Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HSG LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.24 KB, 36 trang )

RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HSG LỚP 9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị luận văn học (NLVH) là một kiểu văn bản không có gì xa lạ trong
trường phổ thông.Trước, trong và sau giai đoạn cải cách giáo dục thì các đề thi lại
chỉ chú trọng đến NLVH. Những năm gần đây, với chương trình và SGK Ngữ văn
mới, NLVH vẫn được chú ý một cách toàn diện từ THCS đến THPT, từ Đọc- hiểu
văn bản (THCS) hay Đọc văn (THPT) trong phần văn học đến luyện tập cách làm,
cách viết ở phần Làm văn. Và làm văn nghị luận văn học đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong cấu trúc các đề thi tốt nghiệp THPT, Đại học và đặc biệt là
trong các đề thi HSG các cấp. Vì vậy rèn luyện làm văn NLVH vẫn là một yêu cầu
cần thiết với học sinh trung học nói chung và HSG văn nói riêng.
Tuy nhiên về phía giáo viên, nhất là với các thầy cô giáo tham gia bồi dương
HSG lớp 9 vẫn còn nhiều khó khăn khi đứng trước một kiểu bài này được đề cập
đến trong các đề thi HSG. Về phía học sinh, kể cả học sinh năng khiếu thì kết quả
bài viết còn nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế lớn nhất là HS không biết tìm
ý và lập dàn ý cho đề NLVH.
Từ thực tiễn đó, với kinh nghiệm của một giáo viên tham gia nhiều năm
công tác bồi dưỡng HSG, tôi mạnh dạn đề cập đến vấn đề: Rèn kĩ năng làm văn
Nghị luận văn học cho HSG lớp 9.
Chuyên đề gồm ba phần chính
- Phần thứ nhất: Giới thiệu chương trình và thời lượng
- Phần thứ hai: Nội dung (nêu một số hiểu biết cơ bản về NLVH như đặc
điểm, yêu cầu, các dạng đề và cách làm bài văn NLVH)
- Phần thứ ba: Luyện tập thực hành.
- Phần thứ tư: Giải pháp.

NỘI DUNG CHÍNH
Phần thứ nhất: Chương trình, thời lượng
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
Chương trình, thời lượng dạy NLVH trong dạy HSG


Tổng số tiết: 14 tiết (Ngoài ra còn kết hợp luyện tập khi luyện đề tổng hợp)
Cụ thể:
Tiết Nội dung bài học Ghi chú
1 Một số hiểu biết chung về văn Nghị luận.
2 Đề văn Nghị luận văn học và cách làm bài
văn Nghị luận văn học.
3 Cách làm bài Nghị luận về một tác phẩm
truyện, một đoạn trích văn xuôi.
4 Cách làm bài Nghị luận về một tác phẩm
truyện, một đoạn trích văn xuôi.
5 Cách làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn
thơ.
6 Cách làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn
thơ.
7 Cách làm bài Nghị luận về một ý kiến bàn về
văn học
8 Cách làm bài Nghị luận về một ý kiến bàn về
văn học
9 Luyện đề
10 Luyện đề
11 Luyện đề
12 Luyện đề
13 Luyện đề
14 Luyện đề

Phần thứ hai: nội dung

2
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
I. Khái niệm Nghị luận văn học:

- Nghị luận văn học là những bài văn bàn về các vấn đề văn chương - nghệ
thuật: phân tích, bàn luận về vẻ đẹp của tác phẩm văn học; trao đổi về một vấn đề
lí luận văn học hoặc làm sáng tỏ một nhận định văn học sử…
=> Nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một
cách trực tiếp về văn học bằng một ngôn ngữ trong sáng, với những lập luận chặt
chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục.
II. Các dạng đề văn Nghị luận văn học:
1. Nghị luận về tác phẩm văn học: Dạng đề này nhằm kiểm tra năng lực cảm
thụ văn học ( hiểu, phân tích, lí giải, bình giá) của người viết. Đối tượng cảm thụ
có thể là thơ, truyện, kịch hoặc văn nghị luận; có thể là toàn bộ tác phẩm, nhưng có
thể chỉ là đoạn trích.
Ví dụ:
+ Phân tích đoạn thơ sau:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mơi sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
( Truyện Kiều- Nguyễn Du)
+ Sức hấp dẫn từ truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
2. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học: Đối tượng bàn luận ở đây có
thể là một nhận định về văn học sử, về nội dung hay nghệ thuật của tác phẩm; hoặc
là một ý kiến về lí luận văn học.
Ví dụ:
3
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ “ Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây

dựng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật.”
Bằng hiểu biết của em về văn bản Làng của nhà văn Kim Lân, hãy làm sáng
tỏ nhận định trên.
+ Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: “ Nhìn chung văn học Việt
Nam phong phú, đa dạng nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính,
quán thông kim cổ, thì đó là văn học yêu nước.” (Dẫn theo Trần Văn Giàu tuyển
tập, NXB Giáo dục, 2001)
III. Đặc điểm của văn bản nghị luận
1. Luận điểm
- Luận điểm trong bài văn nghị luận là những ý kiến, quan điểm chính mà
người viết, người nói ( viết) nêu ra để khẳng định một luận đề.
- Luận điểm cần phải chính xác, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu giải quết vấn
đề và đủ để làm sáng tỏ toàn bộ luận đề.
- Các luận điểm trong một bài văn vừa cần liên kết khăng khít lại vừa cần có
sự phân biệt rành mạch với nhau. Các luận điểm phải được sắp xếp theo một trình
tự hợp lí: Luận điểm nêu trước phải chuẩn bị cơ sở cho luận điểm nêu sau và luận
điểm nêu sau phải tiếp tục hỗ trợ cho luận điểm đã nêu trước đó.
Khi trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận cần chú ý:
- Chuyển đoạn bằng từ ngữ,câu có tính liên kết
- Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm trong câu chủ đề.
Trong đoạn văn trình bày luận điểm, câu chủ đề thường đặt ở đầu tiên hoặc cuối
cùng của đoạn
- Tìm đủ luận cứ cần thiết, tổ chức các luận cứ đó theo một trật tự hợp lí.
- Diễn đạt trong sang, hấp dẫn để làm cho sự trình bày luận điểm có sức
thuyết phục người đọc (người nghe)
2. Luận cứ:
- Luận cứ trong bài văn nghị luận là
4
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
Muốn xác định được các luận cứ phải bám sát vào các luận điểm. Cách thức

