MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BẢNG
1. Giới thiệu
2. Khái niệm - Chu trình nước đô thị (Urban Water Cycle)
3. Hạ tầng nước đô thị ở TP HCM
3.1. Hệ thống cấp nước của TP HCM
3.1.1. Hiện trạng khai thác nước mặt
3.1.2. Hiện trạng khai thác nước ngầm
3.1.3. Dự báo nhu cầu sử dụng nước đến năm 2025
3.1.4. Nội dung quy hoạch nguồn nước cấp đến năm 2025 của TP.HCM
3.1.4.1. Về các nhà máy nước
3.1.4.2. Về nguồn nước
3.1.4.3. Về công trình dẫn nước thô
3.1.4.4. Về mạng lưới đường ống cấp nước
3.1.4.5. Các dự án ưu tiên thực hiện trong giai đoạn 2010 – 2015
3.2. Hệ thống thoát nước ở TP.HCM
3.2.1. Hệ thống kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè
3.2.2. Hệ thống kênh Tân Hoá- Lò Gốm
3.2.3. Hệ thống kênh Tàu Hủ - kênh Đôi – kênh Tẻ
3.2.4. Hệ thống kênh Bến Nghé
3.2.5. Hệ thống kênh Tham Lương – Bến Cát- Vàm Thuật
3.3. Hệ thống nhà máy xử lý nước thải tại TP HCM
3.3.1. Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng Hòa
3.3.1.1. Giới thiệu
3.3.1.2. Quy mô hoạt động
3.3.1.3. Thông số thiết kế
3.3.2. Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
3.3.2.1. Tiêu chuẩn thiết kế
3.3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
3.3.2.3. Các hạng mục xử lý nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
3.3.3. Các dự án nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt đang triển khai của TP HCM
3.3.3.1. Nhà máy xử lý nước Suối Nhum
3.3.3.2. Nhà máy xử lý nước thải Tây Sài Gòn
3.3.3.3. Nhà máy xử lý nước thải Tham Lương – Bến Cát
3.3.3.4. Nhà máy xử lý nước Bình Tân
3.3.4. Hiện trạng thoát nước và chống ngập úng ở TP.HCM
3.3.4.1. Thực trạng ngập úng và nguyên nhân
3.3.4.2. Hướng giải quyết cho vấn đề ngập úng
4. Các thách thức trong quản lý tài nguyên nước đô thị ở TP HCM
1
5. Tích hợp quản lý tài nguyên nước đô thị ở Úc
5.1. Lịch sử hình thành
5.2. Các khái niệm về tích hợp quản lý tài nguyên nước đô thị
5.3. Các trường hợp nghiên cứu
5.4. Công cụ WSUD
6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Các thành phố lớn với hơn 10 triệu dân
Hình 2. Chu trình nước đô thị
Hình 3. Chu trình nước đô thị - Thành phần và đường đi chính
Hình 4. Sơ đồ tuyến thu gom nước thải của nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng giai đoạn I
Hình 5. Sơ đồ nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
Hình 6. Các khu vực đang bị ngập úng ở TP.HCM
Hình 7. Tích hợp hệ thống quản lý nước nước thải xám và thu gom nước mưa trong các tòa nhà
dân cư, xử lý và tái sử dụng (Khu căn hộ D’Lux, Melbourne)
2
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Nhu cầu sử dụng nước của TP HCM đến năm 2025
Bảng 2. Nội dung quy hoạch các nhà máy nước đến năm 2025 của TP HCM
Bảng 3. Đặc điểm của mô hình ''cũ'' và ''mới xuất hiện” của hệ thống cấp nước đô thị
Bảng 4. Tóm tắt đặc điểm các trường hợp nghiên cứu
3
1. Giới thiệu
Dân số đô thị đòi hỏi một lượng lớn năng lượng và nguyên liệu, cũng như việc loại bỏ
chất thải, một số trong đó biến thành ô nhiễm môi trường. Thật vậy, tất cả hoạt động chính của
thành phố hiện đại - giao thông, cấp điện, cấp nước, xử lý chất thải, sưởi ấm, cung cấp dịch vụ,
sản xuất, vv - được đặc trưng bởi các vấn đề này. Vì vậy, sự tập trung của người dân trong các
khu đô thị làm thay đổi đáng kể dòng nguyên liệu và năng lượng trong khu vực bị ảnh hưởng, với
những thay đổi đồng thời trong cảnh quan, thay đổi nước, trầm tích, hóa chất và vi sinh vật, và
tăng phát thải nhiệt. Những thay đổi này sau đó ảnh hưởng đến hệ sinh thái đô thị, kể cả nước đô
thị và hệ sinh thái thủy sinh, và kết quả là sự suy thoái. Do đó, việc cung cấp dịch vụ nước đến
người dân đô thị gặp thách thức lớn, đặc biệt trong các thành phố lớn, được định nghĩa là các
thành phố với số dân từ 10 triệu trở lên. Nhưng số lượng các thành phố lớn không ngừng tăng
lên, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, và tiếp tục ảnh hưởng trầm trọng lên sức khỏe con
người và các vấn đề môi trường. Sự tăng trưởng của số lượng các thành phố lớn được minh họa
trong Hình 1, liệt kê các thành phố lớn năm 1975 và 2003, và dự báo cho 2015.
Trong khi các tác dụng tiêu cực của đô thị hóa được biết đến khá nhiều và công khai rộng
rãi, cũng có các khía cạnh tích cực và lợi thế trong việc sống ở các thành phố được quản lý tốt,
bao gồm cả cơ hội quan trọng cho phát triển kinh tế và xã hội, một phong cách sống hiện đại với
sự tham gia của lực lượng lao động nữ cao và các chỉ số của các mức độ sức khỏe tốt, hạnh phúc
biết đọc biết viết, và hạn chế dấu chân sinh thái (Cohen, 2006). Tuy nhiên, việc quản lý của các
đơn vị đô thị lớn là một trong những thách thức lớn nhất hiện nay (Maksimovic và Tejada-
Guibert, 2001). Đối với đô thị hóa liên tục, cần lưu ý rằng các dữ liệu nhân khẩu học và lập kế
hoạch dự án là không chắc chắn, rằng hầu hết sự tăng trưởng hiện tại của khu vực thành thị do di
cư từ nông thôn ra thành thị và sự biến đổi của các khu định cư nông thôn vào thành phố, và cuối
cùng, hầu hết các tăng trưởng dự kiến sẽ không xảy ra trong các thành phố lớn nhất, nhưng ở các
thành phố và thị trấn thứ cấp nhỏ hơn trong thế giới đang phát triển, nơi có tỷ lệ nghèo cao và các
dịch vụ nói chung là trung bình (Cohen, 2006).
4
Hình 1. Các thành phố lớn với hơn 10 triệu dân
Nhu cầu mâu thuẫn về tài nguyên yêu cầu quản lý tổng hợp của quá trình đô thị hóa, đó là
nhiệm vụ khó khăn nhất. Trong bối cảnh phức tạp này, quản lý hiệu quả nước đô thị phải dựa trên
một sự hiểu biết khoa học về tác động mà hoạt động con người ảnh hưởng lên chu trình thủy văn
đô thị và môi trường, và các phương tiện giảm thiểu các tác động này, và phải xem xét đầy đủ
của hệ thống kinh tế xã hội. Tác động đô thị hóa khác nhau nhiều theo thời gian và không gian,
và cần phải được định lượng đối với khí hậu địa phương, phát triển đô thị, kỹ thuật và môi trường
thực tế, tôn giáo văn hóa và các yếu tố kinh tế xã hội khác.
Phân tích quản lý nước đô thị phải dựa trên chu kỳ nước đô thị (UWC), cung cấp một khái
niệm thống nhất để giải quyết khí hậu, thủy văn, sử dụng đất, kỹ thuật và các vấn đề sinh thái
trong khu vực đô thị. Hơn nữa, phân tích UWC sẽ có lợi cho cuộc kiểm tra sau đó của phương
pháp tiếp cận hiện đại để quản lý nước trong khu vực đô thị, bao gồm phát triển bền vững, quản
lý chu kỳ nước đô thị tổng, phát triển tác động thấp và thủy văn sinh thái. Những cách tiếp cận
dựa trên bảo tồn nguồn nước này sử dụng các biện pháp quản lý tổng hợp, bao gồm quản lý tổng
hợp và tái sử dụng nước mưa, nước ngầm và nước thải.
