Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu Luận Tái khẳng định và nâng cấp liên minh an ninh Mỹ - Nhật và tác động của nó đến an ninh khu vực Châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.07 KB, 18 trang )

Lời mở đầu
Chiến tranh lạnh kết thúc dẫn đến một loạt các biến đổi trên thế giới nói
chung và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng. Đây là cơ sở khách quan
buộc các quốc gia, đặc biệt là các nước lớn phải điều chỉnh chiến lược của. Một
trong những điều chỉnh đáng chú ý nhất là việc Mỹ và Nhật Bản khẳng định lại và
thắt chặt thêm quan hệ hợp tác an ninh song phương bởi lẽ nó tác động trực tiếp
đến an ninh chung và quan hệ giữa các nước trong khu vực.
Để góp phần tìm hiểu thêm về vấn đề này, bài khóa luận này xin được đề cập
đến vấn đề Tái khẳng định và nâng cấp liên minh an ninh Mỹ - Nhật và tác động
của nó đến an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong khuôn khổ bài
viết có giới hạn, khóa luận này chỉ xin tập trung vào khía cạnh tính toán lợi ích của
Mỹ khi tiếp tục duy trì liên minh này, tác động của nó đến an ninh chung của khu
vực cũng như các cặp quan hệ chủ yếu, trong giai đoạn đầu khi liên minh Mỹ-Nhật
vừa được tái khẳng định và nâng cấp trong nhiệm kỳ của tổng thống Bill Clinton.
Phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
vận dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết
hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp,
chứng minh trên cơ sở thực tiễn, tham khảo các sách, tài liệu, công trình nghiên cứu
của các học giả, các vài viết, tạp chí, báo mạng v.v
Bố cục của bài gồm 3 phần chính:
- Phần 1: Những thay đổi trên thế giới và môi trường chiến lược ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh.
- Phần 2: Vấn đề tái khẳng định và nâng cấp liên minh an ninh Mỹ - Nhật
- Phần 3: Tác động của liên minh Mỹ - Nhật đến khu vực Châu Á – TBD.
-
I. Những thay đổi trên thế giới và môi trường chiến lược ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh:
Chiến tranh lạnh chấm dứt với sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực đồng
thời sự tan rã của Liên Xô khiến Mỹ đương nhiên trở thành siêu cường duy nhất có
tham vọng lãnh đạo thế giới. Đối đầu Đông – Tây chấm dứt và ý thức hệ không còn
là nhân tố chi phối quan hệ quốc tế thì các nước vừa và nhỏ ngày càng có vai trò và


tiếng nói đáng kể. Kinh tế nổi lên thành một yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp
của mỗi quốc gia. Xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển đang ngày càng
chiếm ưu thế trên thế giới. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong chiến tranh
lạnh là nơi hội tụ của những mâu thuẫn lớn trên thế giới và đối đầu Đông – Tây mà
điển hình là cuộc chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam thì nay nổi lên là
khu vực của xu thế hòa bình và hợp tác. Bên cạnh đó, đây cũng là khu vực phát
triển năng động của các nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Tuy
nhiên môi trường chiến lược không rõ ràng và còn nhiều vấn đề phức tạp như: sự
trỗi dậy của Trung Quốc, tiềm lực quân sự của Nga, căng thẳng trên bán đảo Triều
Tiên, tranh chấp về biên giới lãnh thổ chưa được giải quyết, tiềm tàng về chạy đua
quân sự và xung đột vũ trang Để thích ứng với tình hình mới, chính quyền Clinton
đã từng bước điều chỉnh chiến lược, công bố chiến lược an ninh quốc gia mới của
mình thời kỳ hậu chiến tranh lạnh vào tháng 2/1995 mang tên “Cam kết và Mở
rộng”, triển khai mạnh mẽ ở Đông Á, nơi mà chính quyền Clinton coi là khu vực
chiến lược sống còn của Mỹ trong thế kỷ 21 và đặc biệt coi trọng liên minh với
Nhật Bản.
II. Vấn đề tái khẳng định và nâng cấp liên minh an ninh Mỹ - Nhật:
1. Nguyên nhân Mỹ tiếp tục liên minh an ninh với Nhật:
Trong chiến tranh lạnh, nhận thấy vai trò địa - chính trị của Nhật Bản, Mỹ
gấp rút triệu tập hội nghị San Francisco để ký một hòa ước và hiệp ước liên minh
an ninh với Nhật ngày 1/8/1951. Từ đó, Mỹdần biến Nhật Bản thành một đồng
minh quan trọng, chịu sự bảo trợ của Mỹ về an ninh, trờ thành yếu tố răn đe chiến
lược đối với các đối thủ cộng sản của Mỹ ở Đông Á. Khi mối đe dọa Liên Xô
không còn, một câu hỏi lớn đặt ra là có nên tiếp tục duy trì liên minh an ninh Mỹ -
Nhật? Có lập luận rằng: “nếu như mối đe dọa của một liên minh biến mất thì liên
minh xuất hiện để chống lại mối đe dọa đó cũng phải biến mất”
i
hay cho rằng Nhật
ngày nay đã là một trung tâm kinh tế cạnh tranh gay gắt với Mỹ, Mỹ không có lý do
gì để tiếp tục duy trì quan hệ an ninh bảo vệ cho đối thủ của mình