tìm luận cứ có phần giống như cách tìm luận điểm. Muốn có luận cứ để sử dụng thì
phải tích lũy. Người làm văn nghị luận phải chuẩn bị cho mình một vốn luận cứ
giàu có đa dạng. Khi phân tích, bình luận tác phẩm văn học thì các câu thơ, câu
văn, chi tiết, các nhân vật trong tác phẩm là luận cứ không thể thiếu. Việc thuộc
các câu thơ, câu văn sẽ tạo thành một cái vốn quan trọng đối với người viết văn
nghị luận. Nhưng người viết còn phải biết lựa chọn luận cứ. Luận cứ phải được lự
chọn theo các tiêu chí sau:
Trước hết, luận cứ phải phù hợp với yêu cầu khẳng định luận điểm. Nội dung
của luận cứ phải thống nhất với nội dung của luận điểm. Thứ hai, luận cứ phải xác
thực. khi nêu luận cứ người viết phải biết đích xác luận cứ, không chắc chắn thì
chưa vội sử dụng. Tuyệt đối không bịa đặt luận cứ. Thứ ba, luận cứ phải tiêu biểu
Nếu chọn chi tiết về nân vật thì chọn chi tiết tiêu biểu nhất cho tính cách của nhân
vật ấy. Thứ tư, luận cứ phải vừa đủ, đáp ứng yêu cầu của luận đề, luận điểm. Cuối
cùng, luận cứ cần phải mới mẻ.
Cách sử dụng luận cứ: Khi sử dụng luận cứ vào bài văn nghị luận,trước hết
phải giới thiệu luận cứ, chỉ ra nguồn gốc của luận cứ. Cần trích dẫn chính xác. Nhớ
nguyên văn thì đặt trong dấu ngoặc kép, nhớ đại ý thì chuyển thành lời dần gián
tiếp. Dẫn nhân vật thì lược thuật cuộc đời và hoạt động của nhân vật. Cần sử
dụng các lập luận để từ luận cứ mà làm rõ luận điểm.
3. Lập luận:
Lập luận là cách nêu luận cứ ( lựa chọn, sắp xếp, trình bày) để dẫn đến luận
điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục.
III. Kiến thức và kĩ năng cơ bản chung
* Về kiến thức
1. NLVH là khám phá các giá trị văn học và vấn đề văn học qua từng khía
cạnh và từng biểu hiện cụ thể của tác phẩm văn học, sáng tác của một tác giả, văn
học của một giai đoạn hay của một nhận định lí luận văn học
Khi làm kiểu bài này cần thực hiện hai yêu cầu sau đây:
- Chia đối tượng NL ra từng phần, từng khía cạnh theo một trình tự logic
nhất định.

5
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
- Phát hiện nội dung từng phần, từng khía cạnh qua các biểu hiện cụ thể
2. Yêu cầu NLVH cần có thái độ khách quan khoa học, có hiểu biết đúng
đắn về đối tượng nghị luận, có phát hiện nhất định qua các chi tiết.
3. Bài viết cần có các yếu tố miêu tả, tự sự, biếu cảm và nghị luận.
4. Bài viết cần có bố cục mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, suy luận chặt chẽ, dẫn
chứng xác đáng lời văn gợi cảm.
* Về kĩ năng
1. Trình tự các bước lập ý, làm bài
- Định hướng, xác lập và sắp xếp các ý cần nghị luận.
- Chọn chi tiết làm dẫn chứng.
- Phân tích các dẫn chứng, nêu dẫn chứng minh họa.
- Tổng kết, nhận định, đánh giá tác phẩm theo kết quả phân tích.
2. Xây dựng bố cục bài văn
A. Mở bài:
Giới thiệu đối tượng nghị luận ( Tác giả, tác phẩm, vấn đề)
B. Thân bài:
Trình bày theo từng phần, từng khía cạnh đã đượcphân chia, thông qua các
dẫn chứng cụ thể ( nhân vật, chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ…)
Trong từng phần, sự trình bày có thể thực hiện bằng cách diễn dịch ( nêu
một ý nhận định chung trước, sau đó nêu dẫn chứng và phân tích, so sánh đối
chiếu, giải thích ý nghĩa để chứng minh cho nhận định ấy; tiểu kết kết quả nghị
luận) hoặc theo hướng qui nạp ( giới thiêu các biểu hiện, chi tiết và phân tích, sau
đó quy nạp thành nhận định đánh giá chung)
C. Kết bài:
Khái quát các kết quả nghị luận trình bày ở trên. Nêu đánh giá tổng quát, mở
rộng đào sâu nhận định.
3. Kĩ năng phân tích chi tiết
6

Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
- Biết khai thác các phương thức biểu hiện nghệ thuật vốn có của tác phẩm
( Kết cấu, ngoại hình nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, vần điệu thể thơ, các biện pháp
tu từ… ) để phát hiện nội dung.
- Biết cách xác lập những so sánh, đối chiếu, sử dụng phương pháp thống
kê… để đánh giá nội dung và nghệ thuật của hiện tượng văn học.
IV. Rèn phương pháp và kĩ năng làm văn Nghị luận văn học
1. Nghị luận về tác phẩm văn học:
1.1. Nghị luận về một tác phẩm truyện, một đoạn trích văn xuôi:
a. Nội dung, yêu cầu của dạng bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn
trích văn xuôi
- Đối tượng của bài nghị luận về một tác phẩm văn xuôi: giá trị nội dung
nghệ thuật của một tác phẩm, một đoạn trích hoặc so sánh nhiều tác phẩm, nhiều
đoạn trích văn xuôi với nhau, nghị luận về nhân vật văn học, sự kiện văn học…
- Người viết cần thể hiện được những hiểu biết đúng đắn về tác phẩm hay
đoạn trích, chỉ ra những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật, Việc phân tích,
bình luận cần khách quan, khoa học dựa trên văn bản.
b. Cách thức triển khai bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn
xuôi
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm hoặc đoạn trích cần nghị luận; bàn về
những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích theo định hướng của
đề bài; đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích đó.
- Cần phối hợp các thao tác nghị luận trong bài viết. Cố gắng nêu lên những
nhận xét, đánh giá riêng của bản thân. Giữa các phần, các đoạn của bài văn cần có
sự liên kết hợp lí, tự nhiên.
c. Kĩ năng cần rèn luyện
- Rèn kĩ năng tìm hiểu đề:
+ Nắm chắc thao tác nghị luận mà đề bài yêu cầu
+ Xác định trúng nội dung của đề
+ Phạm vi tư liệu cần sử dụng ( Tư liệu chính và tư liệu phụ)

