tư là trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ trên thị trường quốc
tế.VN đã tăng gấp rưỡi lượng trái phiếu phát hành, lên 750 triệu USD trị giá trái
phiếu thay vì 500 triệu USD như dự tính ban đầu được giao dịch ở thị trường này.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ trong đợt phát hành này đã được điều chỉnh giảm
xuống mức 7,125%, thay cho mức dự tính ban đầu là 7,250%. Lãi suất này cao hơn
so với Trái phiếu kho bạc Mỹ là 4,561%/trái phiếu 10 năm.Đây là bước đầu tiên
giúp VN bước chân vào thị trường tài chính quốc tế. Điều đáng mừng là cầu trái
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
13

phiếu này cao hơn mong đợi rất nhiều. Các nhà đầu tư quốc tế đã đưa ra các đề nghị
đặt mua với tổng số lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào, để dành quyền
mua số trái phiếu nói trên.Theo thống kê ban đầu của Ngân hàng Credit Suisse First
Boston, các nhà đầu tư đặt mua lớn trái phiếu VN chủ yếu đến từ châu Á, châu Âu
và tại nước Mỹ. Một nửa trong số đó là các hãng quản lý tài sản. Các ngân hàng và
hãng bảo hiểm cũng chiếm phần lớn.Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được
nhận định là do nhiều nguyên nhân từ chính VN. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế
tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế VN sau khi chứng kiến hơn 10 năm
đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi
mới ở VN. UNDP còn coi VN là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển
đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt
của cuộc sống kinh tế. Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc VN được coi
là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung
Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái
phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước
này thời gian qua không ổn định lắm.Thứ ba, việc các tổ chức định mức tín nhiệm
quốc tế như gần đây liên tiếp nâng mức xếp hạng của VN cũng là một nguyên nhân
quan trọng. S&P đã nâng mức tín nhiệm của VN từ BB- lên BB. Moody cũng nâng
lên mức Ba3 trong khi một tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế nổi tiếng khác là
Fitch cũng xếp VN hạng BB
Số tiền thu được sẽ được bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh
với tốc độ trung bình từ 7 – 8% của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài
đang tăng nhanh tại đây.
- Trái phiếu chính quyền địa phương: Chủ yếu cho các địa phương huy
động vốn phục vụ cho việc xây dựng các công trình cơ sở vật chất hạ tầng tại địa
phương của mình, chủ yếu phát hành thông qua công chúng của chính địa phương
đó thông qua KBNN.
Hiện nay, chỉ có hai địa phương là Hà nội và TP.HCM là thực hiện phát hành
trái phiếu chính quyền địa phương thường xuyên, với số lượng lớn nhằm huy động
vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi tại địa phương.

- Trái phiếu doanh nghiệp: Sau khi Chính phủ ban hành nghị định 120/CP
ngày 17/9/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước, thị
trường trái phiếu bắt đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên, phải đến năm 1996, thị
trường trái phiếu doanh nghiệp mới có những bước đột phá mới, khởi đầu bằng việc
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
14
Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) huy động được 5 triệu USD.
Năm 1998, Công ty Cổ phần Công nghệ thông tin EIS huy động được 10 tỷ.
Năm 2003, Tổng công ty Dầu khí huy động được 300 tỷ; Tổng công ty Xi măng
được 200 tỷ đồng; EVN được 300 tỷ. Việc huy động vốn trên thị trường trái phiếu
trong giai đoạn này hầu như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành chủ yếu là các
tổ chức tín dụng và rất ít các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặc mới cho thị trường trái phiếu doanh
nghiệp Việt Nam khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP chính thức được ban hành. Theo
đó, chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước như trước
đây mà còn có các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với một nguyên tắc chung là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự
chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin.
Trong năm 2006, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) huy
động được 800 tỷ đồng, Tập đoàn EVN: 5.000 tỷ đồng. Đến tháng 7/2007, Vinashin
phát hành thêm được 3.000 tỷ đồng, Vilexim được 5 tỷ, Tổng công ty thép được
400 tỷ đồng, Vinaconex huy động được 1.000 tỷ đồng.
Đối với DN, việc phát hành TP có nhiều ưu điểm so với phát hành CP. Phát
hành TP được nhiều DN lớn lựa chọn bởi nó giảm áp lực cho ban điều hành. Bên
cạnh đó, nó cũng giúp các DN giảm chi phí lãi so với việc đi vay và phát hành CP.
Nếu huy động vốn thông qua chào bàn CP, DN thường hứa hẹn phải trả tỉ lệ cổ tức
khoảng 15%/năm, thậm chí 20%/năm, muốn đảm bảo mức cổ tức này thì lợi nhuận
sau thuế của DN tối thiểu 20-25% vốn điều lệ.
Nếu chọn phương pháp vay NH, thì Cty sẽ phải chịu mức lãi suất bình quân
11-15% đối với khoản vay có kỳ hạn trên 1 năm. Trong khi kênh huy động vốn

