Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tiểu Luận HK Công pháp phân tích vai trò của một tổ chức quốc tế chuyên môn thuộc liên hợp quốc ( IMF)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.91 KB, 7 trang )

PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát chung về Quỹ tiền tệ thế giới ( IMF).
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Vào thập kỷ 30, đã có nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những
vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy nhiên điều đó không có kết quả. Những giải pháp bộ phận
và mang tính chất thăm dò đã hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Ðiều cần có
là một sự hợp tác với quy mô lớn chưa từng có giữa tất cả các quốc gia để xây dựng nên
một hệ thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều hành hệ thống này
1
.
Mùa hè năm 1940, một sự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo
bạo của Harry Dester White - Người Mỹ và John Maynard Keynes - Người Anh đã gần
như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của nó
được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những cuộc
gặp gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết trong điều
kiện khó khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ thống tiền tệ
mới và một tổ chức để giám sát nó. Những thương thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ
tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra ở Bretton Woods, NewHamsphire, Hoa kỳ
vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia. Bắt đầu từ 1-3-1947 tổ chức IMF chính thức đi vào
hoạt động như một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Trụ sở chính của IMF ở
Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Từ l945 đến nay con số thành
viên của IMF lên tới 185 Quốc gia. Số lượng thành viên tăng đều đặn, không có biến
động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được
củng cố.
2. Cơ cấu tổ chức.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị gồm
đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 lần. Hiện nay IMF
có 185 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước khác nhau. Hội đồng quản
trị họp mỗi năm 1 lần. Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị phê chuẩn báo cáo hàng năm về
hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi
tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định…


1
/>imf&catid=94:phantichcoban&Itemid=284
1
Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng điều
hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám đốc do 5 nước
có mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16 giám đốc do Hội nghị toàn thể
bầu ra có tính đến khu vực địa lý.
Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan tư
vấn về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của
Ủy ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy
ban lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội đồng
quản trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời thành cơ
quan thường trực có quyền thông qua nghị quyết.
Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp giữa
IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu
đặc biệt của nước nghèo. Bởi vì các ủy viên của Hội đồng quản trị và các ủy viên của
Hội đồng giám đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình nên họ chỉ gặp mặt trong
các cuộc họp định kỳ hàng năm để cùng giải quyết các vấn đề của IMF.
IMF có khoảng 2690 nhân viên, hoạt động trên 191 nước, đứng đầu là Giám đốc
điều hành, đồng thời cũng là Chủ tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của
mình). Theo truyền thống, Giám đốc điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng
phải là người Mỹ. Nhân viên của IMF là người của khoảng 120 nước và đa phần là nhà
kinh tế học, song cũng có cả các nhà thống kê, bác học, các chuyên gia về tài chính
công cộng và thuế khoá, các nhà ngôn ngữ học, nhà văn và các nhân viên phục vụ
2
.
3. Chức năng cơ bản của IMF.
3.1 Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái (TGHĐ) của các
thành viên.
Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ

thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong hiệp định có ghi : ''Tất cả các thành
viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những hoạt động hối
đoái giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn
trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá''. Do sức ép của Mỹ, Hội nghị
Bretton Woods phải chấp nhận 1 tỷ lệ vàng USD là 35 USD – 1 ounce vàng. Cuối 1947
Bộ Trưởng Tài chính Mỹ, ông Johw Suyder đã tuyên bố với Tổng giám đốc của IMF là
2
/>2
Mỹ bán và mua vàng bằng USD với giá 35 USD/ ounce cho tất cả các NHTW nào có
yêu cầu. Ðiều này biến hệ thống Bretton Woods thành một hệ thống bản vị USD.
Để giải quyết vấn đề dự trữ của quỹ tháng 6-1967 Hội đồng Thống đốc IMF đã
nhóm họp ở Rio de Janeiro, thủ đô Brazil và đã chấp nhận nguyên tắc tạo ra một loại dự
trữ quốc tế mới là SDR (Special drawing right). Dự trữ SDR được thể hiện dưới hình
thức bút tệ, được ghi trong tài khoản đặc biệt của mỗi nước thành viên và có thể sử
đụng qua chuyển khoản. Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc ban đầu được ấn định là
0,888671 gram vàng, tương đương với hàm lượng vàng của 1 USD. Ðến năm 1973 vì
có sự thả nổi hối suất của USD, giá trị của SDR được quy định căn cứ vào giá trị tổng
hợp của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ
thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia trong tổng giá trị xuất khẩu của thế
giới. Năm 1981, giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ vào 5 đồng tiền của 5 nước có khối
lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975-1979 là USD 40; FRF 11%; GDB 11%; JPY
17%; DEM 21%; Cứ 5 năm duyệt lại một lần: một lần vào đầu năm 1986, một lần vào
đầu năm 1991
3
.
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá thả
nổi có quản lý (hệ thống Jamaica). Nhiều cường quốc ấn định tỷ giá của mình theo cơ
chế thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này IMF có vai trò lớn và thường kiến nghị, tác
động đến chính sách quản lý tỷ giá của các nước thông qua các điều kiện tín dụng. Tuy
tác động, quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế theo nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực

hiện chức năng duy trì ổn định hệ thống tỷ giá hối đoái cố định tương đối l cách có hiệu
quả. Bên cạnh đó, việc thực hiện chức năng này còn được hỗ trợ bởi các hoạt động thực
hiện các chức năng khác.
3.2. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân
thanh toán.
Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế
IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng cho các nước có khó khăn
tạm thời về cán cân thanh toán. Khi một nước rơi vào tình trạng này thì buộc họ phải
giảm dự trữ ngoại hối hoặc đi vay để tài trợ cho các hoạt động này.
Hậu quả là các nước đó phải đối mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối
đoái. Ðây chính là lúc IMF thực hiện chức năng của mình. Nếu gặp khó khăn về cán
3
/>imf&catid=94:phantichcoban&Itemid=284
3
cân thanh toán, một nước thành viên có thể rút lại ngay lập tức 25% quota đã góp bằng
vàng hoặc ngoại tệ có thể chuyển đổi Trước 1980, IMF quy định thành viên hàng năm
chỉ được vay tối đa 25% và tổng các khoản vay không được quá 125% quota.
Ðể đáp ứng nhu cầu về vốn, IMF đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng vốn. Năm
1962, IMF ký kết tổng nghị định thư về vay mượn (General Agreement to Borrow)
GAB với thời hạn 4 năm. Sau đó tổng nghị định GAB được gia hạn nhiều lần và đến
nay đã hoạt động ổn định. Tham gia vào GAB có 10 nước tư bản chủ chốt (Mỹ, Anh,
Hà Lan, Canada, Pháp, Tây Ðức, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ và Nhật Bản). Số vốn GAB tăng
từ 6,4 tỷ SDR lên 17 tỷ SDR vào 2/83. Ðối tượng vay vốn theo GAB này ban đầu chỉ là
các nước thành viên, nhưng từ năm 1984 các nước không phải thành viên cũng được
tham gia. Thời hạn cho vay không quá 5 năm. Gần đây Hội đồng quản trị đã chấp nhận
Hiệp định vay mượn mới (New Agreement to Borrow - NAB) cùng với 10 nước trên
cũng được thực hiện với Arập Xêút và đã tạo ra một nguồn vốn 1,5 tỷ SDR. Các khoản
vay NAB này sẽ có hiệu lực cho đến 26/12/1998.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Mêhicô hồi cuối 1994 đầu năm 1995, Hội đồng
quản trị IMF đã tăng cường khả năng vay vốn để đối phó với tình trạng khẩn cấp trong

tương lai bằng cách thông qua NAB vào tháng l/1997. Theo NAB thì 25 nước và tổ
chức có thể sẵn sàng cho IMF vay 34 tỷ SDR (47 tỷ USD) để bổ sung cho nguồn vốn
đóng góp của quý khi cần thiết, ngăn chặn hoặc đối phó với tình huống bất thường có
thể đe doạ sự ổn định của hệ thống.
3.3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của
các nước thành viên.
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực
hiện sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên''. Ðồng thời IMF có
quyền áp đụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ sở tôn trọng
chính sách của họ. Ðể thực hiện nhiệm vụ này IMF kiểm tra các vấn đề tiền tệ quốc tế
và phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác động đến hệ thống
TGHÐ.
Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu quả
đã tăng lên do nhiều biến chuyển cơ bản trong nền kinh tế toàn cầu : tăng trưởng nhanh
chóng của thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia tăng, chỉnh đốn tài
khoản vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng thị trường của nhiều nước. Cuộc khủng
4
hoảng Mêhicô năm 1995 và khủng hoảng tài chính Ðông Á 7/1997 cho thấy sự cần thiết
và vai trò giám sát quan trọng của IMF. Năng l995, IMF đẩy mạnh chức năng giám sát,
nhấn mạnh vào việc các thành viên cung cấp đầy đủ, chính xác các số liệu.
Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp tác giữa IMF và thành viên, IMF được phép xem xét
một cách có hệ thống sự phát triển kinh tế và chính sách kinh tế của thành viên, đánh
giá tác động của các chính sách đối với tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán.
II. Vai trò của IMF trong việc duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các
quốc gia.
1. Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên
Để bảo đảm một hệ thống tiền tệ quốc tế quân bình và tạo điều kiện cho những
trao đổi thương mại thế giới phát triển, hiện nay Quỹ có một hoạt động nghiên cứu quan
trọng về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể
nhìn trước những khó khăn một nước để có thể phải đối đầu và do đó cần sự giúp đỡ