7
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
- Rèn kĩ năng lập dàn ý
+ Dàn ý thể hiện nội dung sơ lược của bài văn. Lập dàn ý giúp người viết có
cái nhìn bao quát, điều chỉnh, sắp xếp nội dung và phân chia thời gian cho từng
phần một cách thỏa đáng. Nếu không lập dàn ý, bài văn rất dễ bị trùng lặp, lộn xộn.
Một dàn ý không thể quá sơ sài, song cũng không thể quá phức tạp, rườm rà; điều
quyết định là thể hiện sự lập luận chặt chẽ, hợp lô gíc
+ Muốn lập được dàn ý, trước hết phải xác định được luận điểm. Luận điểm
là linh hồn của bài văn nghị luận. Luận điểm không xác đáng, không quan trọng,
không gây chú ý thì bài nghị luận coi như không có ý nghĩa. Do đó, việc lựa chon
và nêu luận điểm có tầm quan trọng đặc biệt cần được quan tâm đúng mức. Khi
gặp đề “nổi” nên dựa vào những từ ngữ có sẵn trong bài mà xây dựng tiêu đề cho
các luận điểm.
Đối với lọai đề “chìm”, việc xác định luận điểm có phức tạp hơn. Để có thể
tìm được luận điểm với cần có hiểu biết chắc chắn về nhân vật, về giá trị nội dung,
nghệ thuật của tác phẩm, về kiến thức lí luận văn học…Người viết phải có năng
lực khái quát, tổng hợp nhất định.
+ Sau khi có luận điểm, nhất thiết phải xây dựng được các luận cứ. Bài văn
nghị luận không thể có sức thuyết phục nếu chỉ có luận cứ. Chỉ khi nào có hệ thống
luận cứ thì mới hình thành được dàn ý đại cương. Bài viết phong phú hay sơ sài
phần nhiều phụ thuộc vào việc người viết có tìm đủ luận cứ hay không. Luận cứ là
nền tảng và là chất liệu để làm nên bài văn nghị luận.
- Huy động các kiến thức sách vở và những cảm xúc, trải nghiệm của bản
thân để viết bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
d. Luyện tập
Đề 1:
Phân tích giá trị của văn bản Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì
mạn lục- Nguyễn Dữ)
* Tìm hiểu đề

- Kiểu bài: NLVH ( Nghị luận về một tác phẩm truyện)
- Nội dung nghị luận: Giá trị tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
8
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ Giá trị nội dung: hiện thực và nhân đạo
+ Giá trị nghệ thuật
- Phạm vi nghị luận: Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ
* Lập dàn ý:
A. Mở bài:
- Bước sang thế kỉ XVI, tình hình xã hội Việt Nam không còn ổn định như ở
thế kỉ XV. Con người, nhất là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ do chế độ phong
kiến bất công gây ra.
- Truyền kì mạn lục là tập truyện viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ, một
nhà nho ở ẩn, sống ở thế kỉ XVI. Tác phẩm đã phản ánh những mặt xấu xa của chế
độ phong kiến đương thời một cách có ý thức, qua đó bày tỏ thái độ của tác giả.
- Chuyện người con gái Nam Xương cũng như nhiều truyện trong Truyền kì
mạn lục có giá trị trên nhiều phương diện, trong đó nổi bật là các giá trị hiện
thực,nhân đạo, nghệ thuật.
B. Thân bài:
1. Giá trị hiện thực: phóng tác một câu chuyện xảy ra và lưu truyền trong
dân gian hang trăm năm trước ( cuối đời Trần đến đầu đời Hồ, tức từ cuối thế kỉ
XIV đến đầu thế kỉ XV), Nguyễn Dữ muốn mượn chuyện xưa để nói chuyện nay
( thế kỉ XVI. thời Nguyễn Dữ sống). Truyện phơi bày hiện thực xã hội phong kiến
bất công, gây nhiều đau khổ cho con người, nhất là người phụ nữ.
a. Chiến tranh loạn lạc gây ra đau khổ cho con người:
- Gia đình li tán, mẹ xa con, vợ xa chồng, con xa cha: Trương Sinh ra lính,
phải xa cách mẹ già, con thơ, vợ trẻ. Buổi chia tay li thật ngậm ngùi xót xa. Bà mẹ
dặn con “…nhưng trong chỗ binh cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên
lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy”.
Người vợ tiễn chồng: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn

phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên,
thế là đủ rồi.”
9
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ Xa con, bà mẹ nhớ con sinh ra ốm. Người vợ trẻ Vũ Nương vừa nuôi con
thơ, vừa tận tình thuốc thang chạy chữa cho mẹ chồng. Nhưng không cứu nổi, mẹ
chồng mất, nàng một mình lai lo liệu việc ma chay.
- Người dân chạy loạn, đắm thuyền, chết đuối cả.
b. Lễ giáo phong kiến bất công khiến cho người đàn ông có được quyền
hành hạ, ruồng rẫy người phụ nữ, dẫn đến cái chết đầy oan khuất của người vợ
thủy chung, hiếu nghĩa.
- Đọc truyện, ta phẫn uất trước cái chết của Vũ Nương, một người phụ nữ
tiết hạnh, chỉ có công chứ không hề có chút tội lỗi nào.
- Nguyên nhân vì đâu gây ra nỗi oan khuất đó?
+ có phải do chiến tranh phong kiến?
+ hay do sự bất công của lễ giáo phong kiến?
Đúng là có điều đó.
+ Nhưng căn nguyên sâu xa là do thói ghen tuông hồ đồ, sự vũ phu của
Trương Sinh. Trương Sinh nghi oan cho vợ, không nói thẳng với vợ, không thèm
nghe lời thanh minh của vợ mà la um lên cho hả giận, rồi nhiếc móc và đánh đuổi
nàng đi… nên đã gây ra cái chết thảm thương cho người vợ vô tội….
2. Giá tri nhân đạo: Truyện đề cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Tác
phẩm đã xây dựng thành công hình tượng người phụ nữ với những đức tính đáng
quí:
a. Đảm đang: Khi chồng ra lính, Vũ Nương ở nhà một mình gánh vác công
việc gia đình: nuôi dạy con thơ, cham sóc mẹ chông khi ốm đau, lo liệu ma chay
khi mẹ chồng mất
b. Hiếu nghĩa:
- Với mẹ chồng, Vũ Nương giữ trọn chữ hiếu của người con đối với cha mẹ.
Nàng thay chồng nuôi dưỡng chăm sóc, lo liệu cho mẹ chồng như với mẹ đẻ

- Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình:
+ Biết chồng có tính đa nghi. Những ngày mới về nhà chồng nàng đã hết sức
“ giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”
10
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tiếng gì.
+ Khi danh dự bị xúc phạm, trinh tiết bị nghi ngờ nàn đành phải lấy cái chết
để chứng minh cho nghĩa tình của mình.
+ Sau này khi được sống ở chốn “ làng mây cung nước”- một cuộc sống
thanh thản, sung sướng nàng vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ đến gia đình, chồng
con và mong được chồng biết đến nỗi oan và giải oan cho mình
c . Trong trắng, thủy chung
- Vũ Nương hoàn toàn vô tội nhưng lại bị nghi oan, dù giãi bày cũng không
gỡ ra được nên nàng phải tìm đến cái chết với lời thề bên bến Hoàng Giang:
“Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối
con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp
mọi người phỉ nhổ”.
- Nàng tin ở tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Nên sau khi tự vẫn,
như lời nguyền “ các nàng tiên trong nước thương tôi vô tội rẽ một đường nước
cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá…”, rồi được Linh Phi cho
sống sung sướng trong cung…
- Tiết nghĩa Vũ Nương là như vậy, nhưng như trên đã nói: nỗi oan được
giải, gặp lại chồng nhưng nàng không thể trở về sống ở cõi đời này được. Câu
chuyện mãi mãi là tấn bi kịch, là nỗi thương tâm và tấm long Vũ Nương càng sang
tỏ.
3. Giá trị nghệ thuật:
Truyện có nhiều thành công về nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dưng
truyện giàu kịch tính, tập trung làm nổi bật nỗi oan của Vũ Nương, gây xúc động
đối với người đọc.

- Xuyên suốt câu chuyện, trong mọi tình tiết, chi tiết có dịp là tác giả giới
thiệu,ca ngợi phẩm chất Vũ Nương
- Để Vũ Nương nói nhiều lần trong tác phẩm, giọng nói khi thì thám thiết,
khi thì thống thiết khiến người xúc động.
- Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đầy bất ngờ, đầy kịch tính càng
làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó:
11
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ Thắt nút bằng yếu tố bất ngờ: vì tin một câu nói ngây thơ của con trẻ mà
Trương Sinh gây nên bão táp trong gia đình mình: chồng nghi ngờ vợ, hạnh phúc
gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trẻ.
+ Gỡ nút bằng yếu tố bất ngờ: bấy nhiêu bão tố, bi kịch, oan khiên bỗng
được làm sang tỏ cũng bằng một câu nói thơ ngây của trẻ thơ hay nói đúng hơn là
lời của người mẹ với con khi vắng chồng.
C. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề: Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm có giá
trị đặc sắc- một áng Thiên cổ kì bút
- Mở rộng và nâng cao vấn đề: Vị trí của tác phẩm, tác giả trong nền văn học dân
tộc
1.2. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
a. Nội dung, yêu cầu của dạng bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét đánh giá về nội
dung và nghệ thuật của đoạn thơ ấy.
Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh,
giọng điệu … bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét đánh
giá cụ thể và xác đáng.
Bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc rõ ràng
lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.
Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật của thơ được
thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu. Vì vậy quá trình nghị luận để rút ra

những nhận xét đánh giá phải bắt đầu từ những khám phá về vẻ đẹp và ý nghĩa
biểu đạtcủa ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ, giọng điệu thơ; đồng thời phải khai thác
giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài (so sánh, ẩn dụ.
nhân hoá ). Chú ý chọn bình câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu , cách gieo vần
Nói đến tư tưởng, tình cảm của đoạn thơ, bài thơ có nghĩa là cần đề cập tới
hai yêu tố: tác phẩm và tác giả Điều này đòi hỏi người viết phải quan tâm tới việc
tìm hiểu cả những yếu tố trong văn bản( nội dung, nghệ thuật ) và những yếu tố
nằm ngoài văn bản ( hoàn cảnh sáng tác, cuộc đời, phong cách nghệ thuật )
12
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
Ví dụ: Khi nghị luận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, muốn làm toát lên
tư tưởng chủ đề của tác phẩm thì cần phải đề cập tới thời điểm sáng tác, khi nhà th
ơ đang nằm trên giường bệnh sắp phải từ giã cõi đời.( Vậy mà bài thơ vẫn t
ràn đầy sức xuân, ngời lên khát vọng được dâng hiến cho đời).
Để bài viết thêm sâu sắc, người viết có thể viện dẫn ý kiến của các nhà phê bình
nghiên cứu văn học,. Đồng thời trong khi phân tích thơ, nên tập thói quen sử dụng
thao tác liên hệ, so sánh đối chiếu với những cân thơ, bài thơ khác có cùng đề tài,
cùng tác giả.
b. Cách thức triển khai bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
*Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét đánh giá của
mình (Nếu đề yêu cầu phân tích đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy trong tá
c phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó).
* Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung v
à nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
- Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ bài thơ.
Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận xét, đánh
giá và cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét đánh giá ấy phải gắn
với sự phân tích, bình giảng ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc…
của tác phẩm.
c. Kĩ năng cần rèn luyện