bằng phát hành TP, lãi phải trả cho trái chủ lớn nhất chỉ khoảng 10,5%/năm đối với
TP coupon có kỳ hạn 5 năm. Hơn nữa, lãi suất trả cho trái chủ hàng năm được tính
như một khoản chi phí của DN (trong chi phí thuế), nên DN sẽ giảm được áp lực về
chi phí vốn trong quá trình điều hành.
Mặt khác, phát hành CP thường gây hiệu ứng pha loãng làm giảm thị giá CP,
vì vậy huy động vốn thông qua phát hành TP sẽ được nhiều Cty lựa chọn như một
phương pháp vẹn cả đôi đường. Không chỉ là kênh huy động vốn có chi phí trả lãi
thấp, phát hành TP còn đòi hỏi thời gian ít hơn so với thời gian đi vay hoặc phát
hành CP.
Hiện nay Nhà nước rất ưu ái trong việc phát hành TP DN nên chỉ mất khoảng
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
15
6 đến 8 tuần DN có thể hoàn tất hồ sơ phát hành. Tuy nhiên, nếu đi vay NH hay
phát hành CP, DN sẽ mất nhiều thời gian hơn cho khâu chuẩn bị và xét duyệt hồ sơ.
Phát hành TP cho phép DN huy động được lượng vốn lớn. Nếu DN có nhu cầu trên
1.000 tỉ đồng thì họ có thể tiếp cận nguồn vốn từ phát hành TP dễ dàng hơn so với
việc đi vay hay phát hành CP.
Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp
vẫn được đánh giá là hầu như chưa phát triển. Các nhà đầu tư chủ yếu “mua” và
“giữ” trái phiếu tới khi đáo hạn. Các dịch vụ liên quan nhằm hỗ trợ thị trường hầu
như chưa có. Một số chuẩn mực kế toán quốc tế quan trọng chưa được ban hành.
Thị trường TP DN cho đến nay vẻn vẹn chỉ có 12 DN phát hành TP DN. Sau
1 năm thực hiện Nghị định 52, trên thị trường TP quanh đi quẩn lại cũng chỉ có vài
gương mặt cũ tham gia, như: Vinashin, TCty Thép VN, TCty Sông Đà, Tập đoàn
Điện lực (ngoài Vinaconex huy động 1.000 tỉ đồng, Vilemim huy động 5 tỉ đồng ).
Gần đây các NHTM cũng tham gia phát hành trái phiếu có cả Trái phiếu
chuyển đổi như ACB, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, SCB,
VCB.Tuy nhiên chỉ có những DN, NH có uy tín, làm ăn hiệu quả, có cáo bạch rõ
ràng, phương án sử dụng vốn hiệu quả thì mới có thể tham gia phát hành trái phiếu
được.

