Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.77 KB, 40 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở việt Nam, lạm phát
nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát được thực hiện ở nhiều các quốc gia trên thế
giới. Càng ngày cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế và nguyên nhân
của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát,
tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò hết sức to lớn góp phần vào sự
nghiệp phát triển của đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó và qua nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này trong quá trình học
tập cũng như trong thực tế, chúng em đã thực hiện đề tài: “Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong
5 năm gần đây và một số giải pháp của chính phủ để kiểm soát lạm phát”.
Đề tài được tìm hiểu theo 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận chung về lạm phát
Chương II: Tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây (2008-2013)
Chương III: Một số giải pháp của chính phủ để kiểm soát lạm phát
1
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1 Các khái niệm về lạm phát:
1.1.1 Khái niệm lạm phát:
Theo Marx, Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá lố.
Theo Lênin, Lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong các kênh lưu thông.
Theo Milton Friedman, Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng của tiền tệ.
Như vậy, lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung theo thời gian.
Các khái niệm liên quan:
- Giảm phát là tình trạng giảm liên tục của mức giá chung theo thời gian. Nó xảy ra khi nền
kinh tế suy thoái, sản xuất trì tệ, thất nghiệp gia tăng. Nguyên nhân của giảm phát do sự thay đổi
từ phía tổng cung và tổng cầu.
- Thiểu phát là việc đưa tiền vào lưu thông ít hơn mức cần thiết dẫn đến sản xuất và lưu
thông trong nền kinh tế bị “nghẹt” do thiếu tiền. Nguyên nhân của thiểu phát do sự mất cân đối


giữa cung tiền và cầu tiền.
1.1.2 Phương pháp đo lường lạm phát:
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm phát gọi là
chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hóa cấu thành tổng sản phẩm quốc
dân. Nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Ttrong thực tế, thường được thay thế bằng một
trong 2 loại chỉ số giá thông dùng khác là: Chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn (còn
gọi là chỉ số giá cả sản xuất).
Cụ thể như sau:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI ):
Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ cái tiếng anh Consumer Price
Index). Đây là chỉ tiêu sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá chính là lạm phát. Đồng thời,
phản ánh sự biến động giá cả của một giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng
của xã hội. Công thức tính:
2
I
p
= ∑i
p
.d
Trong đó: I
p
: Chỉ số giá của cả giỏ hàng.
i
p
: Chỉ số giá cả của từng loại hàng, nhóm hàng trong giỏ.
d: Tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại, nhóm hàng trong giỏ (với ∑d=1).
Chỉ số giá sản xuất (PPI) :
Chỉ số giá sản xuất (Producer Price Index – PPI) đo lường mức độ lạm phát trải qua bởi các
nhà sản xuất. Đồng thời, phản ánh sự biến động giá cả của đầu vào, thực chất là biến động giá cả
chi phí sản xuất.

Chỉ số giảm phát (GDP):
Chỉ số giảm phát dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội. Nó là tỷ lệ của tổng giá
trị \GDP thực tế với tổng giá trị GDP năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo
giá so sánh hay GDP thực. Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Tỷ lệ lạm phát :
Tỷ lệ lạm phát là được tính là phần trăm thay đổi của mức giá chung trong thời kì nghiên cứu
so với thời kì gốc. Là thước đo chỉ yếu của lạm phát trong một thời kì. Quy mô và sự biến động
của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát.
Công thức tính tỷ lệ lạm phát: gp =( -1).100
Trong đó: gp: tỷ lệ lạm phát (%)
I
p
: Chỉ số giá của thời kì nghiên cứu.
I
p-1
: Chỉ số giá của cả thời kì trước đó.
1.2 Phân loại lạm phát:
1.2.1 Căn cứ vào quy mô lạm phát:
• Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát 1 con số (tỷ lệ lạm phát thấp dưới 10%/năm). Lạm
phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế, đồng tiền
ổn định.Ip
1
– Ip
0
3
• Lạm phát phi mã: là loại lạm phát 2 hay 3 con số (trong khoảng hơn 10%, 50%, 200%,
800%,…) trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng, đồng tiền mất giá nhanh chóng.
• Siêu lạm phát: là loại lạm phát xảy ra khi tỉ lệ lạm phát từ 3 con số trở lên, lạm phát đột
biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã thường gây ra những thiệt hại

nghiêm trọng và sâu sắc, đồng tiền mất giá nghiêm trọng, tuy nhiên chúng cũng ít khi xảy
ra.
1.2.2 Căn cứ vào nguyên nhân:
• Lạm phát kinh niên: kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50%/năm.
• Lạm phát nghiêm trọng: thường kéo dài trên 3 năm, với tỷ lệ lạm phát trên 50%/năm.
• Siêu lạm phát: kéo dài trên 1 năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%/năm.
Ngoài ra, lạm phát còn được phân thành:
• Lạm phát dự kiến (lạm phát ì): giá cả tăng liên tục, đều đặn theo 1 tỉ lệ nhất định và người
ta có thể dự đoán trước được mức độ.
• Lạm phát do tiền: do tiền trong lưu thông nhiều, mất cân đối với cầu tiền.
• Lạm phát cầu kéo: lạm phát từ phía cầu.
• Lạm phát chi phí đẩy: lạm phát từ phía cung.
1.3 Nguyên nhân gây lạm phát:
Lạm phát là sự tăng giá chung của toàn bộ nền kinh tế, mà các yếu tố đưa đến tăng giá lại rất
đa dạng và phức tạp; mức độ tác động của chúng có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm
cụ thể của một nền kinh tế trước và trong quá trình xảy ra lạm phát. Vì vậy, có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam những năm trở lại đây. “Trong một nền kinh tế,
lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giản sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền
kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá đồng tiền nội tệ so với các loại tiền yệ khác”. Vậy nguyên
nhân lạm phát là gì?
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo:
Lạm phát do cầu kéo chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chủ yếu
là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp, hay nói một
4
cách đơn giản sản lượng trong nền kinh tế thị trường đạt tới hoặc vượt quá mức tiềm năng của
nó. Các nguyên nhân làm gia tăng tổng cầu:
• Khu vực tư nhân tự động tăng chi tiêu: Hộ gia đình tăng tiêu dùng, các doanh nghiệp tăng
đầu tư.
• Khu vực chính phủ: Tăng chi tiêu G, giảm thuế T.
• Khu vực ngân hàng trung ương: Tăng cung tiền dẫn tới lãi suất giảm và đầu tư tăng.