d. Luyện tập
2. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
a. Nội dung, yêu cầu của dạng bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
- Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học là bàn luận về một nhận định,
đánh giá liên quan đến các vấn đề văn học nhằm giải thích, phân tích, bình luận
những luận điểm được đề cập xung quanh vấn đề được bàn luận trên cơ sở đó, rút
ra những vấn đề có tính chất cơ bản về tư tưởng hoặc thẩm mĩ
- Người viết bài cần thể hiện khả năng lí giải, phân tích, đồng thời bộc lộ rõ
quan điểm, thái độ của bản thân.
13
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
b. Cách thức triển khai bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
- Để triển khai bài văn nghị luận về một ý kiến về văn học cần xác định đúng
nội dung vấn đề đặt ra trong đề bài; căn cứ vào nội dung của ý kiến mà giải thích,
phân tích, bình luận, lựa chọn các dẫn chứng để làm sang tỏ vấn đề và rút ra những
ý kiến có tầm khái quát, lí luận ( chú ý: khi nêu ý nghĩa các vấn đề khái quát cần có
một sự suy luận lô-gic, chặt chẽ,…)
Có thể tiến hành bài văn nghị luận về văn học theo các bước cụ thể sau:
+ Giới thiệu vấn đề nghị luận.
+ Giải thích, phân tích, bình luận, mở rộng vấn đề liên quan đến vấn đề nghị
luận.
+ Nêu ý nghĩa, rút ra những giá trị cơ bản có tầm tư tưởng.
c. Kĩ năng cần rèn luyện
- Xác định đúng nội dung vấn đề nghị luận văn học đặt ra trong đề bài, hình
thành các ý nghị luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận
Người viết cần nắm được bản chất vấn đề nghị luận đồng thời phải biết nhìn
nhận, soi chiếu vấn đề đó từ nhiều phía để có cái nhìn toàn diện, biết đánh giá và
phản biện. Chú ý tán đồng hoặc trao đổi, phê phán đều phải có lí lẽ xác đáng, cơ sở
khoa học, tránh suy diễn, áp đặt
- Huy động kiến thức văn học và những trải nghiệm của bản thân để tạo lập

văn bản nghị luận về một vấn đề nghị luận văn học
Kiến thức được nêu ra cần có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa tri
thức phổ quát và nhận thức chủ quan của bản thân; nhưng quan trọng nhất là cần
một tri thức rộng và sâu, những trải nghiệm của bản thân cần được trình bày một
cách hợp lí, chặt chẽ và thuyết phục.
d. Luyện tập
* Đề 1: Trong tác phẩm “Lòng yêu nước”, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có
viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng
ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa
thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. ( ) Dòng suối đổ vào sông, sông
14
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu
làng xóm, yêu quê hương trở nên tình yêu Tổ quốc”.
( Ngữ văn 6, tập2- NXBGD 2000- Trang 100)
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng sự hiểu biết của mình về văn xuôi
từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến đó.
I. Tìm hiểu đề:
- Kiểu bài: NLVH
- Nội dung NL: Văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 thể hiện tinh
thần yêu nước.
II. Lập dàn ý:
A. Mở bài:
B. Thân bài:
1/ PhÇn gi¶i thÝch:
- Lòng yêu nước vốn là một khái niệm trừu tượng nhưng Ê-ren-bua đã diễn
tả nó bằng những hình ảnh hết sức sinh động, cụ thể. Lòng yêu nước bắt đầu từ
những tình cảm chân thực. Nó bắt đầu từ tình yêu những vật “tầm thường”, cụ thể
nhưng gần gũi, gắn bó sâu sắc với mỗi con người. Đó là tình yêu cái cây trồng
trước nhà, con phố nhỏ đổ ra bờ sông, vị thơm mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ

thảo nguyên có hơi ruợu mạnh Lòng yêu nước được diễn tả vừa cụ thể vừa đa
dạng.
- Nhà văn Ê-ren-bua đã chọn cách diễn đạt thật giản dị, dùng hình ảnh so
sánh: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn -ga, con sông
Vôn -ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ
quốc”. Cách so sánh từ gần tới xa, từ nhỏ tới lớn, từ cụ thể đến trừu tượng, từ gần
gũi đến thiêng liêng. Các câu văn sóng đôi với nhau, các vế thật hài hoà: Suối -
sông- sông lớn - biển lớn; nhà - làng- miền quê- Tổ quốc. Hai câu văn đã khái quát
tư tưởng của tác giả về lòng yêu nước, về tình yêu Tổ quốc.
15
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
2. Phần chứng minh:
2.1 Tình yêu nước như là tình cảm sẵn có trong mỗi con người Việt Nam,
trong văn học Việt Nam (tính truyền thống). Nó được thể hiện đặc biệt trong Văn
học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Văn học Việt Nam, cả văn học dân gian và văn học viết, là sản phẩm tinh
thần quí báu của dân tộc, phản ánh tâm hồn và tính cách Việt Nam với những nét
bền vững đã thành truyền thống và có sự vận động trong trường kỳ lịch sử ( ).
Tinh thần yêu nước còn được thể hiện trong những rung động và niềm yêu mến, tự
hào về quê hương, thiên nhiên đất nước hoặc mĩ lệ hùng vĩ, hoặc giản dị gần gũi.
Lòng yêu nước ấy trong những hoản cảnh ngặt nghèo, có khi lại được gửi vào
những hoài niệm về quá khứ, về một vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên hay phong
tục sinh hoạt của dân tộc, có khi laị là tình yêu với tiếng nói của dân tộc.
( Trích: Tổng kết văn học- SGK Ngữ văn 9, tập 2- NXBGD 2005-
trang191,192)
Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám là văn học của một dân tộc vừa
giành được độc lập, tự do sau hơn 80 năm nô lệ, nên tình yêu nước thường gắn với
niềm tự hào được làm chủ quê hương, làm chủ giang sơn, Tổ quốc mình. Tình yêu
quê hương đất nước được nhìn, được hiểu với tinh thần ấy nên đất nước càng tươI
đẹp bội phần.

Cách mạng dân tộc dân chủ và lý tưởng xã hội chủ nghĩa đem đến cho các
nhà văn nhà thơ quan niệm đất nước nhân dân, đất nước qua con mắt những con
người bình thường và giản dị. Đó là đất nước của người nông dân quen sống lam lũ
cả cuộc đời với ngôi làng cũ chứa bao kỉ niệm vui buồn (ông Hai trong Làng của
Kim Lân), đó là đất nước của anh cán bộ làm công tác thuỷ văn đo mưa đo gió trên
đỉnh Yên Sơn 2600 m thiếu cả tiếng người (trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành
Long), đó là đất nước trong con mắt của người con gáI Hà Nội xung phong ra mặt
trận giữa bom đạn quân thù, giữa cáI sống và cái chết (Phương Định trong Những
ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê) Qua cái nhìn qua nhận thức của hai nhân
vật, tình yêu quê hương đất nước hiện lên mỗi nhân vât mỗi một khác song đó đều
là đất nước được nhân nhân xây dựng và bảo vệ bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu
của mình qua trường kỳ lịch sử. Đó là chủ đề của hàng loạt bài thơ và nhiều trang
truyện viết về đất nước trong giai đoạn văn học này.
2.2/ Những biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.
16
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
- Có thể đó chỉ là tình yêu với một vùng đất nhiều kỉ niệm: TôI yêu Sài Gòn
da diết như một người đàn ông vẫn ôm ấp một mối tình nhiều ngang trái. TôI yêu
trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều gió lộng nhớ thương,
dưới những cơn mưa nhiệt đới bất ngờ còn nhiều cây xanh che chở (Sài Gòn tôi
yêu - Minh Hương); một mùa xuân “trăng non , rét ngọt” của Hà Nội, của miền
Bắc trong tấm lòng của người xa quê: Mùa xuân của tôi- mùa xuân Bắc Việt, mùa
xuân của Hà Nội- là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu
trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát
huê tình của cô gái đẹp như trong mộng Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là là
khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết đã hết mà chưa hết hẳn, đào hơI phai
nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng
trái lại, lại nức một mùi hương man mác. ( Thương nhớ mười hai- Vũ Bằng); hay
cũng có thể là một vùng biển đảo xa xôI của Tổ quốc có nước xanh, mây trắng vào
một buổi sáng sau bão: Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong, sáng