5
Bước đầu tiên của một dự án toàn diện và mục đích để phát triển một sơ đồ đại diện của
UWC, bao gồm các thành phần môi trường của nó, và xác định các dòng chảy chính của nước,
trầm tích, hóa chất, vi sinh vật và nhiệt, với sự tham chiếu nước đô thị trong cả nước phát triển và
đang phát triển. Do đó một chương trình có thể được trình bày trong nhiều biến thể phản ánh điều
kiện khí hậu khác nhau, cả hiện tại và tương lai (Vd xem xét sự biến đổi khí hậu). Trong giai
đoạn nghiên cứu tiếp theo, người ta cho rằng những dòng này sẽ được định lượng và mô tả bởi
các mô hình cân bằng / chất lượng nước xấp xỉ như quá trình đó. Mối liên hệ giữa phát triển đô
thị và các dòng này sẽ được thành lập, và nguyên tắc cho phát triển tác động thấp và phục hồi của
các khu vực hiện tại sẽ được thành lập. Một số bước / kết quả trung gian trong nghiên cứu tổng
thể bao gồm:
● Xác định các thành phần của UWC và những ảnh hưởng của đô thị hoá lên tài nguyên nước
● Định lượng ảnh hưởng của các hoạt động của con người vào chu kỳ thủy văn đô thị và
tương tác của nó với môi trường theo tình huống phát triển hiện tại và tương lai
● Sự hiểu biết về các quy trình tại giao diện nước đất đô thị, bao gồm tương tác của nước và
đất, với sự tham chiếu cụ thể đến xói mòn đất, ô nhiễm đất và lún đất
● Thủy văn, sinh thái, quá trình sinh học và hóa học trong môi trường nước đô thị của các
thành phố bền vững trong tương lai
● Đánh giá tác động của phát triển đô thị, sử dụng đất và những thay đổi kinh tế xã hội vào
nguồn cấp nước sẵn có, ô nhiễm hóa học thủy sinh (con người), xói mòn đất và bồi lắng, và môi
trường sống tự nhiên toàn vẹn và đa dạng
● Đánh giá các biện pháp phòng ngừa và giảm nhẹ có sẵn để đối phó với vấn đề nước đô thị.
Sản phẩm cuối cùng của hoạt động này nên trở thành một hướng dẫn về thay đổi trong
UWC và môi trường do các hoạt động của con người, có sự tham khảo với các khu vực khí hậu
khác nhau và thay đổi khí hậu tiềm năng. Hướng dẫn này nên đề nghị:
● Sự hiểu biết về quá trình diễn ra trong môi trường đô thị, và sự tương tác của môi trường
ngoại thành tự nhiên, nông thôn và thành thị để phân tích thành công, lập kế hoạch, phát triển và
quản lý hệ thống nước đô thị
● Phát triển các công cụ phân tích sáng tạo để giải quyết các vấn đề của không gian và biến
đổi theo thời gian
● Đánh giá các tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu và những thay đổi trên hệ thống nước
đô thị.
6
2. Khái niệm - Chu trình nước đô thị (Urban Water Cycle)
Định nghĩa chu trình thủy văn xuất hiện từ thời cổ đại (Maidment, 1993). Có nhiều định
nghĩa về chu trình thủy văn, nhưng nói chung chu trình thủy văn được định nghĩa là một mô hình
khái niệm mô tả việc lưu trữ và vận chuyển nước giữa sinh quyển, khí quyển, thạch quyển và
thủy quyển. Nước có thể được lưu trữ trong bầu khí quyển, đại dương, hồ, sông, suối, đất đai,
sông băng tuyết và các tầng nước ngầm. Nước được vận chuyển giữa các thành phần này nhờ các
quá trình bốc thoát hơi, ngưng tụ, mưa, thấm, tuyết tan và dòng chảy mặt, và cũng được xem như
là các thành phần trong chu trình nước.
Tổng hợp của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và gia tăng dân số ảnh hưởng đến
cảnh quan thiên nhiên và thủy văn của lưu vực sông. Mặc dù nhiều yếu tố của môi trường tự
nhiên bị tác động bởi hoạt động của con người nhưng cơ cấu chính của chu trình thủy văn vẫn
còn nguyên vẹn trong khu vực đô thị. Tuy nhiên, chu trình bị thay đổi rất nhiều bởi tác động của
đô thị hóa đối với môi trường và nhu cầu cung cấp nước cho dân cư đô thị, bao gồm cung cấp
nước, thoát nước, quản lý và thu gom nước thải, và các lợi ích sử dụng của nguồn nước tiếp nhận.
Do đó, chu trình thủy văn trở nên phức tạp hơn trong khu vực đô thị do có nhiều ảnh hưởng và sự
can thiệp (McPherson, 1973; McPherson và Schneider, 1974); kết quả của chu trình thủy văn đô
thị được gọi là chu trình nước đô thị (UWC). UWC chỉ ra các thành phần chính và các con
đường chính trong hình 2 và sơ đồ ở hình 3.
Theo Melbourne Water, Chu trình nước đô thị là chu kỳ của nước - từ khi được thu gom ở
các lưu vực đến khi quay trở lại vòng tuần hoàn nước tự nhiên dưới dạng nước thải đả được xử
lý. Nó khác với chu trình nước tự nhiên bởi con người, con người lấy nước để uống, nấu ăn và
các mục đích giải trí.
( />UWC cung cấp một khái niệm đúng và nền tảng thống nhất cho việc nghiên cứu cân bằng
nước (còn gọi là ngân sách nước) và tiến hành kiểm kê nước của khu đô thị, lưu vực, phát triển.
Trong các nghiên cứu, ở trên liệt kê các thành phần chính của chu trình thủy văn được đánh giá
cho khoảng thời gian nhất định, với thời hạn vượt quá các hằng số thời gian của hệ thống để lọc
ra các biến đổi trong ngắn hạn. Cân bằng nước thường được thực hiện theo mùa, hằng năm hoặc
dựa trên nhiều năm (van de Ven, 1988), và trong nghiên cứu quy hoạch, cân bằng như dự kiến
lập kế hoạch tương lai.
7
Hình 2. Chu trình nước đô thị (Nguồn: Jiri Marsalek….)
Tiếp cận quản lý nước dựa trên cơ sở cân bằng khối lượng (nước và vật chất) thì đặc biệt
quan trọng để đánh giá hiệu suất của hệ thống cấp nước đô thị (Gumbo, 2000), quy hoạch đô thị
(tức là cung cấp nước khi dân số ngày càng tăng), và để đối phó với thời tiết khắc nghiệt và biến
đổi khí hậu. Trong thực tế, sự hiểu biết về cân bằng nước là điều cần thiết cho quản lý tổng hợp
nước đô thị, để khắc phục áp lực dân số đô thị và tác động bởi các biện pháp can thiệp (quản lý),
được áp dụng trong quản lý tổng thể của UWC (Lawrence và cộng sự, 1999). Trên phạm vi
không gian rộng lớn hơn của một lưu vực sông đã đô thị hoá, quản lý nước đô thị tích hợp có thể
mang lại lợi ích như duy trì dòng chảy bình thường, kiểm soát lũ, bảo tồn và phát triển tài nguyên
nước, bảo tồn và phục hồi chức năng của một hệ sinh thái, kiểm soát ô nhiễm và cải thiện chế độ
nhiệt (Imbe và cộng sự, 1997)
Hình 3. Chu trình nước đô thị - Thành phần và đường đi chính
8
Vì vậy, nghiên cứu của nước, trầm tích và cân bằng hóa học giúp thiết lập và định lượng
UWC, bằng cách giải quyết các vấn đề như: xác minh các lộ trình trong chu trình; định lượng
dòng chảy và thông lượng các trầm tích và hóa chất dọc theo đường đi, đánh giá thay đổi thành
phần và đánh giá tác động của khí hậu, dân số lên UWC. Ví dụ về cân bằng nước đô thị đã được
cung cấp bởi nhiều tác giả, bao gồm Hogland và Niemczynowicz (1980), Grimmond và Oke
(1986), van de Ven (1988), Stephenson (người đã trình bày một bản tóm tắt của sáu nghiên cứu
của các tác giả khác, 1996), Herrmann và Klaus (1996) và Gumbo (2000). Nó sẽ được lưu ý rằng
sự phát triển của ngân sách nước đô thị đã tìm thấy sự hữu ích trong cả hai nước phát triển (xem
ví dụ Imbe và cộng sự, 1997) và các nước đang phát triển (Gumbo, 2000). Một mô tả ngắn gọn
về các thành phần chính của UWC sau.