• Khu vực quan hệ với nước ngoài: Do tỉ giá thay đổi làm cho người nước ngoài tăng mua
hàng hóa và dịch vụ trong nước → xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm.


Việc hàng hóa tăng lên so với mức giá thời điểm trước (vật giá leo thang), mà ở đây là tăng
giá chung của hầu hết các hàng hóa dịch vụ, chứ không phải tăng giá một hàng hóa đặc biệt thì
sức mua của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với cùng một lượng tiền nhưng người tiêu thụ mua được
ít hàng hóa hơn so với trước đó. Nền kinh tế có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng giá lớn hơn tốc
độ tăng trưởng → Cầu kéo giá → Lạm phát và tăng trưởng ngược chiều nhau.
Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế
giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên
15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó,
nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu
tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực
phẩm tăng theo.
Bên cạnh đó thị trường lao động cũng là một dịch vụ, ở thời điểm này thị trường lao động
trở nên khan hiếm, việc tăng lương là một điều tất yếu để lôi kéo nguồn nhân lực. Đấy là một
phần của quá trình lạm phát. Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận
5
Y
E
AD
Y
0
= Y*
P
0
E
1
E

AD
1
P
1
Y
1
0
Nền kinh tế đạt trạng thái
cân bằng dài hạn ban đầu ở
E (P
0
; Y
0
= Y*).
Nền kinh tế đạt trạng thái
cân bằng dài hạn mới ở E
1
(P
1
; Y
1
).
P
thấy lượng tiền trong lưu thông và lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới
hạn của mức cung hàng hóa.
Như vậy, bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn
chế về hàng hóa có thể sản xuất được, trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Có
thể thấy tổng mức chi đối với C + I + G tăng, chi tiêu tăng lên trong khi có một mức cung hạn
chế về sản lượng thực tế, phần lớn tổng mức chi cao hơn dẫn đến giá cả cao hơn. Do chính mức
cầu cao hơn khiến giá cả cũng cao hơn, đó chính là lạm phát cầu kéo.

1.3.2 Lạm phát chi phí đẩy:
Lạm phát chi phí đẩy – một đặc điểm của lạm phát hiện đại còn được gọi là “lạm phát đình
trệ”, nó vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng, lại còn tăng thêm thất nghiệp cho xã hội. Hình
thức của lạm phát do chi phí đẩy xuất phát từ phía cung, các cơn sốc giá cả của thị trường đầu
vào – đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng dầu, điên nước, …) là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí
lên cao khiến đường tổng cung cũng tăng lên. Nguyên nhân làm chi phí sản xuất tăng:
• Tiền lương tăng nhưng năng suất lao động không tăng.
• Điều kiện khai thác các yếu tố sản xuất khan hiếm và tốn kém hơn.
• Thuế tăng
• Thiên tai, chiến tranh

Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống một cách
đáng kể. Nền kinh tế suy thoái nhưng không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Đặc
6
AS
L
Y
0
= Y*
AS
S
E
P
AD
E
1
Y
0
P
0

P
1
Y
1
biệt sự biến động giá dầu lửa do OPEC tạo ra những năm 1970 đã gây ra các cuộc “lạm phát
đình trệ” nghiêm trọng trên quy mô thế giới.
Bên cạnh đó, do tác động của yếu tố bên ngoài dòng tiền nước ngoài đổ vào trong nước quá
nhiều, đồng tiền nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác, do giá cả của một số mặt hàng
thiết yếu thường xuyên nhập khẩu tăng cao cũng là nguyên nhân gây nên lạm phát chi phí đẩy.


Vòng xoáy lạm phát:
1.3.3 Lạm phát dự kiến:
Trong nền kinh tế tiền tệ, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu
hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Trường hợp này có điều đặc biệt là giá cả tăng đều với
một tỷ lệ lạm phát tương đối ổn định – tỷ lệ lạm phát ỳ, mà người ta đã có thể dự tính trước mức
độ của nó. Tất cả mọi hoạt động kinh tế sẽ trông đợi và ngắm vào nó để điều tiết một cách hợp
lý (điều chỉnh lãi suất danh nghĩa, tiền lương danh nghĩa, giá cả trong hợp đồng kinh tế, các
khoản chi tiêu ngân sách,…)
Ở mức lạm phát này, tổng cung và tổng cầu sẽ tăng lên với cùng một tốc độ nhất định. Vì có
thể dự kiến trước chi phí sản xuất (kể cả tiền lương) và cả nhu cầu chi tiêu cũng được điều chỉnh
cho phù hợp với tốc độ lạm phát. Bởi vậy, sản lượng vẫn giữ nguyên nhưng giá cả đã tăng lên
theo dự kiến. Tỷ lệ lạm phát dự kiến một khi đã được hình thành thì trở nên ổn định và tự duy trì
trong một thời gian. Tuy nhiên có những cú sốc mới trong nền kinh tế (trong hoặc ngoài nước)
sẽ đẩy lạm phát khỏi “trạng thái ỳ”.
7
E
P
0
Y*