Trong bối cảnh thị trường chứng khoán thế giới và Việt Nam khá ảm đạm,
việc phát hành thành công 400 tỷ trái phiếu VEC đã cho thấy trái phiếu các dự án
của VEC đã có được độ tin cậy và hấp dẫn các nhà đầu tư. Đối tượng của đợt phát
hành lần này là các tổ chức tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm. Khối lượng bảo
lãnh phát hành lớn, tính thanh khoản của trái phiếu VEC trong tương lai sẽ rất tốt và
Công ty chứng khoán cũng sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện mua bán lại để tăng
tính thanh khoản của trái phiếu đó là những đặc điểm của trái phiếu này.
Việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu được xem là phương thức
mang lại nhiều lợi ích như huy động vốn từ các thành phần kinh tế, hạn chế sự phụ
thuộc vào nguồn vốn cấp phát, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, xã hội
hóa việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Mặt khác, việc phát hành trái phiếu cũng
cung cấp cho thị trường và các nhà đầu tư một công cụ tài chính, giúp đa dạng hóa
danh mục đầu tư và giảm thiểu rủi ro.
Điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay:
Đối với chủ thể phát hành là doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện sau:
+ Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp tại
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
16
thời điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
+ Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có
lãi, đồng thơ không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ
phải trả quá hạn trên 1 năm.
+ Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả vốn thu được từ đợt
phát hành trái phiếu.
+ Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về
điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
và các điều kiện khác.
2.3. Các phương thức phát hành trái phiếu ở Việt Nam hiện nay
- Phát hành thông qua hình thức bảo lãnh phát hành: bao gồm các hình thức
bảo lãnh từng phần, đồng bảo lãnh, tổ hợp bảo lãnh và bảo lãnh toàn bộ.

- Phát hành thông qua Đại lý phát hành.
- Phát hành thông qua phương thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và
không cạnh tranh lãi suất.
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái
phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn
lại chưa phân phối hết.
Đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành uỷ thác cho các tổ chức khác thực
hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý
phát hành được trả lại số trái phiếu còn lại cho tổ chức phát hành.
Tổ hợp bảo lãnh phát hành là nhóm các tổ chức bảo lãnh phát hành có từ hai
tổ chức trở lên cùng tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu trên cơ sở hợp đồng
giữa các tổ chức bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh phát hành chính là tổ chức đại diện về quyền lợi và nghĩa
vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức
phát hành.
Đồng bảo lãnh phát hành chính là các tổ chức bảo lãnh phát hành chính đồng
đại diện về quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát
hành trái phiếu với tổ chức phát hành.
Đồng bảo lãnh là các tổ chức bảo lãnh phát hành trong tổ hợp bảo lãnh phát
hành có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái
phiếu với tổ chức phát hành.
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
17
III. Phát hành trái phiếu quốc tế
Trái phiếu quốc tế được Chính phủ chính thức phát hành lần đầu tiên vào
năm 2005 và đã thành công rực rỡ, 750 triệu USD trái phiếu đã bán hết veo trong
thời gian ngắn. Số lượng đặt mua lên tới 4,5 triệu USD, gấp 6 lần số bán ra. Lãi suất
trái phiếu cũng thấp hơn dự kiến ban đầu 7,125% thay vì 7,25% như dự kiến. Đây là
bước đầu tiên giúp Việt Nam bước chân vào cánh cửa thị trường vốn quốc tế. Theo

thống kê ban đầu của Ngân hàng Credit Suisse First Boston, các nhà đầu tư đặt mua
lớn trái phiếu Việt Nam chủ yếu đến từ châu Á, châu Âu và tại nước Mỹ. Một nửa
trong số đó là các hãng quản lý tài sản. Các ngân hàng và hãng bảo hiểm cũng
chiếm phần lớn.
Tiếp theo sự thành công của việc phát hành trái phiếu Quốc tế, trong năm tới
Chính phủ sẽ phát hành tối đa 1 tỷ USD, kỳ hạn 15 và 20 năm, trái phiếu Chính phủ
ra thị trường quốc tế vào cuối năm nay với mức lãi suất có thể sẽ cao hơn và quyết
định sẽ mà cho các tập đoàn, tổng công ty vay lại.
Quan điểm phát hành trái phiếu quốc tế:
Hiện nay xu hướng của Chính phủ là mong muốn doanh nghiệp tự phát hành
trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế. Tuy nhiên, ở thời điểm này, các điều kiện chưa
chín muồi bởi vì còn có một số yêu cầu như khả năng về đánh giá hệ số tín nhiệm,
về năng lực tài chính, kiểm toán, của các doanh nghiệp phát hành chưa được sẵn
sàng.
Trong khi đó, nhu cầu về vốn thì rất cấp bách, nhất là những dự án lớn. Sau
khi xem xét, cân nhắc thấy điều kiện thị trường hiện nay rất thuận lợi để có thể phát
hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, Chính phủ đã thông qua đề án phát hành trái
phiếu, quyết định không sử dụng khoản tiền này để cân đối tài chính ngân sách Nhà
nước mà cho vay lại đối với các tập đoàn, tổng công ty. Cụ thể, trong đợt phát hành
vừa rồi, dự kiến sẽ cho Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, phát triển đội tàu của
Tổng công ty Hàng hải VN (Vinalines) và cho phát triển ngành điện.
Những thuận lợi để phát hành trái phiếu quốc tế:
Hệ số tín nhiệm của Việt Nam tăng lên sẽ tác động vào lãi suất của mình một
cách tích cực. Tỷ lệ nợ/GDP của Việt Nam vẫn ổn định. Tỷ lệ nợ quốc gia đối với
nước ngoài chỉ là 31% GDP và nếu có thêm các khoản nợ tiếp theo thì mức độ vẫn
ở mức an toàn và dưới mức 50%
Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được nhận định là do nhiều nguyên
nhân từ chính Việt Nam. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
18

sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua.
Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở Việt Nam.
UNDP còn coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi
kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của
cuộc sống kinh tế.
Về cơ bản, kinh tế của Việt Nam đã được công nhận là đổi mới: Chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chuyển một
nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập,
hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt
Nam có lợi thế và có hiệu quả
Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc.
Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu
cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này
thời gian qua không ổn định lắm.
Thứ ba, việc các tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế như gần đây liên tiếp
nâng mức xếp hạng của Việt Nam cũng là một nguyên nhân quan trọng. S&P tuần
vừa rồi đã nâng mức tín nhiệm của Việt Nam từ BB- lên BB. Moody cũng nâng lên
mức Ba3 trong khi một tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế nổi tiếng khác là Fitch
cũng xếp Việt Nam hạng BB
Quan điểm của Chính phủ về việc phát hành trái phiếu quốc tế của doanh
nghiệp:
Xu hướng là Chính phủ vẫn là khuyến khích doanh nghiệp tự đứng ra phát
hành, vấn đề là bản thân doanh nghiệp phải tự chuẩn bị để đáp ứng được những yêu
cầu đề ra cho việc phát hành hay không. Và khi họ đáp ứng được những điều kiện
đó cũng như có thể đi vay được như Chính phủ thì đó là mong muốn nhất.
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
19
CHƯƠNG III

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM HIỆN NAY
Quan điểm về phát triển thị trường trái phiếu của Việt Nam trong thời gian
tới là nâng cao tỷ trọng trái phiếu trên GDP; gắn việc phát hành trái phiếu với phát
triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán; tăng cường khả năng quản lý, giám
sát để thị trường hoạt động an toàn, có hiệu quả; đáp ứng yêu cầu hội nhập của khu
vực và quốc tế: thị trường trái phiếu châu Á, liên kết thị trường vốn với Singapore
Thị trường trái phiếu của Việt Nam cần phát triển theo hướng thị trường hóa
với sự đa dạng hóa các chủ thể tham gia và hàng hóa giao dịch để tạo nền tảng cho
phát triển lâu dài của thị trường vốn nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng.
Theo đó, về cơ bản thị trường trái phiếu phải hình thành nên đường cong lãi suất dài
hạn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ có thời gian đáo hạn từ 10-20 năm.
Qua đây xin trình bày một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu:
I. Giải pháp dài hạn
1. Phát triển thị trường trái phiếu theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu
trúc, vận hành theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, có khả năng liên kết với các thị
trường khu vực và quốc tế.
2. Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị
trường; mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; phát
triển đầy đủ các định chế trung gian; đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp, … đảm bảo
có đầy đủ các yếu tố cấu thành một thị trường trái phiếu phát triển trong khu vực.
3. Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá; hài hoà
giữa mục tiêu huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu cho tăng trưởng kinh tế,
phát triển bền vững thị trường trái phiếu với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm
phát, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
4. Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra,
kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động trên thị trường.
II. Giải pháp trước mắt
1. Cần cụ thể hoá các tiêu chuẩn phê duyệt trái phiếu