Hai nguồn nước chính trong UWC: nguồn nước cấp đô thị và nước mưa. Nước đô thị
thường được lấy từ bên ngoài khu vực đô thị hoặc thậm chí từ một lưu vực khác với số lượng rất
khác nhau phản ánh nhu cầu nước địa phương và sự quản lý của họ. Nước này theo nhiều con
đường vào khu đô thị và phân phối trong đó, một phần bị thất thoát xuống tầng nước ngầm, và
phần còn lại được sử dụng bởi dân cư, chuyển đổi thành nước thải đô thị, và cuối cùng trở về
nước mặt. Nguồn thứ hai, nước mưa, thường sau một con đường dài hơn thông qua các chu trình
nước. Nó rơi xuống dưới các hình thức khác nhau trong khu vực đô thị, là đối tượng thủy văn
(bao gồm cản trở, lưu trữ và bốc thoát hơi nước), một phần thấm vào mặt đất (làm ẩm đất và cung
cấp nước cho mạch nước ngầm) và một phần chuyển đổi thành dòng chảy bề mặt, có thể được
chuyển tải đến nguồn tiếp nhận nước bởi các hệ thống vận chuyển tự nhiên hoặc nhân tạo. Với
những thành công và độ chính xác khác nhau, các thành phần dòng chảy đã được định lượng cho
đô thị khu vực trong các nghiên cứu về cân bằng nước đô thị (Hogland và Niemczynowicz,
1980).
Kiến trúc truyền thống trong khu vực đô thị thường phản ánh những đặc điểm khí hậu của
khu vực. Tuy nhiên, kiến trúc truyền thống ở nhiều thành phố lớn đang được thay thế bởi kiến
trúc hiện đại vì gia tăng dân số và toàn cầu hóa, với thay đổi thích hợp trong thủy văn đô thị. Mật
độ dân số và các tòa nhà, hệ thống thu gom nước mưa, vật liệu sử dụng trong xây dựng, hệ thống
thu gom nước thải là một trong những yếu tố chính gây ra những thay đổi trong chu trình thủy
văn đô thị.
Lối sống trong các khu đô thị ảnh hưởng đến chu kỳ thủy văn thông qua những thay đổi
trong nhu cầu nước sinh hoạt. Sử dụng nước sinh hoạt bình quân đầu người và sử dụng nước
9
trong khu vực công cộng như công viên và cây xanh là những đặc điểm chính mà xác định lối
sống trong các thành phố lớn. Mặc dù yếu tố kinh tế là quan trọng để xác định những đặc điểm
này, mô hình sử dụng nước, truyền thống và văn hóa có tác động đáng kể lên lối sống thành thị.
Quản lý tổng hợp chu trình nước đô thị
Các khái niệm của UWC thể hiện sự kết nối và phụ thuộc lẫn nhau của tài nguyên nước
đô thị và các hoạt động của con người, và sự cần thiết phải quản lý tổng hợp. Để đáp ứng nhu cầu
này, các khái niệm về quản lý UWC tổng hợp đã được giới thiệu tại Úc, và tiếp tục xây dựng bởi
Lawrence và cộng sự (1999). Các loại quản lý nước cơ bản bao trùm trong phương pháp này bao
gồm:
● Tái sử dụng nước thải đã xử lý, làm cơ sở để xử lý các chất ô nhiễm tiềm năng, hoặc
thay thế các nguồn cung cấp nước khác cho các nguồn nước phụ.
● Tích hợp nước mưa, nước ngầm, cung cấp nước và nước thải dựa trên quản lý , làm cơ
sở để:
- Cấp nước kinh tế và đáng tin cậy
- Quản lý dòng chảy môi trường (trì hoãn việc mở rộng cơ sở hạ tầng, tuần hoàn nước sông
suối)
- Cung cấp cảnh quan đô thị
- Thay thế các nguồn nước phụ (nước thải và nước mưa tái sử dụng)
- Bảo vệ nước ở hạ lưu khỏi bị ô nhiễm.
● Bảo tồn nước (quản lý nhu cầu) dựa trên phương pháp tiếp cận, bao gồm:
- Sử dụng nước hiệu quả hơn (các thiết bị tiết kiệm nước, thực hành thủy lợi)
- Thay thế các hình thức cảnh quan (giảm nhu cầu nước)
- Thay thế các quy trình công nghiệp (giảm nhu cầu, tái chế nước).
Các khái niệm về quản lý tổng thể UWC được trình bày ở đây chỉ để minh họa tầm quan
trọng của UWC trong quản lý nước đô thị tổng hợp, nhận ra rằng phương pháp tiếp cận quản lý
môi trường tương thích khác cũng tồn tại, bao gồm sinh thái thủy văn hoặc một phương pháp tiếp
cận hệ sinh thái trụ cột. Trong khi nhiều biện pháp trong số các biện pháp này đã được thực hiện
trong quá khứ, những gì đã bị mất tích là sự hiểu biết về các liên kết trong những thành phần
khác nhau, và ý nghĩa của các thực hành về chất lượng lâu dài của nước ngầm, đất và dòng chảy
môi trường.
10
3. Hạ tầng nước đô thị ở TP. HCM
3.1. Hệ thống cấp nước của TP HCM
Nguồn nước cấp cho hệ thống
Các nhà máy nước cấp ở TP HCM:
3.1.1. Hiện trạng khai thác nước mặt
Các nhà máy xử lý nước cấp, sử dụng nước mặt ở TP.HCM đang hoạt động hiện nay:
Nhà máy nước Tân Hiệp: Ấp Thới Tây 1, xã Tân Hiệp, Huyện Hóc Môn, TP.HCM.
Nhà máy nước Tân Hiệp là một đơn vị sản xuất trực thuộc Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn
được thành lập vào tháng 1 năm 2004. Nhà máy bao gồm Trạm bơm nước thô Hòa Phú tại khu
vực Bến Than, xã Hòa Phú, huyện Củ Chi và Khu xử lý nước Tân Hiệp tại ấp Thới Tây I, xã Tân
Hiệp, huyện Hóc Môn. Hiện nay nhà máy đang sản xuất 300.000 m
3
nước sạch/ngày với qui trình
công nghệ xử lý như sau: nước sông Sài Gòn được trạm bơm Hòa Phú đưa về khu xử lý nước Tân
Hiệp theo tuyến ống 1800 mm.
11
Dự án thuộc mạng cấp nước phía Tây cấp nước cho các khu vực: quận 6, 7, 8, 11, 12, Tân
Bình, Tân Phú, Bình Tân, Bình Chánh và huyện Nhà Bè; phường 1, Q.Gò Vấp; phường 10, 11,
12, 13 Q.Phú Nhuận và phường 5, 11, 12 Q.Bình Thạnh.
Nhà máy nước Thủ Đức: 02 Lê Văn Chí, phường Linh Trung, quận Thủ Đức.