AD
AS
S
P
AS
L
AS
S1
P
1
E
1
P
2
AD
1
E
2
Y
1
0
Y
1.3.4 Lạm phát do tăng trưởng tiền tệ:
Tăng trưởng tiền tệ được coi là nguyên nhân duy nhất gây ra tình trạng lạm phát kéo dài.
Thuyết số lượng tiền tệ cho rằng, sự gia tăng khối lượng tiền trong một thời gian dài làm cho
mức giá cũng tăng lên kéo dài và dễ gây ra tình trạng vì tỉ lệ lạm phát tương ứng với tỉ lệ tăng
tiền. Như vậy, lạm phát là một hiện tượng của tiền tệ.
Lý thuyết số lượng tiền tệ:
- Giả định sản lượng nền kinh tế trong 1 năm là Y; giá mỗi đơn vị hàng hóa là P →Tổng
giá trị giao dịch trong năm đó là PxY.

- Giả định cung tiền trong nền kinh tế là M; tốc độ chu chuyển tiền tệ trong 1 năm là V →
Tổng giá trị giao dịch trong năm đó là MxV
→ phương trình trao đổi: PxY = MxV
- Giả định phân tích trong dài hạn và GDP tiềm năng không thay đổi → %∆Y = 0
- Tốc độ chu chuyển tiền tệ được ước tính tương đối ổn định và thay đổi rất ít theo thời
gian → %∆V = 0
→ %∆P = %∆M → Tỉ lệ lạm phát cân bằng với tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ.
Theo Milton Friedman phát hành tiền không gây ra lạm phát vầ đưa ra quy tắc tiền tệ: chính
sách tốt nhất là làm cho cung tiền tệ luôn tăng lên theo một tỉ lệ không đổi đã quy định; sản
lượng sẽ tăng theo một tốc độ ổn định thì giá cả sẽ ổn định. Chỉ khi tốc độ tăng M.V nhanh hơn
tốc đọ tăng của sản lượng Y thì P mới tăng nhanh và lạm phát xảy ra.
Có thể thấy rõ ngưỡng tăng cung tiền tệ để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng (nhân lực).
Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên vật liệu còn nhiều, chưa khai thác nhiều. Song
nhiều nhà máy xí nghiệp lại bị đóng của chưa đi vào hoạt động dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao, …. Trong trường hợp này, khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi suất giảm đến một mức độ nào
đó, các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và tăng thêm đầu tư. Từ đó, các nhà máy xí nghiệp mở
cửa sản xuất, kinh doanh, … tạo việc làm cho người lao động và sản lượng lại tăng mạnh. Tuy
nhiên, tình hình này diễn ra quá mạnh mẽ sẽ dẫn đến tắc nghẽn trong lưu thông. Lúc đó sản
lượng không tăng mà giá cả lại tăng nhiều thì tất yếu sẽ xảy ra lạm phát.
Trong việc chống lại lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm thiểu việc cung tiền.
Trường hợp tăng cung tiền có thể xảy ra khi Chính phủ không quản lý được lượng tiền đang lưu
thông khiến cho khối lượng tiền lưu hành trong xã hội tăng lên quá cao; hoặc do Chính phủ phát
hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trong khi sản lượng hàng hóa được sản xuất
8
trong xã hội vẫn không tăng, dẫn tới tiền bị dư thừa. Khi thừa tiền sẽ kích thích người tiêu dùng
tăng sức mua (tăng cầu) khiến giá cả leo thang, có khi đưa đến siêu lạm phát. Đó cũng là nguyên
nhân xuất phát từ tâm lý của người tiêu dùng.
1.3.5 Một số nguyên nhân khác:
Ngoài những nguyên nhân chính đã đề cập một số nguyên nhân gián tiếp cũng ảnh hưởng ít
nhiều dẫn đến lạm phát như do tâm lý người dân, chính sách của nhà nước, chính sách thuế,

chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý hay mất cân đối trong thu chi, …Ví dụ, khi người dân
không dự trữ bằng tiền mặt nữa mà chuyển sang dự trữ bằng một loại hàng hóa nào đó, như thế
cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá
không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên
làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra
lạm phát cao. Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt. Biện
pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và
không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp
dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung
ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, đối với các nước
đang phát triển, việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị
trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất. Vì thế mà khi thâm hụt ngân
sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối
với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn. Nhưng việc
phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn. Lúc này để giảm lãi
xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức
cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát. Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong
mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ
bị mất giá khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với
mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khác, khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu,
hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là
lạm phát do chi phí đẩy. Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước,
chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát.
1.4 Tác động của lạm phát:
1.4.1 Đối với sản lượng và việc làm:
9
Nhìn chung, tác hại của lạm phát không phải ở chỗ giá cả tăng lên mà ở chỗ giá cả tương đối