sủa Cây trên đảo lại thêm xanh thêm mượt, nước biển lại lại lam biếc và đặm đà
hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng ròn hơn nữa mà càng yêu mến hòn đảo như
bất cứ người dân chài nào đã đẻ ra và lớn lên theo mùa ở đây ”( Cô Tô -
Nguyễn Tuân).
- Có thể là tình cảm của những con người cụ thể:
+ Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, một người nông
dân thuần khiết như bao người nông dân Việt Nam khác mang trong mình tình yêu
làng quê thật giản dị mà sâu sắc. Làng của ông, một làng quê hình như chẳng có gì
đặc biệt so với bao làng quê Việt Nam khác nhưng nó lại ám ảnh ông một cách lạ
kỳ. Ông thường hay nói về nó, kể về nó với một tâm trạng háo hức say mê : một
ngôi làng với phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa , rộng rãI nhất vùng, chòi
phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh, đường làng lát
toàn đá xanh, cáI sinh phần to đẹp của viên tổng đốc làng mình và tự hào hơn
bao giờ hết là làng ông đã theo kháng chiến những ngày đánh Tây gian khổ mà
vui. Đó là cái làng mà cả giới phụ lão cũng vác gậy đi tập một hai trong những
ngày khởi nghĩa dồn dập, cái làng với nhiều ụ, nhiều giao thông hào chuẩn bị cho
kháng chiến Và khi phảI đi tản cư rồi ông vẫn bồi hồi không yên luôn lắng
nghe tin tức ở cáI làng thân yêu của mình trong cuộc kháng chiến trường kỳ của
dân tộc. Ông đã xấu hổ, đau xót, căm giận khi nghe tin làng mình theo Tây. Và ông
cũng thật hả hê vui mừng đI khoe khi được tin cảI chính làng ông không theo Tây,
17
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
làng ông bị tàn phá, nhà ông bị đốt. Nhưng đó là sự hi sinh mất mát đầy tự hào,
mãn nguyện vì đó là làng kháng chiến, làng yêu nước. Đó chính là tình yêu làng,
tình yêu nước luôn thống nhất trong ông.
+ Đó là anh thanh niên và bao con người thầm lặng khác trong “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long, ta gặp một con người yêu mảnh đất mình đã sống đó
là nơI anh sinh ra, lớn lên và làm việc. Công việc của một người thầm lặng : Cháu
ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự
vào việc báo thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Và đó là

công việc đầy khó khăn vất vả Nửa đêm nằm trong chăn không thể ngủ lại được.
Nhưng tất cả những khó khăn ấy có ý nghĩa gì với chàng thanh niên trẻ khi anh đã
nhận thức đúng đắn nhiệm vụ của mình: Hồi chưa vào nghề Mình sinh ra là gì,
mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy cháu tự nói với cháu như thế đấy”.
PhảI chăng đó chính là tình yêu với quê hương, với Tổ quốc.
+ Đó là Phương Định và tổ thanh niên xung phong của chị trong Những
ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. Những cô gái trẻ làm nhiệm vụ đếm và phá
bom trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt của dân tộc. Những người
con gái ấy nếu đất nước thanh bình họ chắc là cô giáo, là bác sỹ, kỹ sư. Họ đã yêu
thiết tha căn nhà, người thân: Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như là mẹ tôi, cái
của sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố. Phải có thể có những cái
đó Hoặc là cái cây, hoặc là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc là bà bán kem đẩy
chiếc xe chở đầy kem chúng xoáy mạnh trong tâm trí tôi. Nhưng trong cuộc
chiến tranh vĩ đại của dân tộc họ sẵn sàng ở mặt trận, một mặt trận nóng bỏng,
hàng ngày hàng giờ đối mặt với sự hiểm nguy: Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi
bò trên cao điểm về chỉ hai con mắt lấp lánh Còn chúng tôi thì chạy trên điểm
cao cả ban ngày . Mà ban ngày chạy trên cao điểm không phải chuyện chơi.
Nhưng nhất định sẽ nổ. Cái để những người con gái kia sẵn sàng chấp nhận và đối
diện thường xuyên với khó khăn gian khổ, sẵn sàng cống hiến, hi sinh cả cuộc đời
mình có phải là tình yêu thiết tha với gia đình, với bạn bè, với những kỷ niệm đẹp
đẽ của quê hương mà rộng hơn là tình yêu đất nước. Phải chăng họ tìm ý nghĩa sự
sống trong Tổ quốc, Nhân dân, trong tương lai tươi sáng, trong lẽ sống vĩnh cửu.
(Văn học thuộc loại hình sử thi , cái đẹp trong văn học Cách mạng gắn với ý niệm
về Tổ quốc trường tồn). Mọi cá nhân hữu hạn sẽ bất tử trong Tổ quốc mình.
18
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
Tình yêu quê hương đất nước bắt đầu tình cảm sẵn có trong mỗi con người,
đó là tình cảm thật hồn nhiên, giản dị và trong sáng. Tình yêu ấy khi được ý thức
một cách đúng đắn, đầy đủ càng sâu sắc và đẹp đẽ.
C. Kết bài

- Khẳng định vấn đề
- Mở rộng, nâng cao
PHẦN THỨ BA: Thực hành
* Đề 1:
Nhận xét về truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long , có ý kiến
cho rằng : Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của
con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn
lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng , đẹp đẽ. Từ hình
ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống ,
của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.
Em hãy phân tích truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” để làm sáng tỏ nhận xét trên.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài: NLVH ( Nghị luận về một tỏc phẩm truyện)
- Nội dung nghị luận:
Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của
con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai
đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và , hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ.
Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống , của lao động tự
giác về con người và về nghệ thuật”.
- Phạm vi nghị luận: truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa”- Nguyễn Thành long
II. Lập dàn ý:
A. Mở bài
- Giơí thiệu tác giả, tác phẩm
- Nêu vấn đề, trích dẫn nhận định
B. Thõn bài
19
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
B.1/ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của
con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn
lịch sử có nhiều gian khổ và , hi sinh nhưng cũng thật trong sáng , đẹp đẽ.