ii
. Tuy nhiên
chính sách của chính quyền Bill Clinton thể hiện rõ quyết tâm duy trì, củng cố quan
hệ đồng minh với Nhật Bản. Cụ thể. bản chiến lược an ninh của Mỹ đối với Đông
Á – Thái Bình Dương nhấn mạnh: “không có một mối quan hệ song phương nào
quan trọng hơn mối quan hệ mà chúng ta có với Nhật Bản. Đây là nền tảng cho cả
chính sách an ninh Thái Bình Dương và các mục tiêu chiến lược toàn cầu của
chúng ta Liên minh an ninh của chúng ta với Nhật Bản là trụ cột của chính sách an
ninh của Mỹ ở Châu Á
iii
. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Warren Christopher, trong phát
biểu ngày 28/7/1995 khẳng định rằng: “Chính sách của Mỹ ở Châu Á bắt đầu bằng
Nhật Bản. Quan hệ Mỹ - Nhật là hòn đá tảng cho sự dính líu của Mỹ ở Châu Á –
Thái Bình Dương”. Vậy những nguyên nhân nào thúc đẩy Mỹ có chính sách như
vậy?
Thứ nhất, tương quan lực lượng Mỹ - Nhật Bản thay đổi: nếu như sau thế
chiến thứ hai Nhật là nước bại trận, suy yếu mọi mặt trong khi Mỹ là nước mạnh
nhất về mọi phương diện thì giờ Nhật Bản với sự phục hồi sau chiến tranh và tăng
trưởng kinhtế “thần kỳ” đã là trung tâm kinh tế thứ hai thế giới, một cường quốc có
chi phí quân sự đứng thứ ba (do hiến pháp quy định Nhật chỉ chi tiêu cho quốc
phòng 1% GNP nhưng do sức mạnh kinh tế nên tỷ lệ % đó lên đến hơn 40 tỷ
USD/năm (1996), chỉ xếp sau Mỹ (270 tỷ USD) và Nga (98 tỷ USD) và là một
nước có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế. Trong khi Mỹ vẫn giữ vị trí siêu cường
trong nhiều lĩnh vực song sức mạnh đã suy giảm nhiều so với trước. Về kinh tế,
trong khi cán cân thanh toán của Mỹ luôn ở tình trạng thâm hụt thì Nhật Bản lại
thặng dư và là chủ nợ lớn nhất của Mỹ
iv
. Vị trí, vai trò khu vực và quốc tế của Nhật
Bản đang ngày càng được tăng cường trong khi vai trò của Mỹ đang ngày một
giảm. Thái độ chống dối Mỹ có ở nhiều nơi. Mỹ không còn đủ sức chi phối các

đồng minh theo mong muốn của mình. Ở Đông Á, xu hướng bài Mỹ ngày càng nổi
rõ như việc Malaysia kêu gọi thành lập “khối kinh tế Đông Á” (EAEG), lập “Quỹ
tiền tệ Châu Á” để loại Mỹ ra khỏi khu vực. Chính sách quay lại Châu Á của Nhật
Bản ( giảm bớt sự lệ thuộc vào Mỹ về kinh tế, tăng tính độc lập trong quan hệ với
các nước Châu Á, biến khu vực này thành sân sau của nền kinh tế Nhật Bản, coi
quan hệ với Châu Á là một trụ cột trong chính sách ngoại giao để dần tách khỏi
Mỹ, trở thành cường quốc ngang hàng với Mỹ) đã đe dọa nghiêm trọng tới lợi ích
an ninh kinh tế của Mỹ bởi “chúng ta không thể giàu có nếu chúng ta không có thị
trường”
v
, mà Đông Á, đặc biệt Đông Nam Á là một thị trường rất lớn của Mỹ. Mất
nó, Mỹ không chỉ mất đi lợi nhuận kinh tế, thương mại mà có thể mất đi cá vị trí,
vai trò ở cả trong và ngoài khu vực. Trong nội bộ nước Mỹ có xu hướng cho rằng
chính sức mạnh kinh tế của Nhật Bản đang đe dọa nền an ninh nước Mỹ. Do đó,
tháng 5/1995, sau khi đàm phán về ô tô giữa Mỹ và Nhật thất bại, lo sợ trước những
bất đồng về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến quan hệ toàn cục Mỹ - Nhật, tổng thống
Clinton yêu cầu hai nước tiến hành quá trình khẳng định quan hệ an ninh Mỹ-Nhật,
hy vọng xung đột kinh tế không dẫn đến xung đột về an ninh. Ngoài ra, nếu duy trì
quan hệ an ninh với Nhật, Mỹ sẽ giành được lợi thế trong quan hệ kinh tế: gây sức
ép đối với Nhật về vấn đề mở cửa thị trường, tranh thủ vốn và công nghệ từ
Nhật Bên cạnh đó, Mỹ lo ngại trước khả năng Nhật sử dụng cơ chế đa phương để
đảm bảo an ninh cho Nhật trước sự suy giảm sức mạnh tương đối của Mỹ do xu
hướng ly tâm chính trị từ phía nước Nhật nên phải tiếp tục củng cố cơ chế song
phương giữa hai bên.
Thứ hai, Nhật Bản đóng góp tích cực hơn vào liên minh với Mỹ sẽ giúp Mỹ
giảm bớt gánh nặng chi phí quốc phòng và các chi phí cho sự có mặt quân sự của
Mỹ ở khu vực Đông Á. Phương châm phòng thủ mới của Nhật cũng nằm trong
chiến lược “cam kết và mở rộng” của Mỹ. Nhật Bản nằm ở trung tâm chiến lược
của Đông Bắc Á nên Mỹ muốn duy trì các căn cứ quân sự ở đây. Hơn nữa, liên
minh Mỹ - Nhật được nâng cấp sẽ giúp Mỹ ngăn không cho Nhật Bản tham gia vào