đã thay đổi, đi đôi với sự gia tăng giá cả, sản lượng quốc gia có thể giảm xuống, tăng lên hoặc
không đổi.
- Lạm phát do cung: mức giá chung tăng, sản lượng quốc gia giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng
lên.
- Lạm phát do cầu: Mức giá chung tăng, sản lượng quốc gia thường tăng lên, tỷ lệ thất
nghiệp giảm.
- Nếu lạm phát từ cả hai phía thì tùy theo mức độ tác động từ phía tổng cung, tổng cầu mà
sản lượng sẽ tăng lên, giảm đi hoặc không đổi.
1.4.2 Đối với việc phân phối thu nhập:
Nếu tỉ lệ lạm phát thấp và dự đoán được thì không xảy ra sự phân phối lại.
Nếu lạm phát không được dự đoán trước và với tỉ lệ lạm phát cao sẽ dãn đến việc phân phối
lại tài sản và thu nhập.
- Giữa người đi vay và người cho vay: Khi lạm phát xảy ra, một phần tài sản sẽ chuyển vào
người đi vay tùy theo mức độ → có lợi cho người đi vay, người cho vay chịu thiệt.
- Giữa người hưởng lương và người trả lương: người hưởng lương chịu thiệt.
- Giữa người mua và người bán tài sản tài chính:
- Giữa người mua và người bán tài sản hiện vật: Khi lạm phát xảy ra, người bán tài sản có
lợi vì giá của các loại tài sản nói chung đều tăng lên, còn giá trị đồng tiền thì giảm xuống
→ người mua chịu thiệt.
- Giữa các doanh nghiệp với nhau: Tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến
động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng
tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh – sản xuất ở
một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh
nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
- Giữa chính phủ và dân chúng:
1.4.3 Đối với cơ cấu kinh tế:
- Khi lạm phát xảy ra, giá các loại hàng hóa và dịch vụ không thay đổi theo cùng tỉ lệ
- Một số ngành tăng giá nhanh, nguồn sản xuất chảy về ngành đó, làm tăng sản lượng thực của
ngành. Ngành có tốc độ tăng giá chậm, sản lượng sẽ giảm xuống.
→ Kết quả: Tỉ trọng ngành có giá tăng nhanh sẽ cao hơn, tỉ trọng ngành các ngành khác sẽ thấp

hơn → Thay đổi cơ cấu kinh tế.
1.4.4 Đối với hiệu quả kinh tế:
- Làm suy yếu thị trường vốn
- Làm sai lệch tín hiệu giá cả
- Làm phát sinh chi phí điều chỉnh giá
- Làm lãng phí thời gian cho việc đối phó với tình trạng mất giá tiền tệ
10
- Làm giảm sức cạnh tranh với nước ngoài
- Kích thích người nước ngoài rút vốn về
- Làm biến dạng cơ cấu đầu tư
Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì
khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa có giá cả tăng lên
cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào
những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều
rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng
hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông càng thêm rối
loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự
mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng
xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm
cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị
sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lạm phát phát
triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả
bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các
hoạt động đầu tư. Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực
của những khoản công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho
nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác
động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định. Nếu hệ thống
thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh hơn sang
nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không

phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững
chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế
của người lao động nói chung có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ
cũng suy giảm.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và nhà nước phải
áp dụng những biện pháp thích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thông qua đó nó cũng có tác động tới đời sống
chính trị mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tác động trên lĩnh vực kinh tế được coi là nổi bật và quan
trọng nhất. Nó làm thay đổi mức độ vầ hình thức sản lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại
11
của thu nhập và của cải xã hội. Lạm phát tác động tới nền kinh tế Việt Nam theo cả hai hướng:
tích cực và tiêu cực.
Lạm phát vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà
nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất
đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. Lạm phát phải
được ví như “dầu mỡ bôi trơn nền kinh tế”. Trong điều kiện nào đó, có tác dụng kích thích tiêu
dùng, vay nợ đầu tư,do đó, giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế. Mức lạm
phát được xem là lý tưởng nhất trong nền kinh tế góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là từ 2 –
5%.
• Lạm phát vừa phải cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích
thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm
phát, giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định hướng mục tiêu
và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc. Đối với sản lượng và việc làm: Nếu lạm
phát xảy ra từ phía cầu thì sản lượng tăng lên.
1.4.2 Tác động tiêu cực:
Tác hại của lạm phát tỷ lệ thuận với tốc độ của lạm phát. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát –
với mức dộ tiến triển không thể dự báo trước và vượt qua khỏi khả năng điều tiết, kiềm chế của
chính phủ – là những giai đoạn tai họa khủng khiếp cho đời sống kinh tế xã hội của một quốc
gia. Lạm phát làm nền kinh tế kém hiệu quả, làm biến dạng cơ cấu đầu tư, suy yếu thị trường
vốn, sai lệch tín hiệu giá cả, gây lãng phí thời gian cho việc đối phó với tình trạng mất giá tiền

tệ.
Trong lĩnh vực kinh doanh:
Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng hóa bị tăng liên tục, điều này làm cho sản
xuất gặp khó khăn. Qui mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn
đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành
sản xuất có chu kỳ ngắn hạn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có chu kỳ
dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy trong điều kiện có
lạm phát, lĩnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch
toán chỉ còn là hình thức.
Trong lĩnh vực thương mại:
Người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích
trữ vàng, hàng hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu
12
thông tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong
đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo…
Trong lĩnh vực về tiền tệ tín dụng:
Tín dụng cũng bị rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm
phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác
thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống tín
dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng,
nhiều ngân hành bị phá sản do mất khả năng thanh toán và thô lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ
thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát nổi.
Trong lĩnh vực tài chính nhà nước:
Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho NSNN qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu
nhập qốc dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của NSNN (chủ
yếu là thuế ) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản,
giải thể…
Trong lĩnh vực đời sống xã hội:
Đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của

giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng dẫn trật tự an toàn xã hội bị phá hoại
nặng nề.
Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội và nhà nước phải
cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát
được lạm phát.
1.5 Giải pháp chống lạm phát:
Trải qua lịch sử lạm phát hầu như chưa có ở nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát mà
vấn đề cần duy trì lạm phát ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã
hoặc siêu lạm phát thì lạm phát không còn được xem là công cụ điều tiết kinh tế nữa mà nhà
nước cần áp dụng những biện pháp nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát sao cho thích ứng trong
từng giai đoạn, tình huống của nền kinh tế.
Để kiềm chế và đẩy lùi lạm phát chúng ta cần chống lạm phát cả từ hai phía cung và cầu.
- Chống lạm phát từ phía cầu có thể thực hiện bằng việc sử dụng chính sách tài khóa chặt,
chính sách tiền tệ chặt hoặc đồng thời cả 2 biện pháp.
13
- Chống lạm phát từ phía cung có thể thực hện bằng cách cắt giảm chi phí sản xuất và nâng
cao năng lực sản xuất trên cơ sở nâng cao hiệu quả.
Để thực hiện được điều đó cần:
- Kiểm soát để hạn chế các cú sốc cung cầu.
- Kiểm soát lượng cung tiền trong nền kinh tế: hoạt động của thị trường mở, lãi suất chiết
khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc,…
- Kiểm soát để ổn định giá cả, đặc biệt là giá cả của các mặt hàng vật tư cơ bản: xăng dầu,
điện nước,…
Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Điều cần nhấn
mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và
hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất
khẩu phát triển.
1.6 Mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và thất nghiệp.
1.6.1 Mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất:
Lãi suất thực tế thường ít khi thay đổi, nó ở mức người cho vay và người đi vay có thể chấp

nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc dư cung và sẽ đẩy lãi suất này về mức ổn
định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại thay đổi theo lạm phát. Như vậy, khi lạm phát thay đổi lãi
suất danh nghĩa sẽ thay đổi theo để có thể duy trì lãi suất ở mức thực tế ổn định. Có thể nói, lãi
suất danh nghĩa thực tế = lãi suất thực + lạm phát:
i = r + π
Trong đó: i là lãi suất danh nghĩa thực tế (thị trường)
r là lãi suất thực
π là tỉ lệ lạm phát
Mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát và lãi suất danh nghĩa là “Hiệu ứng Fisher”. Phương trình
hiệu ứng Fisher nêu bật sự khác biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa. Phương trình cho
thấy lãi suất danh nghĩa có thể thay đổi vì 2 lí do: bởi vì lãi suất thực thay đổi hay bởi vì lạm
phát thay đổi. Thuyết lượng tiền tệ và phương trình Fisher cùng cho chúng ta biết mức tăng
trưởng của tiền tệ tác động như thế nào đối với lãi suất danh nghĩa. Theo thuyết lượng tiền tệ,
lượng tiền tăng lên 1% làm cho tỉ lệ lạm phát tăng lên 1% (M.V = P.Y vơi V, Y không đổi thì M
tăng 1% → P tăng 1%). Theo phương trình Fisher, tỉ lệ lạm phát tăng lên 1% → lãi suất danh
nghĩa tăng 1%.
14
Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên thì lãi suất danh nghĩa tăng theo, làm tăng chi phí cơ hội của việc giữ
tiền, càng giữ nhiều tiền sẽ càng thiệt. Trong các cuộc siêu lạm phát, điều này đặc biệt đúng vì
tiền mất giá càng nhanh, sẽ tăng mức độ gửi tiền vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra
thị trường để mua về mọi hàng hóa có thể dự trữ, gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị
trường hàng hóa và tiếp tục đẩy giá lên cao.
1.6.2 Mối quan hệ giữa lạm phát với thất nghiệp:
Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường vấn đề lạm phát và thất nghiệp, là hai thước đo tình hình ổn định của nền kinh tế vĩ mô,
và được toàn bộ xã hội đặc biệt quan tâm. Thất nghiệp và lạm phát là những vấn đề xã hội lớn
được rất nhiều các nhà kinh tế học quan tâm, và nó được đặt lên hàng đầu trong các vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội của mỗi một quốc gia.
Thất nghiệp là vấn đề kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhất tới con người,
người lao động, thất nghiệp đồng nghĩa với tình trạng giảm mức sống và tăng sức ép về mặt tâm

lý của người người dân. Bên cạnh thất nghiệp, thì lạm phát cũng là một biến số kinh tế vĩ mô
ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế quốc dân. Vì vậy kiểm soát và duy trì lạm phát ở mức thấp là
một nhiệm vụ hàng đầu của các chính sách kinh tế vĩ mô.
Ban đầu dựa vào kết quả thực nghiệm trên cơ sở số liệu nhiều năm về tiền lương, giá cả, thất
nghiệp ở Anh, năm 1958 Phillips công bố một công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỉ lệ
thay đổi tiền lương và tỉ lệ thất nghiệp đã ra đời đường Phillips và gọi là đường Phillips ban đầu.
15
Đường này cho thấy mối quan hệ nghịch giữa thất nghiệp và lạm phát và nó cũng phù hợp
đúng với thực tế kinh tế của nhiều nước Tây Âu thời kỳ đó. Lý thuyết này gợi ra rằng muốn
giảm được tỉ lệ thất nghiệp phải đánh đổi 1 tỉ lệ lạm phát rất lớn. Khi ra đời lý thuyết về tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên (tại đó sản lượng đạt tiềm năng và lạm phát không thay đổi) đường Phillips
được xây dựng hoàn chỉnh hơn và có dạng như sau:
gp = - ɛ (u - u
*
)
Trong đó: gp - tỷ lệ lạm phát
u - tỷ lệ thất nghiệp thực tế
u* - tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
ɛ - hệ số tương quan phản ánh độ dốc đường Phillips