của Quỹ. Trong những tài liệu làm việc của Quỹ, một phần quan trọng liên quan đến
những dữ kiện kinh tế và tài chính của mỗi nước hội viên, bởi vì giá trị của đồng tiền
quốc gia tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế này.
Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc
nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình trạng khó khăn
kinh tế. Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi nước quãng
hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền
như những thống kê về xuất nhập khẩu, lương bổng, giá cả, việc làm, chỉ số phân lãi, số
lượng tiền quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân sách quốc gia. và đối thoại với
những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của những chính sách kinh tế đang được áp
dụng, những dự trù thay đổi để có một chính sách trao đổi ngoại tệ một cách tự do
không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm chuyên viên trở về trụ sở Washington và lập
một bản tường trình chi tiết để ban điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải
sửa đổi hay canh tân trong những lãnh vực có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu
tố cơ bản để IMF quyết định giúp đỡ hay không khi cần thiết.
Thí dụ cụ thể trường hợp Việt Nam. Cuộc tham khảo mới nhất của Quỹ với
những đại diện của chính phủ Việt Nam theo phương cách trình bầy trên đã được công
5
khai xuất bản trên website của Quỹ ngày 4/8/2000, với sự thoả thuận của chính phủ
Việt Nam (tựa đề là IMF concludes Article IV consultation with Vietnam). Nội dung
của tài liệu này mô tả những biến cố kinh tế và tài chánh tổng quát gần đây của Việt
Nam và những nhận định gợi ý của ban lãnh đạo IMF đối với chính quyền Việt Nam.
2. Giúp đỡ tài chính.
IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán trong
cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu không đủ để thanh
toán những hàng hoá nhập khẩu. Nguồn ngoại tệ của một nước có là do từ những xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ, từ những chi tiệu tại chỗ của những du khách ngoại quốc, từ
những đầu tư của các hãng xưởng ngoại quốc, từ những giúp đỡ tài chánh của các nước
giầu cho những nước nghèo.
Những nước gặp khó khăn có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng góp trả

bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số tiền
tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm ba lần, mỗi năm có thể rút một lần.
Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp (reserve tranche - tranche de réserve) thì 75%
sau là tiền Quỹ cho mượn (credit tranche - tranche de crédit). Khi Quỹ đồng ý giúp
75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay nhiều nước hội viên khác có nền
kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần trợ giúp. Nước mượn tiền sẽ
phải trả lại tiền đã đổi để các nước khác mà tiền đã bị đổi có thể xử dụng để vay Quỹ
trong trường hợp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền tảng và cũng là điều giải thích tại sao,
mặc dù như đã nói Quỹ có khoảng 300 tỷ dollar Mỹ tiền các nước hội viên đóng góp,
nhưng 75% là tiền quốc gia của các nước hội viên cho nên Quỹ không thể cho vay một
lúc cả 300 tỷ dollar
4
.
IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những chính sách của
ngân hàng trung ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân hàng trong nước. Số lượng cho
vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia tăng. Việc kiểm soát và
giới hạn hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt nước cần mượn
phải thực hiện. IMF thường đòi nước phải hạ tỷ giá hối đoái để giới hạn phần nhập khẩu
và để phần xuất khẩu.
4
/>imf&catid=94:phantichcoban&Itemid=284
6
Hệ thống tài chính ngân hàng thế giới trong những năm qua liên tục chứng kiến
nhiều vụ bê bối lớn, nhiều cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã xảy ra trong phạm vi
lớn cũng như ở một vài nước. Hậu quả là rất lớn, nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái.
Và chỉ những lúc như thế này, các nhà kinh tế cũng như toàn thế giới lại trông đợi vào
vai trò của một tổ chức trung gia tài chính lớn nhất toàn cầu đó là IMF.
Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính ở Hi Lạp, EU và IMF đã thông qua gói
cứu trợ 110 tỷ Euro (tương đương 136 tỷ USD), với khoản vay đầu tiên trị giá 14.5 tỷ

Euro đã được giải ngân vào ngày 18/05/2010. EU và IMF cũng đã lập quỹ chống khủng
hoảng trị giá 750 tỷ Euro (gần 1,000 tỷ USD).
Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách quốc
gia : ít công chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các doanh nghiệp
quốc doanh nếu không muốn nói là phải tư hữu hoá, xoá bỏ những hạn chế về giá cả. và
ngay cả đường lối cứng rắn chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ, nguồn gốc của nhiều
cản trở và hoang phí cho sự phát triển kinh tế.
3. Hỗ trợ kĩ thuật.
IMF hỗ trợ kĩ thuật
5
, hỗ trợ sự phát triển của các nguồn nhân lực sản xuất của các
nước thành viên bằng cách giúp họ quản lí để có hiệu quả chính sách kinh tế và các vấn
đề tài chính.
Trong thập niên 60, nhiều nước châu Phi và châu Á độc lập đã nhờ IMF giúp đỡ
để thiết lập hạ tầng tài chánh quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ kinh tế tài chánh.
Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không những về số nước được
giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập
chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc gia,
thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh
tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ trong lãnh vực này.
5
Hỗ trợ kĩ thuật: Trợ cấp hỗ trợ kĩ thuật các nước có thu nhập thấp;Tích hợp hỗ trợ kĩ thuật và cho vay với IMF;
Hỗ trợ kĩ thuật bao gồm các lĩnh vực cốt lõi chuyên môn của IMF; Cung cấp hỗ trợ kĩ thuật một cách tiếp cận
khu vực; IMF giới thiệu các quỹ ủy thác toàn cầu tại chỗ.
7

×