Nhà mát nước Thủ Đức có công suất 750.000 m
3
/ngày. Nước được bơm từ trạm bơm Hóa
An trên sông Đồng Nai. Ngoài ra mỗi ngày bổ sung thêm 100.000m
3
của Công ty Cấp nước Bình
An. Vậy tổng lượng nước sạch của Nhà máy nước Thủ Đức cung cấp cho Thành phố với lưu
lượng ổ định là 850.000m
3
/ngày đêm
Nhà máy nước BOO Thủ Đức
Nước được lấy từ trạm bơm nước với công suất 315.000 m
3
/ngày đêm được xây dựng bên
cạnh trạm bơm Hóa An.
Nhà máy nước Thủ Đức công suất 300.000 m
3
/ngày đêm cung cấp nước cho người dân tại
các quận 9, 2, 4, 7, 8 và đặc biệt là huyện Nhà Bè. Sắp tới, khi Sawaco hoàn thành việc đấu nối
tuyến ống D1500 Bình Thái – Bình Lợi với tuyến ống D2000 của TDW, nguồn nước sạch sẽ đến
với người dân tại quận Thủ Đức, Bình Thạnh và Gò Vấp.
Nhà máy nước BOT Bình An:
Công suất: 100.000 m
3
/ngày đêm
Nhà máy nước BOT Bình An có công suất là 100.000 m
3
/ngày.đêm. Toàn bộ dự án được
xây dựng trong vòng 30 tháng, bao gồm các công trình:
+ Xây dựng các trạm bơm lấy nước thô từ sông Đồng Nai và 32km đường ống dẫn nước thô
đường kính 1,2m đến nhà máy xử lý tại xã Bình An, Dĩ An, Bình Dương, ngay sát với
TP.HCM.
+ Xây dựng nhà máy xử lý nước với công suất 100.000 m
3
với bể lọc, bể chứa và trạm bơm.
+ Lắp đặt 6km đường ống dẫn nước sạch đường kính 1m.
+ Lắp đặt máy phát điện diesel để cấp điện cho trạm lấy nước thô và nhà máy xử lý.
+ Lắp đặt đường ống đường kính 0,45 m qua cầu Đồng Nai.
Nhà máy nước Kênh Đông
Ngày 6/62013, nhà máy Kênh Đông chạy thử tải liên tục trong 72 giờ để kiểm tra tính ổn
định của thiết bị, chất lượng nước đảm bảo trước khi đấu nối vào mạng cấp nước sinh hoạt cho
các hộ dân ở quận 12, Tân Bình, Tân Phú, Hóc Môn, Bình Chánh và Bình Tân.
Nhà máy nước Kênh Đông được khởi công từ năm 2006 có tổng công suất 200.000 m
3
/ngày
với tổng vốn 1.250 tỉ đồng do Công ty cổ phần Cấp nước Kênh Đông làm chủ đầu tư. 150.000 m
3
nước sau xử lý được đưa theo đường ống D1.200 dài 12km từ nhà máy nước Kênh Đông (Củ
Chi) về bể chứa nhà máy nước Tân Hiệp (Hóc Môn) phân phối cho người dân. 50.000 m
3
nước
còn lại theo công suất của nhà máy sẽ được dẫn về cấp cho huyện Củ Chi (TPHCM) và các khu
công nghiệp ở huyện Đức Hòa, Đức Huệ, tỉnh Long An.
12
Theo quy hoạch cấp nước thành phố, nhà máy nước Kênh Đông sẽ được nâng công suất
thêm 150.000 m
3
/ngày (giai đoạn 2) vào năm 2015 để bổ sung nguồn nước sạch cấp cho Củ Chi.
Việc nhà máy Kênh Đông đưa vào hoạt động, cung cấp thêm nguồn nước sạch cho người
dân thành phố cùng với các nhà máy nước Tân Hiệp, Thủ Đức, Hóc Môn, Bình An, cụm giếng
Bình Trị Đông, cụm giếng Gò Vấp, hệ thống giếng lẻ với tổng công suất khoảng 1,7 triệu m
3
mỗi ngày.
Toàn bộ nguồn nước thô lấy từ hồ Dầu Tiếng. Dự báo nhu cầu sử dụng nước của thành phố
đến năm 2015 gần 2,8 triệu m
3
/ngày và đến năm 2025 tăng lên gần 3,8 triệu m
3
/ngày. Các nguồn
nước thô cấp cho Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu được lấy từ sông Sài Gòn, hồ Dầu Tiếng (0,95
triệu m
3
/ngày), sông Đồng Nai và hồ Trị An (gần 1,5 triệu m
3
/ngày) và nguồn nước ngầm khai
thác bổ sung (gần 0,5 triệu m
3
/ngày).
Nhà máy nước Thủ Đức III:
Nhà máy nước Thủ Đức giai đoạn 3 có công suất 300.000 m³/ngày, sử dụng nguồn nước
sông Đồng Nai; trạm bơm nước thô diện tích 1,3ha tại Hóa An, tỉnh Đồng Nai; khu xử lý nước và
trạm bơm nước sạch diện tích gần 3ha tại Nhà máy nước Thủ Đức. Tổng mức đầu tư nhà máy
1.200 tỷ đồng do SWIC làm chủ đầu tư; công trình sẽ hoàn thành các hạng mục xây dựng, vận
hành thử vào giữa năm 2014 và sau đó chính thức hòa mạng cung cấp nước cho khoảng 600.000
hộ dân.
Nhà máy nước Thủ Đức giai đoạn 3 hoàn thành đi vào hoạt động sẽ tăng thêm lưu lượng và
áp lực để phục vụ cho các phường Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Tam Phú, Tam Bình,
Bình Chiểu, Linh Đông của quận Thủ Đức; phường 5, 6, 7, 11, 12, 13 của quận Bình Thạnh;
quận Phú Nhuận; phường 1, 3, 4, 5 ,6, 7, 10, 17 của quận Gò Vấp; một phần của quận 1, 3 và Tân
Bình.
3.1.2. Hiện trạng khai thác nước ngầm:
Các nhà máy khai thác nước ngầm ở TP HCM hiện nay:
- Nhà máy nước ngầm hóc môn: Công suất 80.000 m³/ngày, cung cấp nước cho các quận 6, 11 và
Bình Tân.
- Nhà máy nước ngầm Tân Bình:có công suất: 65.000m
3
/ngày xử lý nước thô từ hàng chục giếng
bơm cấp về.
- Nhà máy khai thác nước ngầm Bình Hưng, huyện Bình Chánh: Công suất 15.000 m³/ngày
- Nhà máy nước ngầm Củ Chi 10.000 m³/ngày
- Nhà máy nước ngầm Bình Trị Đông: 8.000 m³/ngày
- Nhà máy nước ngầm Gò Vấp 10.000 m³/ngày.