Bộ Tài chính và Ngân hàng nước (NHNN) cần phải cụ thể hoá các tiêu chuẩn
phê duyệt phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương và trái
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
20
phiếu của các tổ chức tín dụng.
Để thị trường trái phiếu phát triển, Việt Nam cần có những biện pháp và hệ
thống đánh giá chuẩn hơn để xác định lãi suất phát hành hợp lý, qua đó giảm gánh
nặng nợ vay cho đất nước. Đồng thời, tăng khối lượng phát hành thay vì phát hành
nhiều đợt với số lượng nhỏ nhằm giảm chi phí phát hành và thu hút nhiều hơn các
nhà đầu tư có tổ chức tham gia.
Bên cạnh đó, thể chế pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô cần được cải
thiện hơn nữa nhằm nâng mức xếp hạng, đủ điều kiện để đạt được tiêu chuẩn đầu tư
của các nguồn quỹ lớn trên thế giới.
Bộ Tài chính nên tiến hành ban hành mẫu Bản cáo bạch chung cho các công
ty muốn phát hành trái phiếu và công bố thông tin về kế hoạch ngân sách trung hạn
của chính quyền địa phương.
2. Chính sách đa dạng hóa các chủ thể phát hành trái phiếu
Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương thức phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh
nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh
nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc
gia.
Cần có chính sách khuyến khích các Tổng công ty nhà nước phát hành trái
phiếu có mục đích để huy động vốn dài hạn cho đầu tư đổi mới công nghệ và tạo
hàng cho thị trường chứng khoán. Trước mắt, triển khai áp dụng cho các Tổng công
ty hoạt động ở những lĩnh vực hàng không, điện lực, bưu điện và dầu khí. Đây là
những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện rất cần được tăng cường đầu tư và phát triển để
tạo đà cho công nghiệp hóa.
Theo Luật doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp không phải là công ty cổ
phần thì không được quyền phát hành cổ phiếu, nhưng không có nghĩa là không

được quyền phát hành trái phiếu. Tuy vậy, thời gian qua do thiếu khuôn khổ pháp lý
về việc cho phép các công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành trái phiếu, nên hạn chế
rất nhiều khả năng tiếp cận đến thị trường chứng khoán của các loại hình công ty
này trong việc huy động vốn. Vừa qua, chính phủ ban hành Nghị định số
52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 (có hiệu lực từ 1/7/2006) cho phép các doanh
nghiệp phát hành trái khi có đủ các điều kiện như: có thời gian hoạt động tối thiểu 1
năm, có báo cáo tài chính năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán, kết quả
hoạt động sản xuất năm liền kề năm phát hành phải có lãi, có phương án phát hành
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
21
trái phiếu được cấp có thẩm quyền thông qua. Có thể nói, hành lang pháp lý này sẽ
tạo môi trường thuận lợi, giúp cho các doanh nghiệp quen dần “văn hóa chứng
khoán” và tiếp cận thị trường chứng khoán để gia tăng vốn và cải thiện cấu trúc
vốn.
3. Đa dạng hóa phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
Theo quy định pháp lý hiện hành (Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày
20/11/2003), trái phiếu chính quyền địa phương là loaị trái phiếu đầu tư có kỳ hạn
01 năm trở lên do UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài
chính tín dụng trên địa bàn phát hành nhằm huy động vốn cho các dự án đầu tư phát
triển cụ thể và nguồn hoàn trả lãi và gốc trái phiếu duy nhất là từ nguồn ngân sách
của địa phương. Theo đó, trái phiếu chính quyền địa phương cũng là một loại trái
phiếu nghĩa vụ chung. Như vậy, khung pháp lý cho việc phát hành trái phiếu địa
phương nên tập trung vào vấn đề điều chỉnh khả năng chi trả của chính quyền địa
phương. Theo Nghị định 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của chính phủ quy định
về một số cơ chế tài chính ngân sách đặc thù đối với TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội,
giới hạn khối lượng phát hành trái phiếu đô thị phải đảm bảo nguyên tắc tổng dư nợ
các nguồn vốn huy động của ngân sách thành phố không vượt quá 100% tổng mức
vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách thành phố. Cần có kế hoạch phát hành
trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích khác nhau nhằm giúp cho các nhà
đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp với chiến lược đầu tư của mình, qua

đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương nâng cao khả năng huy động vốn.
Hơn nữa, trong điều kiện phát triển thực tế của các địa phương, nhu cầu vốn
tài trợ cho đầu tư phát triển rất lớn và cấp thiết, chính phủ nên xem xét và bổ sung
thêm một số qui định pháp lý nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho
các dự án đầu tư của địa phương thông qua phương thức phát hành loại trái phiếu
thu nhập, loại trái phiếu được phát hành dựa trên nguồn thu tài chính của dự án,
công trình và không được cân đối từ ngân sách địa phương. Chính quyền các tỉnh
cần có chính sách khuyến khích các cơ quan công quyền có chức năng công ích
phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội địa
phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương có thể thực hiện bảo
lãnh để tăng thêm uy tín cho đơn vị phát hành.
4. Thu hút và phát triển các “nhà kiến tạo thị trường”
Các nhà kiến tạo thị trường thường là các quỹ đầu tư, các công ty chứng
khoán với các hoạt động cơ bản như: đầu tư, môi giới, đại lý, bảo lãnh phát hành
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
22
trái phiếu. Họ là những nhà phân phối trái phiếu thường xuyên, có tính chuyên
nghiệp cao nên có thể đưa trái phiếu vào giao dịch trên thị trường theo những
phương thức khác nhau. Bên cạnh giao dịch ở Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm
giao dịch chứng khoán, trái phiếu có thể giao dịch theo hình thức thỏa thuận trên thị
trường OTC (thị trường giao dịch chứng khoán không tập trung). Thay vào đó sẽ
thông qua các công ty chứng khoán để phát hành trái phiếu, và đây là thông lệ mà
các nước thường sử dụng vì sẽ giảm bớt thủ tục và thời gian cho việc phát hành.
Để thu hút các nhà kiến tạo thị trường, cần dần nới lỏng sự can thiệp và điều
hành của cơ quan quản lý tức Bộ Tài chính về lãi suất trái phiếu như lâu nay. Nên
bãi bỏ lãi suất trần trái phiếu, hay nói cách khác lãi suất trái phiếu không nhất thiết
phải ổn định theo thời gian mà thay đổi theo thị trường. Bộ Tài chính cần đa dạng
các kỳ hạn với việc phát hành trái phiếu dài hạn hơn để tạo đường cong lãi suất
chuẩn cho thị trường vốn, kèm theo đó là xây dựng kế hoạch phát hành theo lịch
biểu chặt chẽ để cung cấp điều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường; đồng thời,

sử dụng kỹ thuật phái sinh để phòng chống rủi ro đối với các trái phiếu dài hạn và
điều chỉnh đường cong lãi suất chuẩn bằng việc đưa vào áp dụng hợp đồng mua bán
lại.
5. Tạo tính thanh khoản cho trái phiếu
Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị
trường trái phiếu chuyên biệt.
Cơ cấu lại việc phát hành trái phiếu có thể được xem là biện pháp thứ ba
trong chính sách cơ cấu lại thị trường trái phiếu. Theo đó, sẽ phát hành theo lô trái
phiếu rồi cùng niêm yết thay vì theo đợt. Làm như vậy sẽ khắc phục tình trạnh quá
nhiều trái phiếu giao dịch trên sàn thay vào đó tập trung một số lô để trong cùng
một lô sẽ có nhiều nhà đầu tư sở hữu và giao dịch thuận lợi hơn. Và bên cạnh đó,
cũng cần bỏ thuế trái phiếu chính phủ để đẩy mạnh sự giao dịch của hàng hoá này.
Cần đa dạng hoá phát hành trái phiếu: Trái phiếu có lãi suất thay đổi theo lãi
suất thị trường, trái phiếu có kỳ hạn thay đổi, trái phiếu với các loại tiền tệ khác
nhau như USD, EUR, …
Phát triển chứng khoán phái sinh từ trái phiếu doanh nghiệp như hợp đồng
tương lai, hợp đồng quyền chọn, quyền được mua cổ phiếu gắng với một đợt phát
hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi cam kết tỷ lệ và thời gian chuyển đổi thành cổ
phiếu.
Giải pháp này nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Cùng với
Lữ Thị Thu Hà– Lớp Ngân hàng 21.26
23

×