phe đối địch với Mỹ kể cả khi quan hệ Mỹ - Nhật xấu đi.
Thứ ba, Mỹ cần có Nhật làm đồng minh để chia sẻ trách nhiệm giải quyết các
thách thức tại khu vực Đông Á nói riêng và Châu Á nói chung. Đông Á là khu vực
bất ổn đầy những yếu tố bất ngờ: căng thẳng kéo dài trên bán đảo Triều Tiên, eo
biển Đài Loan, đảo Điều Ngư, ASEAN và vấn đề thiết lập một cơ chế an ninh khu
vực mà nhất là nhân tố Trung Quốc. Tuy quan hệ với một Trung Quốc ngày càng
hùng mạnh thu về cho Mỹ rất nhiều lợi nhuận về tiền bạc lẫn địa vị chính trị nhưng
Mỹ không khi nào lơ là nguy cơ về một đối thủ đáng gờm như tồng thống
B.Clinton từng cảnh báo “chuẩn bị đối phó với một cơn bão xa có thể đổ vào vào
bờ biển của chúng ta khôn ngoan hơn nhiều so với việc phớt lờ tiếng sấm cho đến
khi những đám mây đen phủ kín trên đầu”
vi
. Đồng thời, Nhật Bản có thể là vùng
đệm tương đối an toàn khi Mỹ phải dính líu vào hai cuộc khủng hoảng lớn có thể
xảy ra ở bán đảo Triều Tiên và Đài Loan. Để ngăn chặn các nguy cơ này Mỹ cần
tiếp tục duy trì liên minh Mỹ - Nhật vừa để duy trì thế cân bằng Mỹ - Nhật - Trung
Quốc, đáp ứng nhu cầu của các nước trong khu vực về sự có mặt của Mỹ, vừa bảo
vệ được lợi ích của mình và đồng minh cũng như duy trì hòa bình, an ninh khu vực.
Thứ tư, ngoài ra còn phải kể đến nhiều vấn đề khác như kho vũ khí hạt nhân
của Nga vẫn chưa được xử lý. Nga vẫn là đối thủ quân sự hùng mạnh có khả năng
đe dọa Mỹ. Nghiêm trọng hơn là tình trạng mất cắp, buôn bán vũ khí từ Nga ra hai
thị trường chính là Trung Đông và Đông Á. Bên cạnh đó, các vấn đề buôn bán ma
túy, tội phạm có tổ chức, chạy đua quân sự, phổ biến vũ khí hạt nhân, ô nhiễm môi
trường Mỹ không thể giải quyết mà không có sự phối hợp chặt chẽ với các nước
khác nhất, nhất là Nhật Bản.
Nói tóm lại, Liên Xô sụp đổ, Mỹ phải đối phó với nhiều thách thức khác
đang nổi lên, nhất là ở Châu Á – Thái Bình Dương, nơi đang tập trung rất nhiều
nguy cơ tiềm tàng đe dọa an ninh quốc gia, ảnh hưởng tới vai trò, vị trí lãnh đạo
toàn cầu của Mỹ. Để ngăn chặn những nguy cơ trên, Mỹ thấy cần phải duy trì sự có
mặt ở khu vực này, đồng thời củng cố các liên minh an ninh với các đồng minh mà

quan trọng nhất là liên minh an ninh Mỹ - Nhật, coi đây là biện pháp tích cực nhất
vừa bảo vệ được tối đa lợi ích của mình vừa bảo vệ lợi ích của các đồng minh và cả
khu vực.
2. Quá trình nâng cấp:
a. Tuyên bố chung Mỹ - Nhật: “Liên minh an ninh cho thế kỷ 21”
Củng cố lại quan hệ an ninh Mỹ - Nhật ngày 16/4/1996 nhân chuyến thăm
Nhật Bản, tổng thống B.Clinton và thủ tướng R.Hashimoto ra tuyên bố chung “liên
minh cho thế kỷ 21”. Nội dung của tuyên bố gồm 5 điểm chính: 1) Khái quát tình
hình khu vực và thế giới; 2) Quan hệ đồng minh Mỹ-Nhật – sự hợp tác lẫn nhau và
Hiệp ước an ninh; 3) Sự hợp tác tay đôi trên cơ sở giữa Mỹ và Nhật; 4) Hợp tác
trong khu vực; 5) Hợp tác trên quy mô toàn cầu. Tuyên bố chung tái khẳng định
quan hệ an ninh Mỹ - Nhật là trụ cột trong chính sách an ninh của mỗi bên ở khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của liên minh
quân sự này với an ninh, hòa bình, thịnh vượng cho khu vực. Mục đích thực chất
của Tuyên bố chung là đảm bảo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật chuyển từ “nhằm vào
Liên Xô” sang “khống chế khu vực, kiểm soát cả khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương, khống chế Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên, ngăn chặn Nga và bảo vệ lợi
ích chung của Nhật Bản và Mỹ ở khu vực này”. Tuyên bố chung khẳng định lại sự
dính líu của Mỹ ở khu vực Châu Á – TBD được hỗ trợ bởi quan hệ an ninh Mỹ-
Nhật và thể hiện quyết tâm của hai nước tiếp tục duy trì và củng cố quan hệ an ninh
truyền thống. Đối với Mỹ, tuyên bố này là một văn kiện pháp lý đảm bảo sự hiện
diện hợp pháp nhằm duy trì hòa bình, ổn định, thịnh vượng của khu vực, thúc đẩy
các lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh của Mỹ tại đây. Tuyên bố cũng đánh dấu sự
chuyển đổi mục tiêu trong quan hệ an ninh Mỹ-Nhật: từ phòng thủ Nhật Bản để
đảm bảo an ninh trong khu vực (Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật 1951) sang tăng cường
an ninh khu vực để đảm bảo an ninh quốc gia của mỗi bên. Thực chất, đối tượng
của quan hệ an ninh Mỹ-Nhật đã chuyển từ ngăn chặn Liên Xô sang can dự nhằm
kiểm soát Trung Quốc.
b. Phương châm hợp tác phòng thủ Mỹ - Nhật 24/9/1997
Sau khi ra tuyên bố chung “Liên minh cho thế kỷ 21” chính phủ Mỹ và Nhật