3.1.3. Dự báo nhu cầu sử dụng nước đến năm 2025
Bảng 1. Nhu cầu sử dụng nước của TP HCM đến năm 2025
13
Stt Nhu cầu Năm 2015
/ngđ
Năm 2025
/ngđ
1 Nhu cầu nước sử dụng sinh hoạt 1.420.000 1.887.000
2 Nhu cầu sử dụng nước công nghiệp 165.000 246.000
3 Nhu cầu sử dụng nước các loại hình dịch
vụ khác
340.000 589.000
4 Nước thất thoát 825.000 848.000
Tổng nhu cầu sử dụng nước 2.750.000 3.570.000
(Nguồn: theo quyết định số 729/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)
3.1.4. Nội dung quy hoạch nguồn nước cấp đến năm 2025 của TP.HCM
3.1.4.1. Về các nhà máy nước
Bảng 2. Nội dung quy hoạch các nhà máy nước đến năm 2025 của TP HCM
TT Nhà máy nước Công suất /ngđ
Hiện trạng
năm 2013
Giai đoạn đến
năm 2015
Giai đoạn đến
năm 2025
I Nguồn sông Đồng Nai/ Hồ
Trị An
1 Nhà máy nước Thủ Đức 750.000 750.000 750.000
2 Nhà máy nước Thủ Đức II
(BOO)
300.000 300.000 300.000
3 Nhà máy nước Thủ Đức III 300.000 300.000
4 Nhà máy nước Thủ Đức IV
(sau năm 2018)
300.000
5 Nhà máy nước Thủ Đức V
(sau năm 2024 )
500.000
6 Nhà máy nước Bình An 100.000 100.000
Tổng công suất 1.150.000 1.450.000 2.250.000
II Nguồn sông Sài Gòn/Hồ
Dầu Tiếng
1 Nhà máy nước Tân Hiệp I 300.000 300.000 300.000
2 Nhà máy nước Tân Hiệp II
(2015)
300.000 300.000
3 Nhà máy nước Tân Hiệp III
(2020)
300.000
4 Nhà máy nước Kênh Đông I
(năm 2012)
+ Cấp cho nội thành
+ Cấp cho Củ Chi
200.000
150.000
50.000
200.000
150.000
50.000
200.000
150.000
50.000
5 Nhà máy nước Kênh Đông II
(năm 2015 ) cấp cho Củ Chi
và Long An
150.000 250.000
Tổng công suất 500.000 950.000 1.350.000
III Nguồn nước ngầm
14
1 Nhà máy nước Tân Bình 65.000 75.000 75.000
2 Các giếng lẻ nội thành 2.000 0 0
3 Nhà máy nước Gò Vấp 10.000 10.000 10.000
4 Nhà máy nước Bình Trị Đông 8.000 8.000 0
5 Nguồn xã hội hóa (nước
ngầm)
3.000 2.000 0
6 Nhà máy nước Bình Hưng 15.000 15.000 15.000
7 Công nghiệp đã cấp phép 350.861 190.000 0
8 Sinh hoat/ dân cư/ hộ gia đình 256.000 140.000 0
Tổng công suất
709.861 440.000 100.000
Tổng cộng công suất toàn
thành phố
2.359.861 2.840.000 3.700.000
(Nguồn: theo quyết định số 729/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)
Theo đó, đến năm 2015 tổng nhu cầu sử dụng nước của toàn thành phố là 2.750.000
m
3
/ngày và năm 2025 là 3.570.000 m
3
/ngày , trong khi đó quy hoạch nguồn cấp nước đến năm
2015 là 2.840.000 m
3
/ngày và năm 2025 là 3.700.000 m
3
/ngày. Như vậy, có thể nhận thấy rằng
công suất hoạt động của các nhà máy nước cấp có thể cung ứng được nhu cầu sử dụng nước của
toàn thành phố trong tương lai.
3.1.4.2. Về nguồn nước
Sông Đồng Nai (có sự điều tiết của hồ Trị An): khai thác với lưu lượng 2,5 triệu
m
3
/ngày.đêm để cung cấp nước thô cho các nhà máy nước sử dụng nguồn nước sông Đồng Nai.
Sông Sài Gòn (có sự điều tiết của hồ Dầu Tiếng và hồ Phước Hòa): khai thác với lưu lượng
01 triệu m
3
/ngày.đêm để cung cấp nước thô cho các nhà máy sử dụng nguồn nước sông Sài Gòn.
Kênh Chính Đông (có sự điều tiết của hồ Dầu Tiếng và hồ Phước Hòa): khai thác với lưu
lượng 01 triệu m
3
/ngày.đêm để cung cấp nước thô cho các nhà máy sử dụng nguồn nước kênh
Đông.
3.1.4.3. Về công trình dẫn nước thô
Tuyến dẫn nước thô Hóa An – nhà máy nước Thủ Đức: xây dựng và lắp đặt bổ sung máy
bơm, trang thiết bị và các công trình phụ trợ để tổng công suất đạt 2.500.000 m
3
/ngày.đêm giai
đoạn 2025; xây dựng thêm tuyến ống nước thô D2400 mm dài 11km từ Hóa An về nhà máy nước
Thủ Đức.
Tuyến ống nước thô Hòa Phú – nhà máy nước Tân Hiệp: xây dựng và lắp đặt bổ sung máy
bơm, trang thiết bị và các công trình phụ trợ để tổng công suất đạt 1.000.000 m
3
/ngày.đêm giai
đoạn 2025; xây dựng thêm tuyến ống nước thô D2000 mm dài 9,1km từ Hòa Phú về nhà máy
nước Tân Hiệp ngay từ giai đoạn 2015.
15
3.1.4.4. Về mạng lưới đường ống cấp nước
Các tuyến ống chuyển tải từ nhà máy nước Thủ Đức: cải tạo tuyến ống D2000mm hiện hữu
ở xa lộ Hà Nội, hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng tuyến D2000mm BOO Thủ Đức, tuyến
ống D2400mm Thủ Đức – Bình Thái.
Các tuyến ống chuyển tải từ nhà máy nước Tân Hiệp: tuyến ống D1500mm hiện hữu; hoàn
thành xây dựng và đưa vào sử dụng tuyến ống D2000mm.
3.1.4.5. Các dự án ưu tiên thực hiện trong giai đoạn 2010 – 2015
• Các dự án ưu tiên về nguồn nước thô:
+ Dự án 1: Nghiên cứu khả năng và quy mô khai thác nguồn nước từ hồ Trị An, hồ Dầu Tiếng, hồ
Phước Hòa thay thế cho nguồn nước sông Đồng Nai và sông Sài Gòn (trong trường hợp sông Sài
Gòn và sông Đồng Nai bị ô nhiễm và nhiễm mặn) để cung cấp nước cho Tp.HCM.
+ Dự án 2: xây dựng hệ thống chuyển tải nước thô từ hồ Trị An cung cấp cho các nhà máy nước sử
dụng nước sông Đồng Nai.
+ Dự án 3: xây dựng hệ thống chuyển tải nước thô từ hồ Dầu Tiếng đến cung cấp cho các nhà máy
nước sử dụng nước sông Sài Gòn.
• Các dự án ưu tiên xây dựng nhà máy nước:
+ Dự án đầu tư xây dựng Nhà mày nước Thủ Đức III công suất 300.000 m
3
/ngày đêm.
+ Dự án đầu xây dựng Nhà mày nước Tân Hiệp giai đoạn II công suất 300.000 m
3
/ngày đêm.
3.2. Hệ thống thoát nước ở TP.HCM
Nội thành TP.HCM có 5 hệ thống kênh rạch chính, với tổng chiều dài 76 km, bao gồm
Nhiêu Lộc - Thị Nghè; Tân Hóa - Lò Gốm; Tàu Hũ - Kênh Đôi; Kênh Tẻ - Bến Nghé; Tham
Lương - Bến Cát - Vàm Thuật. Hệ thống kênh rạch này cùng với sông Sài Gòn (khoảng 38km) có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc thoát nước.
3.2.1. Hệ thống kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè chảy trên vùng trũng thấp của khối đất xám phát triển trên
phù sa cổ có độ cao khoảng 8 m, sa cấu là cát pha sét. Đây là hệ thống thoát nước chính tự nhiên
cho nhiều lưư vực thuộc các quận nội thành Thành phố Hồ Chí Minh (Tân Bình, Gò Vấp, Phú
Nhuận, Bình Thạnh, quận 10, quận 3 và quận 1) đổ ra sông Sài Gòn. Hệ thống này có lưu vực
khoảng gần 3000 ha, chiều dài dòng chính của kênh là 9470m, các chi lưu có chiều dài tổng cộng
8716m. Khi chưa nạo vét, ở đầu nguồn, kênh chỉ rộng từ 3 –5m, nhưng đến gần cửa sông, chiều
rộng mở ra đến 60 – 80m và sâu 4 –5m. Dọc theo kênh có 52 cửa xả. Mặc dù có chiều dài khá xa
nhưng độ chênh lệch giữa cao độ địa hình đầu nguồn (Tân Bình) và cuối nguồn ( sông Sài Gòn)
16
quá thấp , chỉ khoảng 1m. Mặt khác, dòng kênh phải qua nhiều khúc uốn từ đoạn cầu Lê Văn Sỹ
đến cầu Bông nên mức độ chuyển tải các chất thải ra sông Sài Gòn rất kém.