ý khái quát : Thông qua bốn nhân vật trong truyện và một vài nhân vật
được gián tiếp nói tới , họ có già có trẻ, nghề nghiệp khác nhau nhưng lại có nhiều
điểm gần gũi mà trước hết là nét đẹp trong suy nghĩ , trong thái độ đối với cuộc
sống, trong công việc và với những người khác. Tác giả không đặt tên nhân vật có
thể với dụng ý khẳng định : đó là những con người bình thường, bình dị trong một
cuộc gặp gỡ bất ngờ và chúng ta có thể gặp gỡ ở bất cứ nơi nào trên đất nước này
(có thể đặt vào hoản cảnh lịch sử thời kỳ ra đời của tác phẩm để thấy được vẻ đẹp
của những con người bình thường trong khó khăn chung).
1. Vẻ đẹp chung của các nhân vật
+ ý thức trách nhiệm trước công việc :
- Sống có lý tưởng , sẵn sàng cống hiến : anh thanh niên, cô kỹ sư trẻ.
- Nhận thức sâu sắc ý nghĩa công việc : anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau,
người cán bộ nghiên cứu khoa học mà anh thanh niên nói tới
+ Yêu thích say mê công việc , sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức
chấp nhận cuộc sống cô độc để làm việc, làm việc một cách kiên trì , tự giác bất
chấp hoàn cảnh : anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu
khoa học.
2. Vẻ đẹp trong cuộc sống bình thường của anh thanh niên.
+ Đó là con người biết sống, làm việc một mình trên đỉnh núi cao mà không
cô đơn . Anh tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình trên trạm khí tượng thật ngăn
nắp , chủ động, giản dị: ( Căn nhà nhỏ, gìương cá nhân ) song thật phong phú về
tâm hồn : trồng hoa, tự học và đọc sách ngoài giờ làm việc để mở mang tri thức
+ Đó là một người khiêm tốn: lặng lẽ hoàn thành công việc, không tự nhận
thành tích về mình luôn nhận thức được công việc của mình làm là những đóng
góp nhỏ bé cho đất nước, ham mê học hỏi , phấn đấu bởi xung quanh anh có biết
bao con người , bao tấm gương, bao điều đáng học ( những ông kĩ sư vườn rau,
anh cán bộ nghiên cứu sét )
20
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ Một con người sống cởi mở ,tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người một

cách chân thành, chu đáo: việc đi tòi củ tam thất cho vợ bác lái xe, đón ông hoạ sỹ
già và cô kỹ sư trẻ thân tình, nồng hậu, hồn nhiên , yêu cuộc sống: thêm người
thêm chuyện trò , quan tâm đến mọi người , tốt bụng
* Vẻ đẹp của anh thanh niên và những người anh nói tới giúp cô gái hiểu và
tin vào con đường cô đã chọn . Tác phẩm thật sự là một bài thơ về vẻ đẹp trong
cách sống và suy nghĩ của người lao động bình thường mà cao cả.
Học sinh có thể trình bày trên cơ sở phân tích từng nhân vật để làm nổi bật ý
tưởng chung, tuy nhiên , cần tập trung vào nhân vật trung tâm là anh thanh niên .
3. Hình ảnh người lái xe, bác hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ.
+ Người hoạ sĩ già đại diện cho một lớp người đã cống hiến tất cả tuổi thanh
xuân của mình cho công việc , đến lúc được nghỉ ngơi vẫn muốn làm thêm một
điều có ích đó là chuyến đi thực tế cuối cùng trong đời cầm bút vẽ của mình “ vẽ
những điều mình thích nhất.” và ông đã kịp phát hiện ra cái điều mà bấy lâu nay
ông theo đuổi đó là hình ảnh anh thanh niên chăm chỉ cần cù , nhiệt tình và tốt
bụng
+ Cô kĩ sư trẻ mới ra trường lần đầu tiên xa Hà Nội, dũng cảm lên nhận
công tác tại Lai Châu. Cô là lớp thanh niên thề ra trường đi bất cứ đâu làm bất cứ
việc gì, nhận bất kỳ lương hướng , tiếp đón như thế nào, cô thấy lòng nhẹ nhàng.
Giờ đây gặp người thanh niên trên đỉnh cao Yên Sơn, hình ảnh, tính cách, thái độ,
việc làm, anh như tiếp thêm cho cô sức mạnh
Họ chính là những thế hệ tiêu biểu cho lớp người mới , cho thanh niên Việt
Nam, tuy không trực tiếp chiến đấu song đã góp phần không nhỏ vào cuộc sống ,
cuộc kháng chiến của dân tộc , Họ nối tiếp nhau xứng đáng là chủ nhân của đất
nước này.
B.2. Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống , của lao
động tự giác về con người và về nghệ thuật.
- Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự có nghĩa khi mọi việc làm , hành
động của họ đề xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mến và tự hào
về mảnh đất mình đáng sống.
21

Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
- Con người cần phải biết sống có lý tưởng , say mê với công việc , hiểu
được ý nghĩa của công việc mình làm . Con người cần phải tự nhìn vào chính bản
thân mình để biết sống tốt và đẹp hơn.
- Thông qua suy nghĩ của người hoạ sỹ già : vẻ đẹp của con người và của
cuộc sống chính là nguồn cảm hứng vô tận để người nghệ sỹ sáng tạo nên những
tác phẩm nghệ thuật có giá trị .
C. Kết bài
- Khẳng định vấn đề
- Mở rộng, nâng cao
* Đề 2:
Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta
sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng
ta đọc, không phải chỉ có tri thức (…) Cho đến một câu thơ kia , người đọc nghe
thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời trang giấy”
( Trích “Tiếng nói của văn nghệ” – Nguyễn Đình Thi)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Hãy trình bày cảm nhận của em về cái hay
trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu.
A. Yêu cầu chung:
1. Về kỹ năng:
Bài viết thể hiện rõ kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học; có bố cục rõ ràng,
cân đối; diễn đạt lưu loát có chất văn; chữ viết, cách trình bày sạch đẹp.
2. Về kiến thức
Học sinh cần làm sáng tỏ được ý kiến của Nguyễn Đình Thi qua việc trình bày
cái hay của bài thơ Đồng chí – Chính Hữu.
B. Yêu cầu cụ thể:
Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý:
1.Đặt vấn đề:
+ Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm.
+ Nêu vấn đề nghị luận: Đánh giá cái hay của một bài thơ.