Bản tiến hành thảo luận để sửa đổi phương châm chỉ đạo hợp tác và phòng thủ song
phương. Ngày 24/9/1997, Phương châm hợp tác và phòng thủ Mỹ - Nhật mới được
chính thức công bố, khẳng định lại vai trò của liên minh an ninh Mỹ-Nhật, cho
phép lực lượng quân đội Mỹ tiếp tục có mặt trên lãnh thổ của Nhật, việc hợp tác
phỏng thủ được tiến hành trong 3 trường hợp: 1) hợp tác trong điều kiện bình
thường; 2) các hoạt động đối phó với một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào Nhật
Bản; 3) trường hợp khẩn cấp tại các khu vực xung quanh Nhật Bản. Lực lượng
quân đội của Mỹ và Nhật Bản mở rộng phạm vi chức năng hoạt động, từ bảo vệ
Nhật sang bảo vệ an ninh khu vực với không gian rộng hơn. Tính chất của liên
minh cũng thay đổi từ quan hệ nước bảo vệ và nước được bảo vệ sang quan hệ đối
tác bình đẳng hơn. Cả hai nước cùng phối hợp từ vạch kế hoạch đến hành động.
Nhiệm vụ của Mỹ cũng thay đổi từ bảo vệ Nhật Bản sang hỗ trợ Nhật theo yêu cầu.
Vai trò của Nhật thay đổi từ người được bảo vệ sang là người hỗ trợ hậu cần cho
Mỹ. Nói chung, phương châm hợp tác phòng thủ Mỹ-Nhật sửa đổi này cho phép
Nhật Bản đóng một vai trò an ninh lớn hơn trong khu vực, phạm vi hoạt động của
quân đội Nhật Bản được mở rộng đáng kể, lần đầu tiên Nhật cam kết hỗ trợ hậu cần
cho quân Mỹ ở ngoài lãnh thổ. Điều này phản ánh quan hệ quân sự Nhật – Mỹ đã
có sự biến đổi về chất, hướng ra bên ngoài, kiểm soát và dính líu vào xung đột khu
vực xung quanh, nhằm vảo vệ lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực Châu á – Thái
Bình Dương.
III. Tác động của liên minh Mỹ - Nhật đến khu vực Châu Á - TBD:
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật đã tạo nên mối
quan hệ tay đôi rất thành công, có ý nghĩa lớn đối với an ninh hai nước và cả khu
vực. Giờ đây, mối quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là một trong những mối quan hệ cơ bản
ở khu vực, có tác động đến các mối quan hệ quan trọng khác kể cả song phương
và đa phương. Chính vì vậy, việc duy trì hiệp ước an ninh giữa hai nước cũng có
tác động mạnh mẽ đến khu vực, từ môi trường an ninh chung đến quan hệ giữa
các nước lớn, đặc biệt là mối quan hệ tam giác Mỹ - Nhật - Trung.
1. Tác động đến môi trường an ninh khu vực:
Từ khi ra đời, Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật đã trở thành nhân tố có vai trò nhất