Trong suốt quá trình phát triển của Thành phố, hệ thống kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã
từng (và vẫn tiếp tục) là nguồn tiếp nhận chất thải nói chung của mọi hoạt động dân sinh, dịch vụ,
thương mại, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên lưu vực. Thế nhưng tất cả các chất thải đó
đến nay hầu như vẫn chưa được xử lý mà thải trực tiếp vào kênh rạch gây ra tình trạng ô nhiễm
môi trường trầm trọng. Hơn thế nữa, nạn lấn chiếm lòng kênh rạch để xây cất nhà ở ( hệ quả của
quá trình đô thị hoá và phát triển dân số thiếu quy hoạch) của hàng vạn căn nhà ổ chuột trên hệ
thống này hằng ngày đã thải trực tiếp các loại rác như phân, rác , xác súc vật xuống mặt nước
càng làm tăng thêm mức độ ô nhiễm nguồn nước, thu hẹp dòng chảy gây bít tắt dòng chảy và làm
mất vẻ mỹ quan đô thị một cách trầm trọng . Ngoài ra do các yếu tố khách quan, hệ thống kênh
Nhiêu Lộc – Thị Nghè còn chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông.
Nên khi nước lớn , nuớc thải trên kênh rạch chưa kịp thoát ra sông Sài Gòn đã bị thuỷ triều dồn ứ
đọng vào sâu trong rạch và trong đường cống, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tích tụ các chất ô
nhiễm và bồi lắng lòng kênh rạch , gây khó khăn lớn cho việc thoát nước của hệ thống này.
Ngoài tuyến kênh chính, hệ thống kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè còn có các rạch nhánh:
- Rạch Văn Thánh: dài 2.200m, nằm trên địa bàn quận Bình Thạnh. Trước đây, có khả năng
lưu thông thuỷ, nay đã bị bồi lấp nhiều, mất dần khả năng giao thông thuỷ và khả năng thoát
nước.
- Rạch Cầu Sơn – Cầu Bông : dài 3.950m, cũng nằm trên địa bàn quận Bình Thạnhvà ăn thông
với rạch Văn Thánh. Tuyến rạch này hiện nay cũng bị bồi lấp nhiều
- Rạch Bùi Hữu Nghĩa: là một tuyến rạch nhỏ dọc theo đường Bùi Hữu Nghĩa, thuộc địa bàn
quận Bình Thạnh.
- Rạch Phan Văn Hân: nằm trên địa bàn quận Bình Thạnh. Nay đã bị lấp gần kín
- Rạch Ông Tiêu: thuộc khu qui hoạch Miếu Nổi, thuộc địa bàn quận Phú Nhuận
- Rạch Miếu Nổi: thuộc khu quy hoạch Miếu Nổi thuộc địa bàn quận Phú Nhuận
- Rạch bùng binh
3.2.2. Hệ thống kênh Tân Hoá - Lò Gốm
17
Hệ thống kênh Tân Hoá – Lò Gốm nằm trong khu cận trung tâm của nội thành Thành phố
Hồ Chí Minh, tuyến kênh chính có chiều dài khoảng 7.6 km chạy từ hướng Đông Bắc xuống Tây
Nam Thành phố đi ngang qua các quận: Tân Bình, quận 11, quận 6, quận 8 và kết thúc tại điểm
nối với kênh Tàu Hũ.
Ngoài tuyến kênh chính, hệ thống kênh Tân Hoá – Lò Gốm còn có các rạch nhánh:
- Rạch Đầm Sen: rộng 6-8m, dài khoảng 300m, nằm trên địa bàn quận 11. Rạch này nối với
khu công viên Đầm Sen và có một nhánh là rạch Cầu Mé đảm nhận chức năng thoát nước cho
khu vực Hàn Hải Nguyên- Minh Phụng- Lạc Long Quân. Rạch Cầu Mé đã lập dự án đầu tư cải
tạo thành cống hộp, còn rạch Đầm Sen được giữ lại sau khi thực hiện các biện pháp làm sạch,
chỉnh trang kết hợp với công viên Đầm Sen phục vụ nghỉ ngơi, giải trí.
- Rạch Bến Trâu: rộng 4-8m, dài 1.000m, là ranh giới hành chánh giữa 2 quận : Tân Bình
và quận 6, đảm nhận chức năng tiêu thoát nước cho Xí nghiệp Thực phẩm Cầu Tre (1200m
3
nước
thải/ngày) và khu vực dân cư, tiểu thủ công nghiệp lân cận . Rạch này đang bị bồi lấp, lấn chiếm
và ô nhiễm rất nặng. Rạch Bến Trâu còn có một nhánh là kênh Hiệp Tân, hiện đang được cải tạo
lại. Đoạn đầu là cống kín còn đoạn sau là mương hở kè đá nhưng chưa phát huy tác dụng vì rạch
Bến Trâu đã bị lấp.
- Rạch Bà Lài: rộng khoảng 10m , dài 1200m, thoát nước cho khu phía Tây quận 6, nhiều
đoạn bị san lấp, gây tình trạng ngập úng cục bộ do bị cắt mất nguồn thoát, cần có sự nghiên cứu
giải quyết gấp để phục vụ thoát nước và phù hợp với kế hoạch san lấp.
- Kênh Thúi: rộng 2m, dài 720m, thoát nước cho khu vực phường 19 quận Tân Bình, hiện
không còn khả năng thoát nước , gây ngập và ô nhiễm nặng nề cho khu vực, đã lập dự án đầu tư
cải tạo kênh thành cống kín.
- Một phần kênh Hàng Bàng: từ đường Bình Tiên đến rạch Lò Gốm, rộng 1.5-2m, dài
300m. Gây ngập cho một phần khu vực quận 6.
Lưu vực kênh Tân Hoá- Lò Gốm có diện tích khoảng 1.484ha, trải rộng ra 5 quận: Tân
Bình, quận 11, quận 6, quận 8 và Bình Chánh. Độ sâu nguyên thuỷ của kênh này là 6m, giờ đây
giảm chỉ còn 2.5-3m hoặc thậm chí bị lấp gần đầy bởi bùn và rác rưởi như ở đoạn từ cầu Phú
Lâm đến thượng nguồn. Kênh này đảm nhận chức năng tiêu thoát nước cho các quận nói trên.
Đáy kênh vừa nhỏ lại hẹp và bị lấn chiếm bởi các căn hộ xây cất bất hợp pháp. Kênh còn bị ảnh
hưởng bởi thuỷ triều cũng như mực nước tăng lên ở sông Cần Giuộc. Anh hưởng triều chỉ biểu
18
hiện rõ ở phần kênh phía hạ lưu từ cầu Hậu Giang trở ra, phần còn lại của kênh đã bị tắc nghẽn
cùng với nước thải gây ra vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng.
Việc xây cất lấn chiếm bừa bãi ven kênh gây trở ngại lớn đến dòng chảy và là nguồn gây ô
nhiễm quan trọng do tình trạng thiếu các phương tiện vệ sinh, các chất thải được xả trực tiếp
xuống dòng kênh. Mặt khác, công tác duy tu bảo dưỡng thường kỳ cũng khó thực hiện vì không
có đường công vụ cho xe máy thi công.
Chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều trên sông Sài Gòn và do lưu lượng nước thải rất
nhỏ so với khả năng thoát nước của kênh. Vào mùa khô, phần lớn nước thải từ cầu Tân Hoá trở
lên thượng nguồn bị lưu giữ nhiều ngày trên kênh, phần còn lại được thau rửa hàng ngày bởi
nước sông Cần Giuộc đưa vào pha loãng. Tình trạng này biến đoạn kênh từ thượng nguồn đến
cầu Tân Hóa thành một hồ sinh vật tự nhiên, hoạt động chủ yếu trong môi trường kỵ khí (lượng
oxy hoà tan bổ sung qua bề mặt nước rất nhỏ do dòng chảy chậm).