Đường PC
1
cho thấy:
- Lạm phát bằng không khi thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
- Khi thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát xảy ra.
- Độ dốc ɛ càng lớn thì một sự tăng, giảm nhỏ của thất nghiệp sẽ gây ra sự tăng, giảm đáng kể
về lạm phát. Độ lớn của ε phản ánh sự phản ứng của tiền lương. Nếu tiền lương có độ phản ứng
mạnh thì ε lớn, nếu có tính ì cao thì ε nhỏ (đường Phillips sẽ xoay ngang). Nếu đường Phillips
gần như nằm ngang thì lạm phát phản ứng rất kém với thất nghiệp.
Thực tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát dự kiến, vì thế Đường

Phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỉ lệ lạm phát dự kiến (gp
e
).
16
U
U
*
PC
1
PC
L
0
gp
PC
E
Gp
e
gp = gp
e
- ɛ (u - u
*
)
Đường PC
e
cho thấy: - Khi u = u
*
thì gp = gp
e
- Khi u < u
*

thì gp > gp
e
- Khi u > u
*
thì gp < gp
e
Năm 1968, Fridman và Phelps đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tốc độ tăng giá và tỷ lệ thất
nghiệp.
- Trong dài hạn do gp = gp
e
- Tỉ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên
→ Đường Phillips trong dài hạn là 1 đường thẳng đứng.
KẾT LUẬN:
• Trong ngắn hạn tồn tại mối quan hệ đánh đổi giữa tỉ lệ lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp.
• Trong dài hạn không tồn tại mối quan hệ đánh đổi giữa tỉ lệ lạm phát và tỉ lệ thất
CHƯƠNG II:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY
17
Tỷ lệ thất nghiệp
Tốc độ tăng
giá
A
B
A
5%
PC
L
PC
Tỷ lệ thất nghiệp
u

*
Thất nghiệp
tự nhiên
PC
0
*)(0 uu
−−=
ε
Đường
Phillips
dài hạn
2.1 Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ trước 1986 đến 2007:
2.1.1 Trước 1986:
Từ năm 1980 trở về trước, tình hình lạm phát đã tồn tại nhưng không công khai, các nghị
quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mả chỉ sử dụng các cụm
từ “chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền”, “vật giá không ổn định…”. Hay nói cách
khác lạm phát trong thời kì này là “lạm phát ngầm”. Do cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà
nước có vai trò quyết định giá cho hầu hết các sản phẩm và các dịch vụ lưu thông trên thị
trường.
Thời kì 1938 – 1945
Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát tiền Đông
Dương để vơ vét của cải của nhân dân Việt Nam nhằm đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến
tranh chống phát xít Đức. Hậu quả nặng nề của lạm phát là nhân dân Việt Nam phải gánh chịu
giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần.
Thời kì 1946-1954
Chính phủ Việt nam dân chủ cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát
hành đồng tài chính thay cho đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng thay cho sức
người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết
quả giải phóng hoàn toàn đất nước.
Thời kì 1955-1965

Chính phủ tay sai Mĩ ở miền Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến
tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù chính phủ Mĩ đổ vào miền
Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ với giá trị hàng trăm tỉ đô la nhưng cũng không thể
bù đắp được chi phí bỏ ra.
Thời kì 1965-1975
Ở miền Bắc, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mĩ
cứu nước, chống phá hoại của Mĩ ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính
phủ ta đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động
lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian
này.
Thời kì 1976-1980
18
Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu
cơ chế tập trung quan lieu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất. XHCN tiến hành hạch
toán kinh doanh nên đã gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dung, ngân sách
không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội với tỉ lệ lên tới 3 con số.
Giai đoạn 1981-1985
Lạm phát trong thời kì này diễn ra trong điều kiện bắt đầu có những cải cách quan trọng
trong nhiều lĩnh vực của cơ chế kinh tế. Lạm phát diển ra trên qui mô cả nước. Giá cả hàng hóa
tăng với tốc độ phi mã: chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980. Chỉ số giá
tiêu dùng(CPI) từ 1981 đến 1985 lần lượt tăng là 70%,95%,50%,65%và 92%.Không có giải
pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm
1985.
Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt nam và lạm phát
sẽ chấm dứt nên chính phủ mới có qui định “sức mua của đồng tiền mới gấp 10 lần sức mua của
đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13-9-1985). Nhưng sau đổi tiền CPI năm 1985
tăng đến 92%. Cải cách 1981-1992 và 1985 không giúp lạm phát giảm mà còn trở thành tác
nhân trực tiếp của lạm phát sau đó.
2.1.2. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986-2007:

* Siêu lạm phát 1986-1988
Tiếp tục hậu quả về qui định sức mua đồng tiền năm 1985, năm 1986 CPI tăng đến 775% nền
kinh tế bước vào thời kì lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo.
Chỉ số bán lẻ năm 1998 tăng 181,48 lần so với năm 1985.
Lạm phát trong giai đoạn này có 5 đặc trưng cơ bản: lạm phát 3 con số kéo dài 2 năm liên
tục, được mở rộng bằng cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền; thời kì này ảnh
hưởng giá cả trong quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kì 1981 – 1985 vẫn bất lợi cho
cán cân thanh toán của Việt Nam; tính chất công khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ
giai đoạn nào trước đó. Hệ quả của siêu lạm phát nghiêm trọng trong 2 năm là rất nặng nề. Theo
nguồn tin từ Tổng cục Thống kê cho biết tỉ lệ lạm phát trong các năm 1987 – 1997:
1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
774,7 393,8 34,7 76,1 67,5 17,5 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6
*Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao (1989-1994)
Sau một thập kỉ lạm phát cao liên tục nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kéo dài nhưng đến
năm 1989 đã chuyển sang một giai doạn mới của lạm phát được đặc trưng bởi sự hạ sốt lạm phát
và đến năm 1994 triển vọng bước qua thời kì kiểm soát lạm phát một con số là khả năng thực
19
hiện được. Trong giai đoạn này lạm phát giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổi
mới kinh tế, chuyển hẳn và chuyển toàn diện sang kinh tế thị trường.
*Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam 1995-2007
Theo định hướng chung nền kinh tế Việt Nam (nền kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ toàn bộ
chế độ quan liêu bao cấp) trong những năm này tiếp tục trên đà phát triển và mục tiêu đặt ra là
kiểm soát chặt chẽ sự lạm phát.
Từ năm 1995 đến 2007 mức lạm phát của nước ta luôn ở một con số. Trong giai đoạn này,
nền kinh tế vì đã thoát khỏi khủng hoảng và phát triển khá bền vững.
Sau cơn khủng hoảng lạm phát vào những năm cuối 1980 đầu 1990, giá cả chung ở Việt
Nam đã duy trì ở mức ổn định với những tỷ lệ lạm phát bình quân chỉ trên 3% trong những năm
1996 – 2003. Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta được nhắc đến nhiều từ những năm 1996
– 2003.
Đây là chỉ số CPI từ năm 2000 đến năm 2007 theo Tổng Cục Thống Kê:



Có thể thấy liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước
và năm 2008 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt trong 4 năm
qua: bắt đầu là 9.5% năm 2004; 8.4% năm 2005; 6.6% năm 2006; 12.6% năm 2007 và trong 4
tháng đầu năm 2008 đã tăng 11%.
2.1.3. Các nguyên nhân chính:
Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nức chiếm tỉ trọng rất
lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85-87%, cán bộ kĩ sư – kĩ thuật chiếm 95%. Trong
tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại
bộ phận
các donh
nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách
nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. các khoản
trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa
và cơ bản dẫn đến lạm phát.
20
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
8% 4% 3% 9.5% 8.4% 6.6% 12.6%
Hai là, chính sách đổi tiền tăng giá là một trong những chính sách phá giá đồng tiền. Từ năm
1980 đến nay nhà nước ta đã tổng 3 lần điều chỉnh giá với mức giá quá lớn, không đồng bộ. Nhà
nước trung ương không điều hành ở tầm vĩ mô, đành phải chấp nhận cơ chế giá trượt trong thu
mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Nhiều ngành, nhiều địa phương đa tự điều chỉnh
giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Điều này đã gây ách tắc, rối loạn thị trường và tăng bội chi
ngân sách.
Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền nhà nước và cơ chế tập trung bao
cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính
trị, quản lí và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền
sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định một trong
những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát

triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò quyết định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh
tế một mặt phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời mặt khác nó kìm hãm phát minh, sáng kiến,
cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt
đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế
vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế.Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu
mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu
tính toán, hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả và
dẫn đến lạm phát.
Bốn là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tu không hợp lí làm cho kinh tế chậm phát triển trong khi
dân số tăng nhanh gây mất cân đối trên nhiều mặt, sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân
trong nước chỉ đảm bảo 80-90% quỹ tiêu dùng xã hội. Trong tình hình ấy tài chính – tín dụng có
tài giỏi đế mấy cũng không thể phân phối và phân phối lại vượt quá mức số của cải trong nước
làm ra cộng với số vay nợ, viện trợ của nước ngoài. Sự phân phối và phân phối lại thông qua tài
chính – tín dụng tuy có những yếu kém nhất định nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp
gây ra lạm phát mà là hệ quả của cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh té không hợp lí với sự duy trì bộ
máy hành chính cồng kềnh và cơ cấu quản lí kinh tế kém năng lực.
Năm là, lạm phát xuất hiện ở một nước mà nèn kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài,
thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải
vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi băng ngoại tệ vào các năm 1981-1985
là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước dều dựa
vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động
bình thường. Sự viên trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần
và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã.
Sáu là, việc buông lỏng quản lí ngoại hối cũng gây ra tác hại to lớn cho ngân sách nhà nước
và lưu thông tiền tệ. Trong hoạt động xuất nhập khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, địa
21
phương này treo giá cao để thu hút hàng của địa phương khác. Việc đẩy giá mua của hàng nội
địa ảnh hưởng đến giả cả trong nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm 30% tổng
kim ngạch nhập khẩu. Mỗi năm ngân sách nhà nước phải bù lỗ xuất nhập khẩu. Những chính
sách tên đã làm cho nguồn thu ngày càng cạn kiệt, ngân sách nhà nước thiếu hụt, lạm phát ngày

càng gia tăng.
2.2 Tình hình lạm phát từ năm 2008 đến nay:
* Năm 2008:
Theo “Báo cáo kinh tế Việt Nam 2007”, những biến động khó lường của kinh tế thế giới, kéo
theo sức ép lạm phát và nhiều rủi ro đi kèm đang là những thách thức lớn đối với nền kinh tế
Việt Nam trong năm 2008.
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có
nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác
trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao
của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng
tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai,
dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến
sản xuất và đời sống dân cư. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt 8,5%, theo
đánh giá của bản báo cáo, “cũng khó có thể nói đó là một con số thật ấn tượng”, dù đây là tốc độ
tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1997. Bởi con số này không ghi nhận sự đột phá so với các năm
liền kề 2005 - 2006 và tỷ lệ đầu tư so với GPD năm 2007 quá cao, chiếm tới 44%.
Cuối năm 2007, thời điểm đánh dấu tròn một năm Việt Nam trở thành thành viên WTO.
Thời gian một năm là quá ngắn để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc gia
nhập WTO đối với tiến trình cải cách bên trong và nền kinh tế Việt Nam. Nhưng việc gia nhập
WTO đã phần nào làm “lộ rõ những yếu kém, bất cấp cố hữu của nền kinh tế Việt Nam, nhất là
đối với việc đảm bảo sự phát triển nhanh, vững bền” .
Mặt khác, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng
chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm;
công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007
và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng
hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối
cao như trên là một cố gắng rất lớn.