định trong bức tranh toàn cảnh an ninh khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, nhắc
nhở các quốc gia trong khu vực về một liên minh an ninh giữa Mỹ - Nhật và sự có
mặt của Mỹ ở khu vực này. Sau chiến tranh lạnh, Hiệp ước được khẳng định lại
vẫn tiếp tục duy trì ảnh hưởng không nhỏ của nó đối với an ninh, ổn định khu
vực, tác động theo cả hai hướng: tiêu cực và tích cực
a. Tích cực
Môi trường an ninh Châu Á sau chiến tranh lạnh, nếu so với các châu lục khác
có thể nói là tạm yên bình. Nhưng ẩn dưới cái vẻ ngoài như rất yên tĩnh ấy tiềm
ẩn những vấn đề bức bối, những nhân tố dễ đe dọa sự hòa bình, ổn định của khu
vực. Chiến tranh lạnh kết thúc, tình trạng đối đầu giữa hai phe không còn, nguy
cơ về một cuộc chiến tranh lớn nữa bị triệt tiêu nhưng vẫn tồn tại những cuộc
chạy đua ngấm ngầm giữa các nước, mục tiêu là tăng cường sức mạnh, khuyếch
trương ảnh hưởng, dành vị trí xứng đáng cho mình, hoặc đơn giản để đảm bảo an
ninh của mình do thấy trước sự bất ổn của khu vực và sự tăng cường sức mạnh
của các nước khác. Có thể khái quát đặc điểm nổi bật của an ninh khu vực là:
ngân sách quốc phòng các nước ngày càng tăng, một số nước tồn tại khả năng vũ
khí hạt nhân lớn, quân đội được hiện đại hóa mạnh mẽ, nhiều vấn đề còn tồn tại,
trước mắt chưa có triển vọng giải quyết và có khả năng bùng nổ như vấn đề bán
đảo Triều Tiên, Đài Loan, quần đảo Trường Sa Trong môi trường an ninh như
vậy, Châu Á lại chưa xây dựng được một cấu trúc an ninh giữa các nước không có
những mối quan tâm về an ninh chung ngoại trừ Diễn đàn an ninh khu vực
ASEAN (ARF) ra đời năm 1994 với mục tiêu chủ yếu và trước hết là “cải thiện
bầu không khí mà trong đó các nước sẽ bàn bạc và tiến tới giải quyết tranh chấp”
vii
. Tuy đã có những thành công nhất định nhất là trong việc lôi kéo Trung Quốc
tham gia diễn đàn nhưng diễn đàn còn nhiểu hạn chế, chưa thể bàn bạc đưa đến
những thỏa thuận đối với những vấn đề an ninh gay cấn. Mỹ từ lâu đã chiếm vị trí
đặc biệt trong khu vực. Mối quan hệ của Mỹ với một số đồng minh mà quan trọng
nhất là Nhật Bản chi phối toàn bộ khu vực. Vì thế, một số nước cho rằng sự có
mặt quân sự của Mỹ là một yếu tố góp phần vào việc giữ cân bằng trong khu vực,

ít nhất là giữ nguyên trạng tình hình hòa bình hiện tại. Các nước lo ngại về “một
khoảng trống quyền lực” nếu liên minh Mỹ - Nhật không còn, Mỹ rút khỏi khu
vực, dễ dẫn đến việc các nước lớn tính đến việc thay thế vai trò của Mỹ ở khu
vực, tất yếu sẽ nổ ra cuộc cạnh tranh quân sự làm khu vực thêm căng thẳng. Hiện
tại những nước có nhiều khả năng nổi lên thành cường quốc thống trị khu vực là
Trung Quốc và Nhật Bản. Nhật Bản là cường quốc về kinh tế nhưng lại bị hạn chế
về quân sự, “không có một động cơ thật sự nào thúc đẩy Nhật Bản lấp khoảng
trống quyền lực ngoài những biện pháp phòng thủ”
viii
. Như vậy, chỉ còn Trung
Quốc là đóng vai trò cốt yếu với an ninh khu vực và lấp khoảng trống quyền lực,
nếu có. Việc duy trì và nâng cấp Hiệp ước an ninh với Nhật Bản đã chứng tỏ thái
độ cam kết rõ ràng của Mỹ ở khu vực, làm dịu đi lo lắng của các nước trong khu
vực về một khoảng trống quyền lực có thể gây xáo trộn bất lợi cho an ninh khu
vực và mối đe dọa thực sự từ Trung Quốc mà nhiều nhà theo dõi tình hình Trung
Quốc kết luận: “bá quyền khu vực đích thực là điều mà Trung Quốc mong muốn”
ix
. Mặt khác, duy trì hiệp ước này còn có thể lôi kéo Trung Quốc tham gia vào các
chương trình an ninh tập thể, có trách nhiệm hơn với an ninh khu vực. Còn với
mối lo ngại về 1 nước Nhật tái vũ trang, các nước có thể yên tâm phần nào nhờ
liên minh này vì nếu Mỹ và Nhật có thiện chí thực sự cam kết với hòa bình, ổn
định ở khu vực thì vai trò của Nhật Bản với an ninh khu vực có thể lớn hơn mà
vẫn được chấp nhận.
Một tác động tích cực khác của hiệp ước: ngăn ngừa phổ biến các loại vũ khí
phá hủy hàng loạt, mầm mống của cuộc chạy đua vũ trang trong tương lại ở khu
vực. Với sự hỗ trợ của Nhật, Mỹ đã tiến hành thương lượng tốt đẹp với
CHDCND Triều Tiên về việc ngừng chương trình phát triển hạt nhân của nước
này. Nhật Bản và Mỹ đã giành được cam kết của CHDCND Triều Tiên và hợp tác
với Hàn Quốc để thành lập cơ quan phát triển năng lượng hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên (KEDO)  có ý nghĩa lớn với an ninh khu vực vì việc Triều Tiên rút