3.2.3. Hệ thống kênh Tàu Hủ - kênh Đôi – kênh Tẻ
Hệ thống kênh Tàu Hủ – kênh Đôi – kênh Tẻ được đào vào năm 1819 nằm ngay ở phía
Nam quận thương mại trung tâm thành phố. Hệ thống kênh này chảy qua 7 quận : 4, 5, 6, 7, 8 và
11 với tổng độ dài 19.5km. Kênh bị giới hạn bởi rạch Cần Giuộc và sông Sài Gòn ở hai đầu, nhận
nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp từ các quận đã nói ở trên . Hơn nữa, việc xả trực
tiếp rác từ các cư dân và ghe xuồng trong các quận này và các căn hộ lụp xụp xây cất bất hợp
pháp đã làm xấu đi tình trạng môi trường của các kênh. Kênh còn bị ảnh hưởng bởi thuỷ triều từ
hai hướng.
Ngoài tuyến kênh chính, hệ thống này còn có rất nhiều các kênh, rạch nhánh và các chi
lưu ăn thông ra các sông lớn: Sài Gòn, Nhà Bè.
- Rạch Ụ Cây: dài 1.150m hiện đã bị lấn chiếm và bồi lắng
- Rạch Ông Nhỏ 1.700m
- Rạch Xóm Củi 1.100m
- Rạch Bà Tàng 2.050m
- Kênh Ngang số 1: 450m
- Kênh Ngang số 2 450m
- Kênh Ngang số 3 450m
- Kênh Hàng Bàng 1.700m
19
Hệ kênh này chịu ảnh hưởng của thuỷ triều từ sông Sài Gòn và sông Cần Giuộc nên chế độ
thuỷ văn của kênh rất phức tạp, hình thành những vùng giáp nước, ô nhiễm tích tụ lại và khó thau
rửa.
Hiện tại, mặt cắt kênh vẫn còn khá rộng nhưng cạn vì bị bồi lắng . Tuyến kênh này ngoài
nhiệm vụ thoát nước còn giữ chức năng rất quan trọng là giao thông thuỷ. Nhưng lưu lượng tàu
thuyền đi lại trên tuyến đã bị giảm sút rõ rệt vì rạch đã bị cạn, không đảm bảo độ sâu chạy tàu,
thời gian chờ tàu khá lâu và thường bị kẹt rác.
3.2.4. Hệ thống kênh Bến Nghé
Kênh Bến Nghé bắt đầu từ cửa sông Sài Gòn đến cầu chữ Y dài 3.15km. Cao độ đáy chênh
lệch là 0.61m , độ dốc đáy rạch 0.019% , tại cửa rạch Bến Nghé là sông Sài Gòn bờ trái có bãi đất
bồi cao độ lên đến 1-1.2m so với đáy kênh hiện hữu.
Dân sống hai bên bờ, thường dùng những mặt nước trống này trồng rau muống thành những
bãi lớn làm hạn chế thoát nước của cửa rạch ra sông Sài Gòn. Mặt cắt lớn nhất của kênh là 88-
92m, nhỏ nhất là 60-58m. Cao độ đáy rạch từ 2.2m cho đến 1.87m. Ở giữa kênh phần mặt cắt bị
thu hẹp cao độ 1.75m.
Như vậy kênh Bến Nghé có đặc điểm: sâu và rộng ở hai đầu; hẹp và cạn ở giữa. Dọc kênh
là hai con đường: đường bến Vân Đồn ở quận 4 và đường bến Chương Dương ở quận 1.
Dân chúng ở hai bên bờ kênh xây cất nhà lấn chiếm lòng kênh xả rác. Hơn nữa, phía quận 1
có Chợ Cầu Mối, Chợ Cầu Ông Lãnh cũng là nơi tập trung nhiều rác rưởi, và kênh lại trở thành
những bãi đổ rác của chợ này ( rác của chợ này gồm các loại vỏ sò, vỏ hến, rau quả thối, cá tôm
chết hay các chất thải khác) làm bồi lắng lòng kênh, cản trở dòng chảy.
Dọc theo chiều dài của rạch có 21 cửa xả chính của hệ thống thoát nước đổ ra rạch. Các cửa
xả này hiện bị xả rác bừa bãi, chỉ hoạt động được từ 60-80% so với thiết kế ban đầu.
3.2.5. Hệ thống kênh Tham Lương – Bến Cát- Vàm Thuật
Tuyến Tham Lương – Bến Cát- Vàm Thuật là một tuyến rạch quan trọng ở phía Bắc thành
phố, nằm ngay ranh giới nội thành (cũ) của TpHCM. Tuyến kênh dài 12km, trong đó đoạn Vàm
Thuật hiện còn rất rộng, lưu thông thuỷ và thoát nước khá tốt . Riêng đoạn kênh Tham Lương, từ
cầu Chợ Cầu đến thượng nguồn đã bị bồi lấp, thu hẹp dòng chảy và ô nhiễm đến mức bao động.
Tại đây, có khá nhiều xí nghiệp công nghiệp như: thực phẩm Vifon, dầu Tường An, dệt Thắng
Lợi, dệt Thành Công…. Xả nước thải ra kênh, thuỷ triều không đủ để thau rửa nên đã tích tụ ô
nhiễm khá trầm trọng.
20
3.3. Hệ thống nhà máy xử lý nước thải tại TP HCM
3.3.1. Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng Hòa
3.3.1.1. Giới thiệu
Đây là trạm xử lý nước thải áp dụng công nghệ hồ sục khí và ổn định chất thải cho Kênh
Nước Đen – TP.HCM. Đây là dự án thí điểm được xây dựng trên cơ sở hợp tác giữa 2 chính phủ
Việt Nam và Vương Quốc Bỉ. Nằm trong dự án nâng cấp đô thị và làm sạch kênh Tân Hóa - Lò
Gốm (giai đoạn mở rộng). Tổng chi phí đầu tư: 131,8 tỉ VNĐ (8,09 triệu USD). Bắt đầu vận hành
vào tháng 5/2006.
3.3.1.2. Quy mô hoạt động
Trạm tiếp nhận 60 – 80% lưu lượng nước thải của Kênh Đen, trên một lưu vực rộng khoảng
785 ha bao gồm nước thải sinh hoạt cảu 120.000 người và nước thải sản xuất không được xử lý
nằm trong khu vực.
Tổng diện tích: 35,4ha. Công suất thiết kế là 30.000 m
3
/ngày đêm nhưng hiện nay đang hoạt
động với công suất 26.000 m
3
/ngày đêm. Lượng bùn ở hồ lắng được hút một năm một lần (bùn
dâng 30 cm mỗi năm).
3.3.1.3. Thông số thiết kế
- Tổng diện tích: 35,4 ha.
- Diện tích các hồ: 22,63 ha.
- Diện tích vùng xanh: 5,34 ha.
- Công suất thiết kế: 30.000 m
3
/ngày đêm.
- Công suất mở rộng: 46.000 m
3
/ngày đêm (tính đến năm 2020)
- Sản lượng bùn: 560 m
3
/ngày đêm.
- Thời gian lưu nước: 14,4 ngày.
- Hao hụt thể tích nước bay hơi: 5mm/ngày.
- Hao hụt thể tích nước do tự thấm: 2-3 mm/ngày.
3.3.2. Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
Nhà máy xây dựng tại khu đầm lầy thuộc ấp 5, xã Bình Hưng, huyện Bình chánh. Phía đông
giáp kênh Tắc Bến Rô, phía tây giáp rạch Bến Cũi.
3.3.2.1. Tiêu chuẩn thiết kế
Giai đoạn 1:
Năm
thực
hiện
Diện
tích lưu
vực
Dân số
(người)
Công suất
xử lý
(m
3
/ngày)
Lưu vực
Công nghệ
Chất lượng nước
thải sau xử lý
(QCVN 14:2008)
2008 824,8 ha 425.830 141.000 Quận 1, 3, Bùn hoạt Loại B
21
5 và một
phần quận
10
tính cải
tiến
(BOD ≤ 50 mg/L,
SS ≤ 100 mg/L)
Ghi chú:
- BOD: Nhu cầu Oxy hóa sinh học, có nghĩa là lượng Oxy cần thiết để vi sinh vật dùng
để khử các chất hữu cơ có trong nước thải.