22
Tổng sản phẩm trong nước năm 2008
(theo giá so sánh 1994)
Tốc độ tăng so với năm trước (%) Đóng góp của mỗi khu vực
vào tăng trưởng 2008 (Điểm
phần trăm)
2006 2007 2008
Tổng số 8,23 8,48 6,23 6,23
Nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản
3,69 3,40 3,79 0,68
Công nghiệp và xây
dựng
10,38 10,60 6,33 2,65
Dịch vụ 8,29 8,68 7,20 2,90
Xét theo ngành kinh tế, mức tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 cao
hơn mức tăng năm 2007 và 2006, chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả
năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây.
Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm nay đạt mức thấp hơn mức tăng của năm
2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị
tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm
công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc
biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này
tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với khu vực công nghiệp
và xây dựng nhưng giá trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng 8,7% của năm trước.
Xét theo các yếu tố sử dụng GDP năm 2008 thì tốc độ tăng của tích luỹ tài sản cố định, tiêu
dùng cuối cùng và xuất khẩu theo giá so sánh 1994 đều giảm so với mức tăng của năm 2007.
Tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định năm 2008 giảm mạnh, từ mức 24,4% của năm 2007 xuống
còn 4,1%. Tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng năm 2008 giảm cả ở khu vực nhà nước và hộ gia
đình so với tốc độ tăng của năm 2007, trong đó tiêu dùng cuối cùng của khu vực nhà nước giảm

từ 8,9% năm 2007 xuống 7,5% năm 2008; tốc độ tăng tiêu dùng của khu vực hộ gia đình giảm
từ 10,7% xuống còn 8%. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2008 theo giá so sánh tăng thấp so
23
với năm 2007, chỉ ở mức 5,6%. So với GDP, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng 69,5% và
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng 84%. Điều này cho thấy kinh tế Việt Nam hiện đang là nền
kinh tế có độ mở lớn và tốc độ mở nhanh, do đó dễ bị ảnh hưởng từ những biến động của thị
trường thế giới.
GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao; với mức tăng trưởng và tăng giá khác nhau ở
ba khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và giảm ở
khu vực công nghiệp, xây dựng. Tuy nhiên, xu hướng này chỉ là tạm thời trong bối cảnh đặc biệt
của năm 2008 với sự tăng chậm lại của khu vực công nghiệp, xây dựng và giá nông lâm thuỷ
sản tăng cao. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1%.
Bảng số liệu chỉ số CPI 10 tháng đầu năm 2008:
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Chỉ số 2.38 5.94 8.93 11.13 15.04 17.18 18.31 19.87 20.05 19.86
Năm 2008, chỉ số giá khởi đầu năm với mức tăng “chóng mặt”: 2,38 % đã báo hiệu một
năm đầy sóng gió với lạm phát cao. Lạm phát thực sự đã xuất hiện vào ngày 21/2. Nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống trong tháng hai tăng 3,2%, riêng lương thực tăng tới 3,7%. CPI đã kéo dài
ảnh hưởng lên hai tháng 3và 4 sau đó, dù có thể hiện sự giảm tốc. Với CPI tháng 3 tăng 2,99%;
tháng 4 khiêm tốn hơn với mức 2,2%. Ở mức tăng cao nhất, tháng 5 đạt đỉnh tăng của năm 2008
với 3,91%. CPI tháng6/2008 so với tháng12/2007 đã tăng 4,58%. Bình quân mức tăng CPI thời
kỳ này đạt 2,48%/tháng, dù đã được điều chỉnh bởi các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của
Chính phủ. CPI tăng, giảm tạo thành những đợt sóng, vượt lên một tháng lại giảm tốc hai tháng
mà đỉnh CPI rơi vào các tháng 2, 5 và 8.
Trái với giai đoạn 8 tháng đầu năm, khi gánh nặng giá cả đè lên vai đa số người dân, thì ở 4
tháng còn lại của năm ,doanh nghiệp lại chịu tình trạng giảm phát. Ở 4 tháng còn lại, đường biểu
diễn giá trị CPI trượt xuống mạnh mẽ, vượt qua mức âm cho đến tháng tận cùng của năm.
Năm 2008 khép lại với tháng 12 có mức lạm phát kỷ lục 19,86% và cả năm là 19,9%. Đây là
năm có mức lạm phát cao nhất trong 9 năm từ 2004 – 2012.

* Năm 2009:
24
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng
hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng
suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác
động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch
bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống
dân cư. Suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống
mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ
tăng 0.45 %/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp
nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng
sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm
2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Như vậy:
- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm
2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái,
nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương
đối cao như trên là một thành công lớn.
- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng
của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của
quý III/2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy
nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách,
giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển khai trong năm vừa qua
phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2009
(theo giá so sánh 1994)
%
2008 2009

Tổng số 6,18 5,32
A. Phân theo khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 4,07 1,83
Công nghiệp và xây dựng 6,11 5,52
Dịch vụ 7,18 6,63
25

×