khỏi hiệp ước không phổ biến hạt nhân có thể làm lung lay tận gốc rễ Hiệp ước
không phổ biến hạt nhân và thúc đẩy các nước khác phát triển vũ khí hạt nhân.
Việc này cũng làm dịu đi nhiều vấn đề lãnh thổ và tranh chấp có khả năng
phát triển thành sự đối đầu quân sự đe dọa hòa bình khu vực như vấn đề Nam –
Bắc Triều Tiên, biển Đông, Trung Quốc – Đài Loan, tranh chấp lãnh thổ giữa
Nhật Bản với Nga và với Trung Quốc Cam kết Mỹ - Nhật và sự có mặt của Mỹ
tạo nên yếu tố kiềm chế các bên liên quan để các vấn đề trên chưa bùng nổ quyết
liệt, gay gắt.
Nó cũng tác động tích cực đến hợp tác an ninh đa phương trong khu vực. Liên
minh Mỹ - Nhật được tăng cường góp phần lôi kéo Trung Quốc tham gia các cuộc
thảo luận về các vấn đề an ninh khu vực. Diễn đàn ARF được tiếp sức, hứa hẹn
trở thành một trong những hạt nhân an ninh khu vực trong tương lai.
b. Tiêu cực:
Trong bối cảnh các nước đều muốn có môi trường hòa bình và ổn định để
phát triển thì duy trì một liên minh quân sự mang tính chất chi phối khu vực như
vậy dễ gây tâm lý bất an. Mỹ Nhật hợp tác chi phối các vấn đề ở khu vực, các
nước nhỏ bị phụ thuộc, ít có vai trò trong giải quyết các vấn đề khu vực và liên
quan đến lợi ích của mình  bất bình đẳng lớn giữa các nước. Mỹ muốn duy trì
một trật tự cũ theo ý mình, ép các nước khác phải theo luật chơi của Mỹ. Khu vực
Châu Á – TBD đang ngày càng trở nên quan trọng, có nhận định “thế ký 21 là thế
kỷ của Châu Á - TBD” - nơi đan xen lợi ích của nhiều nước cả trong và ngoài khu
vực. Nếu 1 nước có mong muốn và đủ sức mạnh để khống chế khu vực và bảo vệ
lợi ích riêng của mình sẽ làm phương hại lợi ích các quốc gia khác. Ngoài ra, các
nước lo ngại về một Nhật Bản tăng cường quân sự, mở rộng vai trò an ninh khi
quá khứ còn chưa phai mờ tạo không khí hoang mang, cảnh giác của các nước và
có thể dẫn đến việc các nước tăng cường quân sự để đối phó.
Đặc biệt, liên minh Mỹ - Nhật có tiềm năng gây căng thẳng, bất ổn định và
tăng nghi kỵ trong quan hệ giữa các nước, nhất là các nước lớn trong khu vực.
2. Tác động đến quan hệ giữa các nước lớn ở khu vực:
Trong quan hệ Mỹ - Nhật, mức độ độc lập của Nhật Bản tăng lên rõ rệt trên

con đường trở thành đồng minh, đối tác gần như ngang hàng với Mỹ. Sự sụp đổ
của Liên Xô – mục tiêu chiến lược chung và sức mạnh kinh tế ngày nay của Nhật
Bản đã làm thay đổi tính chất phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, liên minh Mỹ - Nhật được khẳng định lại gây căng thẳng trong
tam giác chiến lược Mỹ - Trung – Nhật. Những nghi ngại sẵn có của Trung Quốc
về sức mạnh quân sự của Nhật Bản, những cảnh giác trong chính sách của Mỹ,
những nỗ lực của Mỹ và Nhật Bản nhằm tăng cường hiệp ước an ninh để đối phó
với môi trường an ninh chiến lược đang thay đổi trong thời kỳ sau chiến tranh
lạnh khiến Trung Quốc phải đánh giá lại hiệp ước. Mặc dù liên minh này không
công khai nói rõ mục đích nhưng Trung Quốc hiểu rằng sự vận động này nhằm
vào mình.  quan hệ Mỹ - Trung lại có thêm yếu tố gây bất ổn định bên cạnh các
vấn đề dân chủ, nhân quyền, phổ biến vũ khí, thâm hụt cán cân thương mại của
Mỹ. Quan hệ Mỹ - Trung vốn dĩ lên xuống thất thường, lúc tốt lúc xấu. Mặc dù
đang thực hiện chính sách “dính líu toàn diện” với Trung Quốc nhưng Mỹ luôn
cảnh giác với Trung Quốc. Còn Trung Quốc nhận thức mình chính là “mục tiêu
chiến lược cho hiệp ước an ninh Mỹ Nhật thời kỳ sau chiến tranh lạnh” và “việc
Mỹ củng cố quan hệ đồng minh với Nhật Bản là một bức thông điệp rõ ràng về sự
tiếp tục hiện diện của Mỹ ở khu vực này và là một sự thách thức đối với vai trò
lãnh đạo của Trung Quốc ở khu vực.” Trung Quốc cho rằng đây là một chính sách
nằm trong chiến lược tổng thể có tính toán từ trước nhằm làm suy yếu nếu ko nói
là chia cắt Trung Quốc, ngăn Trung Quốc giành lại vị trí lãnh đạo khu vực và toàn
cầu mà Trung Quốc từng có. Trung Quốc nghi ngờ Mỹ lôi kéo Nhật Bản vào một
liên minh chống Trung Quốc và ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Vì thế, sự
kiện tăng cường liên minh Mỹ - Nhật làm căng thẳng thêm mối quan hệ Mỹ -
Trung.
Mối quan hệ bị ảnh hưởng nhiều hơn cả là quan hệ Trung– Nhật vốn đã có
những mâu thuẫn chưa thể giải quyết, lại thêm việc cạnh tranh gay gắt giành ngôi
bá quyền trong khu vực. Nhật Bản và Trung Quốc đều lo lắng về sự lớn mạnh của
nhau vì “một núi không thể chứa hai hổ” không thể đồng thời tồn tại hai cường
quốc Châu Á. Trước đây Trung Quốc xem sự hiện diện của Mỹ ở khu vực như