- SS : Hàm lượng chất rắn lơ lửng có trong nước.
Hình 4. Sơ đồ tuyến cống thu gom nước thải của nàh máy xử lý nước thải
Bình Hưng giai đoạn 1
Nước thải từ các tuyến cống bao trong lưu vực Tàu Hủ - Bến Nghé – Kênh Đôi – Kênh Tẻ
được trung chuyển qua Trạm bơm Đồng Diều trước khi về nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng.
Trạm bơm Đồng Diều được xây dựng tại Khu Đồng Diều, phường 4, quận 8, TP.HCM với
diện tích 0,6ha.
Công suất trạm bơm:
- Giai đoạn 1: 133,3 m
3
/phút (192.000 m
3
/ngày).
- Giai đoạn 2: 400 m
3
/phút (576.000 m
3
/ngày).
22
3.3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
- Cải thiện môi trường nước, giảm ô nhiễm môi trường, giảm úng ngập, cải thiện cảnh quan
lưu vực Kênh Tàu Hủ – Bến Nghé – Kênh Đôi – Kênh Tẻ với công suất xử lý trong giai đoạn I là
141.000m3 /ngày nhằm phục vụ cho hơn 425.000 dân, thuộc lưu vực quận 1, 3, 5 và một phần
quận 10.
- Giải quyết tình trạng úng ngập tại các khu vực trũng như cư xá Thanh Đa (quận Bình
Thạnh), bến Mễ Cốc (quận 8).
Nước thải sẽ được thu gom qua tuyến cống bao dài gần 6.600m chạy dọc theo đường Tôn
Đức Thắng – Hàm Nghi – Trần Hưng Đạo-Trần Tuấn Khải và đi ngầm xuống kênh Tàu Hủ qua
khu Đồng Diều, quận 8. Từ đây sẽ bơm nước thải đến nhà máy xử lý. Khi nước thải đạt tiêu
chuẩn mới xả ra kênh rạch.
Hình 5. Sơ đồ nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
Giai đoạn đầu nhà máy có công suất 141.000m
3
/ngày đêm, vốn đầu tư hơn 1.500 tỷ đồng,
xử lý nước thải cho lưu vực hơn 1000ha thuộc quận 1, 3, 5, 6, 8 và huyện Bình Chánh. Giai đoạn
2 nâng công suất nhà máy lên 512.000m3/ngày đêm, xử lý cho lưu vực hơn 3000 ha thuộc 11
quận huyện: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Tân Bình, Bình Thạnh và Bình Chánh.
Nhà máy giai đoạn 1 hoàn thành vào năm 2008. Đây là một trong những gói thầu thuộc Dự
án Cải thiện môi trường nước TP.HCM lưu vực kênh Tàu Hủ – Bến Nghé – Đôi – Tẻ với tổng
23
vốn đầu tư hơn 4.100 tỷ đồng. Phần lớn nguồn vốn xây dựng nhà máy vay từ Ngân hàng Hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JBIC).
3.3.2.3. Các hạng mục xử lý nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng
Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng hiện có 09 khu vực xử lý gồm trạm bơm nâng, bể lắng
sơ cấp, bể sục khí, bể lắng thứ cấp, bể khử trùng, bể cô đặc bùn trọng lực, thiết bị cô đặc bùn ly
tâm, thiết bị tách nước và nhà ủ phân compost. Các khu vực xử lý được duy trì hoạt động liên tục
24/24, đảm bảo xử lý nước thải cho lưu vực thu gom. Sau hơn 3 năm vận hành, tổng lưu lượng đã
xử lý đạt 118 triệu m
3
nước thải, chất lượng nước đầu ra đạt tiêu chuẩn TCVN 5945 – 2005.
3.3.3. Dự án nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt đang triển khai của TP HCM
3.3.3.1. Nhà máy xử lý nước Suối Nhum
Nguồn nước thải của suối Xuân Trường, suối Nhum, suối Gò Cát khu vực quận 9, TPHCM
và một phần nước thải của huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương chảy qua Khu công nghệ cao TPHCM
sẽ được thu gom và xử lý tại nhà máy xử lý nước thải Suối Nhum công suất 65.000 m
3
/ngày, với
công suất xử lý 65.000 m
3
/ngày, nhà máy xử lý nước thải Suối Nhum sẽ giúp giảm ô nhiễm môi
trường khu vực phía Đông TPHCM và giúp cải thiện môi trường nguồn nước sông Đồng Nai,
vốn đang là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chính cho TPHCM.
3.3.3.2. Nhà máy xử lý nước thải Tây Sài Gòn
Công suất xử lý 150.000 m
3
/ngày cho lưu vực Tham Lương - Bến Cát - Rạch Nước Lên, sẽ
được xây dựng trên diện tích 11 héc ta ở quận Bình Tân với tổng vốn xây dựng nhà máy ước
khoảng 80 triệu đô la Mỹ.
Theo kế hoạch, nhà máy sẽ vận hành vào năm 2015, xử lý nước thải cho các hộ dân lưu vực
Tham Lương-Bến Cát-Rạch Nước lên quận 12, Tân Phú, Bình Tân.
Theo quy hoạch, lưu vực Tham Lương-Bến Cát-Rạch Nước Lên sẽ có 3 nhà máy xử lý
nước thải gồm nhà máy xử lý nước thải Tây Sài Gòn (150.000 m
3
/ngày), nhà máy Tham Lương-
Bến Cát (250.000 m
3
/ngày) và nhà máy Bình Tân (180.000 m
3
/ngày).
3.3.3.3. Nhà máy xử lý nước thải Tham Lương – Bến Cát
Địa chỉ: phường An Phú Đông, Quận 12, TP.Hồ Chí Minh
24
Quy mô dự án:
+ Công suất: 250.000 m
3
/ng.đ
+ Thời gian thực hiện dự án: từ năm 2008 đến năm 2015.
3.3.3.4. Nhà máy xử lý nước Bình Tân: công suất (180.000 m
3
/ngày).
3.3.4. Hiện trạng thoát nước và chống ngập úng ở TP.HCM
3.3.4.1. Thực trạng ngập úng và nguyên nhân
Thực trạng
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) nằm ở hạ lưu lưu vực sông Đồng Nai và giáp với biển
Đông, nơi có địa hình thấp và khá bằng phẳng với gần 75% diện tích có cao độ dưới +2 m, chịu
tác động trực tiếp dòng chảy lũ từ thượng lưu thông qua các sông Đồng Nai, Sài Gòn cũng như
những tác động trực tiếp từ triều biển Đông nên thường xuyên xảy ra tình trạng ngập úng.
TP. HCM hiện có 7 hệ thống kênh rạch tiêu thoát nước dài 926km với 412 cửa xả. Tuy
nhiên, tình trạng ngập nước ở các quận 5, 6, 8, 11, Bình Thạnh, Tân Bình, Thủ Đức… đang ngày
càng trầm trọng do đang có hơn 5.000 hộ dân làm nhà lấn chiếm bờ kênh, thu hẹp dòng chảy, xả
rác và nước thải trực tiếp xuống dòng kênh. Hiện tại có 182 vị trí sông, kênh, rạch bị lấn chiếm;
tập trung nhiều nhất là ở các quận, huyện: 7 (49 vị trí), 8 (39 vị trí), Thủ Đức, Bình Chánh (24 vị
trí), Bình Thạnh (17 vị trí), Nhà Bè (15 vị trí).
Tính đến tháng 11/2006, toàn thành phố còn 105 điểm ngập (47 điểm ngập do mưa, 51
điểm ngập do mưa kết hợp với triều, một số điểm ngập do không có cống). Các trường hợp ngập
điển hình như ở khu vực Bùng binh Cây Gõ - Tân Hoà Đông - Bà Hom (quận 6); khu vực Bình
Thạnh (đường Nguyễn Hữu Cảnh); quận 2 (phường Thảo Điền); Ngã tư Bốn Xã (quận Bình
Tân); kênh Ba Bò (quận Thủ Đức), đường Đỗ Xuân Hợp (quận 9),…
25