+ Trích dẫn ý kiến nghị luận: ý kiến của Nguyễn Đình Thi .
22
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
2. Giải quyết vấn đề:
2.1. Giải thích nhận định
Thơ hay là thơ ngay từ lần đọc đầu tiên nó đã ám ảnh độc giả, nó khiến
người đọc phải trăn trở, phải suy tư, càng đọc càng khám phá nhiều điều mới lạ,
hấp dẫn về tình đời, tình người… mà thi sĩ kí thác trong đó. Khi người đọc thơ đọc
bằng tất cả tâm hồn, trí tuệ của mình, bài thơ sẽ lóe sáng, làm rung lên những cung
bậc tình cảm nào đó trong hồn người đọc.Ý kiến trên của Nguyễn Đình Thi là hoàn
toàn xác đáng bởi nó xuất phát từ đặc thù sáng tạo của văn chương nghệ thuật nói
chung, thơ ca nói riêng. Cái hay của một tác phẩm văn học được tạo nên từ sự kết
hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức.
2.2.Trình bày cảm nhận về cái hay của bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
2.2.1.Về nội dung:
Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết sâu nặng của những người
lính cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao
đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Cội nguồn của tình đồng chí thiêng liêng mà gần gũi thân thiết bắt
đầu từ chữ đồng: đồng cảnh, đồng nhiệm, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi,
đồng ngũ, tình thương, vị muối của tình người đã kết đọng thành tình đồng chí,
tình đồng đội thiêng liêng.
- Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý
tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu :"Súng bên súng, đầu sát bên
đầu".
- Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao
cũng như niềm vui: "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ."
Với hai tiếng : "Đồng chí !" ở câu thơ thứ bảy, câu thơ ngắn, cùng với hình
thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện, một lời
khẳng định,. Hai tiếng "đồng chí" nói lên một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời

đại .
=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng
chí giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn
thơ thứ nhất để mở ra đoạn hai.

23
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
+ Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí :
- Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau.
Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín
của đồng đội mình .
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc
đời người lính : Cái khắc nghiệt của thời tiết, cái thiếu thốn về quân trang , quân
phục…
- Không chỉ chia sẻ với nhau những gian lao của cuộc đời người lính mà họ
còn chia sẻ với nhau những niềm vui bình dị, nhỏ bé: Câu thơ "Miệng cười buốt
giá” diễn tả cảm động niềm vui, nụ cười của những người lính. Chính tình đồng
đội đã làm sưởi ấm lòng người lính để họ vẫn cười vượt trên buốt giá.
- Người lính gắn bó với nhau bằng tình đồng đội sâu sắc: Câu thơ “ Thương
nhau tay nắm lấy bàn tay” đã diễn tả cụ thể một cử chỉ cảm động, chan chứa tình
cảm chân thành của những người lính.
+ Biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí: Ba câu cuối cùng kết thúc bài
thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp. Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh
lẽo là hình ảnh người lính "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ
thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên
nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ
giặc tới". Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả
- Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc : "Đầu súng trăng treo". Hình ảnh thơ
độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. "Súng " biểu tượng cho
chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. "Trăng" biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ

mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một
biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính : chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà thơ mộng.
Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu
chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. Những câu kết bài thơ là một bức
tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.Là sự kết tinh, kết đọng giữa
gần và xa, hiện thực và lãng mạn, thực tại và mộng mơ, chiến sĩ và thi sĩ. Đó là
biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí, về cuộc đời người lính cụ Hồ.
24
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - HBT
=> Hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp bình dị mà rất cao cả. Họ là
những người nông dân mặc áo lính, gắn bó sâu nặng với quê hương , ruộng đồng,
nhưng họ sẵn sàng từ bỏ tất cả để lên đường giết giặc, trong khó khăn gian khổ vẫn
lạc quan đẹp nhất ở họ là tình đồng chí.
2.2.2 . Về hình thức:
+ Nhan đề: Đồng chí ( đồng là cùng, chí là chí hướng) . Đồng chí là chung
lý tưởng, chung chí hướng . Người trong một đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức
cách mạng thường gọi nhau bằng đồng chí. Từ sau cách mạng tháng Tám năm
1945 “ đồng chí” là cách xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể cách
mạng, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội
và thể hiện sâu sắc tình đồng đội. Nhan đề chứa đựng chiều sâu nội dung tư tưởng
của bài thơ.
+ Bố cục và mạch cảm xúc của bài thơ:
- Bố cục : Ba đoạn ( 7 câu đầu cơ sở của tình đồng chí; 10 câu tiếp theo
những biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh tình cảm ấy ở những người lính; 3
câu cuối biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
- Mạch cảm xúc là sự suy tư về cội nguồn , vẻ đẹp và sức mạnh của tình
đồng chí.Sức nặng tư tưởng , cảm xúc được dồn ở nmhan đề bài thơ và các dòng
thơ 7, 17,20 của bài.
+ Hình ảnh thơ: Kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị với những hình
ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát.

+ Ngôn ngữ thơ: Hàm súc, gợi hình, gợi cảm. Cách sử dụng có hiệu quả các
biện pháp tu từ: Ẩn dụ, nhân hóa, sóng đôi cú pháp, đối …có sức khái quát cao
diễn tả cụ thể quá trình phát triển của một tình cảm thiêng liêng: Tình đồng chí.
+ Giọng thơ: Sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình thiết tha.
Có thể nói thi phẩm là một thành công sớm của thơ ca kháng chiến chống
Pháp trong việc khai thác chất thơ, vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị đời
thường bằng bút pháp tả thực không cường điệu, không tô vẽ, không nhấn mạnh
cái phi thường…thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ rất gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày,
mang hơi thở và vị mồ hôi mặn chát của những người nông dân mặc áo lính thời
chống Pháp.
25

×