một nhân tố kiềm chế sự trỗi dậy của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản nhưng với
việc tăng cường liên minh Mỹ - Nhật này, Trung Quốc cho rằng vai trò an ninh
của Nhật được nâng cao. Vì thế quan hệ Trung – Nhật lại càng trở nên căng
thẳng, thể hiện chủ yếu trong thái độ của Trung Quốc. Tuy nhiên vì lợi ích kinh
tế, quan hệ hai nước có vẻ dịu đi, nhưng thực ra mối nghi kỵ lẫn nhau không hề
mất đi mà còn rất đậm nét, một mối quan hệ “chính trị lạnh nhạt – kinh tế sôi
động”
x
Tuy nhiên, cam kết an ninh Mỹ - Nhật lại dẫn đến sự xích lại gần nhau của
Trung Quốc và Nga qua việc giải quyết hầu hết bất đồng về biên giới và một loạt
những hiệp định hợp tác được ký kết giữa tổng thống Boris Yeltsin và Chủ tịch
Giang Trạch Dân ngày 24/4/1996.
Như vậy có thể nói Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật tác động nhất định đến từng
cặp quan hệ lớn trong khu vực: Mỹ -Nhật, Trung–Mỹ, Trung – Nhật, Trung –
Nga.
3. Phản ứng của các nước trong khu vực:
Khi Mỹ và Nhật Bản ra tuyên bố chung khẳng định lại Hiệp ước an ninh đánh
dấu bước phát triển mới trong quan hệ hai nước, các nước trong khu vực đã đón
nhận sự kiện này với những thái độ khác nhau. Sự mở rộng phạm vi Hiệp ước này
khiến nhiều nước có truyền thống ủng hộ lo lắng. Họ không muốn quan hệ an
ninh hai nước bị đổ vỡ dẫn đến việc Mỹ rút quân khỏi khu vực nhưng lại lo sợ
việc Nhật Bản có vai trò an ninh lớn hơn trong khu vực. Trong đó, Trung Quốc là
nước duy nhất lớn tiếng chỉ trích vì: Thứ nhất, Trung Quốc lo ngại sự can thiệp
vào Đài Loan, vi phạm chủ quyền của mình. Thứ hai, Trung Quốc cho rằng mục
đích của Mỹ và Nhật là kiềm chế và ngăn chặn Trung Quốc vươn lên vị trí cường
quốc khu vực và toàn cầu. Thứ ba, lo sợ bất lợi trong cuộc đua với Nhật Bản. Vì
thế, Trung Quốc phản đối gay gắt việc tăng cường liên minh Mỹ - Nhật, cho rằng
chủ yếu nhằm vào mình bằng cách tiến hành các hoạt động ngoại giao. Trung
Quốc cho rằng chiến tranh lạnh đã kết thúc, Hỉệp ước an ninh Mỹ - Nhật nên
được hủy bỏ và thay thế bằng các cặp quan hệ song phương và cơ chế an ninh đa

phương. Tuy nhiên, trong tình hình các nước đều muốn hòa bình, ổn định để phát
triển thì nếu di quá xa Trung Quốc sẽ bị cô lập. Vả lại lợi ích kinh tế của Trung
Quốc gắn bó chặt với Mỹ và Nhật và có nhu cầu cải thiện quan hệ với hai cường
quốc kinh tế nhất, nhì thề giới này. Vì thế thái độ của Trung Quốc là “chờ xem”,
chưa kết luận chắc chắn hiệp định Mỹ - Nhật nhằm chống Trung Quốc và “hy
vọng dàn xếp phòng thủ song phương giữa Mỹ và Nhật Bản sẽ không vượt quá
tính chất song phương của nó và không động chạm đến nước thứ ba”
xi
. Sau Trung
Quốc, CHDCND Triều Tiên cũng lên tiếng phản đối vì cho rằng bán đảo Triều
Tiên nằm trong phạm vi của Hiệp ước và phương châm chỉ đạo hợp tác phòng thủ
Mỹ - Nhật mới. Một bài báo của Triều Tiên viết “hai nước Mỹ, Nhật Bản đã biến
liên minh Mỹ-Nhật thành công cụ để đối phó với khu vực và các nước khác”
xii
.
Các nước khác hoặc tỏ thái độ hoan nghênh như Nga, Hàn Quốc, Australia,
Philipines hoặc trung lập như Indonexia. Tuy nhiên các nước cũng bày tỏ lo ngại
về vai trò của Nhật Bản. Đại sứ 9 nước ASEAN yêu cầu Nhật Bản làm rõ phạm vi
địa lý đảm nhiệm theo phương châm hợp tác mới. Một quan chức Bộ Ngoại giao
Thái Lan nói Thái Lan không muốn thấy vai trò hiện tại của Nhật Bản có bất kỳ
thay đổi nào. Báo chí Singapore nêu rõ hợp tác phòng vệ Mỹ-Nhật là sản phẩm
của chiến tranh lạnh, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hợp tác phòng vệ Mỹ-Nhật
càng được mở rộng để Nhật Bản đóng vai trò quan trọng hơn tất sẽ gây ra phản
ứng của dư luận quốc tế. Thông tấn xã Hàn Quốc bình luận các nước Châu Á còn
nhớ rõ những khổ đau mà Nhật Bản gây ra trong chiến tranh thế giới II, vì vậy lo
ngại khi Nhật mở rộng vai trò các lực lượng vũ trang. Báo chí Nga cảnh báo liên
minh quân sự Mỹ-Nhật trờ thành NATO của Thái Bình Dương.
Như vậy, một số nước ở khu vực đánh giá sự tăng cường liên minh Mỹ-Nhật
một cách khả quan nhưng các nước đều không tránh khỏi nghi ngờ vai trò lớn hơn
của Nhật Bản do hiệp ước mang lại.

KẾT LUẬN
Với Tuyên bố chung: “Liên minh an ninh cho thế kỷ 21” và Phương châm chỉ
đạo hợp tác phòng thủ chiến lược được sửa đổi, liên minh an ninh Mỹ - Nhật tiếp
tục được củng cố, trở thành liên minh lâu bền nhất khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương. Quan hệ an ninh Mỹ - Nhật sau chiến tranh lạnh vẫn chịu tác động của ba
nhân tố: những thay đổi trong môi trường chiến lược ở khu vực, sự điều chỉnh
chiến lược của Mỹ và của Nhật Bản, nhằm phục vụ cho lợi ích của cả hai nước
trong thời kỳ mới. Về phía Mỹ, sau chiến tranh lạnh, Mỹ đã vạch ra chiến lược
toàn cầu mới nhằm bảo vệ lợi ích và ngôi vị bá chủ toàn cầu của mình, tiến hành
kiềm chế bất cứ đối thủ nào có tham vọng cạnh tranh. Trong đó, Châu Á – Thái
Bình Dương đã trở thành một trong những địa bàn quan trọng trong chiến lược đó
và quan hệ an ninh với Nhật Bản tiếp tục được coi là trụ cột quan trọng và cần
thiết nhất và cũng đem lại cho Mỹ nhiều cơ hội nhất với những lợi ích mà quan hệ
an ninh với Nhật đem lại cho Mỹ không một nước nào có thể sánh được.
Liên minh an ninh này không chỉ giới hạn ảnh hưởng trong quan hệ hai nước
mà nó còn có tác động đến cả khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Vịệc Mỹ tiếp
tục cam kết đối với khu vực có tác động tích cực vì nó tránh được một “khoảng
trống quyền lực” khiến một nước nào khác nảy sinh tham vọng thay thế. Tuy
nhiên cũng có không ít quan ngại từ các quốc gia khu vực về khả năng liên minh
sẽ thao túng các vấn đề của khu vực và vai trò của Nhật Bản được nâng cao.
Qua đây, có thể thấy điểm mới của chính quyền Clinton: tiếp tục liên minh
an ninh với Nhật là sự kế thừa chính sách của các chính quyền trước đó nhưng
biện pháp thực hiện thì lại khác, mang tính chất phòng ngừa nhằm ngăn chặn
trước các nguy cơ tiềm tàng, tìm kiếm lợi ích chung và thỏa hiệp trong tranh chấp.
Từ đó cần khẳng định rằng: trước sự thay đổi mạnh mẽ của thế giới, kịp thời nhận
thức hệ thống các tác động của bối cảnh có liên quan có liên quan trực tiếp tới
mình để xác định phương hướng hành động cho phù hợp là yêu cầu bức thiết với
mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
CHÚ THÍCH
i

Dự báo chiến lược an ninh Đông Bắc Á của Mỹ theo hai quan điểm: Hiện thực và Chủ
nghĩa quốc tế tự do
ii
East Asia Strategic Review 1996-1997, tr.207.
iii
Lê Bá Thuyên, “Hoa Kỳ - Cam kết và Mở rộng”, NXB Chính trị quốc gia 1996, tr. 259
iv
Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, NXB
CTQG, tr.92.
v
Nhật Bản với chiến lược trở lại Châu Á, TLTK, tháng 4/1994
vi
Thông điệp liên bang của Tổng thống Bill Clinton tháng 1/1998
vii
Lê Linh Lan, “Kiến trúc an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, thách thức và triển
vọng”, Nghiên cứu quốc tế số 17 (4/1997), tr.9
viii
Denny Roy, Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc phòng – Đại học quốc gia Úc,
“Đánh giá khoảng trống quyền lực ở Châu Á – Thái Bình Dương”, Bản tin tham khảo Quan
hệ quốc tế số 12/1995, tr.42
ix
Sđd.
x
Tài liệu tham khảo đặc biệt, 18/11/1997.
xi
Asian Survey, Volume 37, N.4, 4/1997, tr.387
xii
“Phân tích phương châm phòng vệ mới Mỹ - Nhật”, Tài liệu tham khảo số 4/1998, Quan
hệ giữa các nước lớn, tr.46
MỤC LỤC

Lời mở đầu 1
I. Những thay đổi trên thế giới và môi trường chiến lược khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương sau chiến tranh lạnh 1
II. Vấn đề tái khẳng định và nâng cấp liên minh an ninh Mỹ - Nhật 2
1. Nguyên nhân Mỹ tiếp tục liên minh an ninh với Nhật 2
2. Quá trình nâng cấp 6
a. Tuyên bố chung Mỹ - Nhật: "Liên minh an ninh cho thế kỷ 21" 6
b. Phương châm hợp tác phòng thủ Mỹ - Nhật 24/9/1997 7
III. Tác động của liên minh Mỹ - Nhật đến khu vực Châu Á - TBD 8
1. Tác động đến môi trường an ninh khu vực 8
a.Tích cực 8
b. Tiêu cực 10
2. Tác động đến quan hệ giữa các nước lớn ở khu vực 11
3. Phản ứng của các nước trong khu vực 13
KẾT LUẬN 15
CHÚ THÍCH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

×