Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Luận Văn Khóa luận DAV Cạnh tranh Trung-Nhật tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.54 KB, 48 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trung Quốc và Nhật Bản từ lâu đều là những cường quốc có vai trò
quan trọng hàng đầu của khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung và
tầm ảnh hưởng lớn với khu vực Đông Nam Á nói riêng. Từ khi bình thường
hóa quan hệ ngoại giao năm 1972, quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã
trải qua nhiều bước thăng trầm. Đặc biệt từ khi Trung Quốc trỗi dậy nhanh
chóng và gia tăng ảnh hưởng thì vấn đề cạnh tranh Trung- Nhật càng trở nên
nóng bỏng hơn, nhất là tại khu vực Đông Nam Á. Sự nghi kỵ phổ biến trong
nhân dân và thế hệ trẻ hai nước có thể thấy qua một cuộc khảo sát năm
2007: 46% sinh viên Nhật Bản và 57% sinh viên Trung Quốc có cái nhìn
tiêu cực về nước kia trong khi đó có tới 80% sinh viên hai nước được hỏi
cho rằng quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc đang trong thời kỳ “tồi tệ”
1
. Dù đây
không phải là một cái nhìn toàn cảnh nhưng điều đó cũng buộc người ta phải
đặt ra những câu hỏi rằng: Phải chăng đằng sau những nụ cười và cái bắt tay
ngoại giao, bên dưới những bài phát biểu “tan băng” được phát đi từ cả hai
phía là cả một tảng băng chìm sẵn sàng ngăn trở và làm nguội lạnh những kỳ
vọng về sự xích lại gần nhau giữa hai người khổng lồ châu Á.
Trên thực tế, đã có không ít bài khóa luận nghiên cứu về quan hệ
Trung - Nhật. Song bài viết dưới đây muốn tìm hiểu về cạnh tranh của hai
quốc gia này tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là trong
giai đoạn gần đây, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của đất nước Trung Quốc. Đó
là cuộc tranh giành tầm ảnh hưởng khu vực Đông Nam Á của một nước
Nhật Bản – một cường quốc kinh tế, vẫn luôn nuôi dưỡng ước mơ vươn tới
địa vị một cường quốc toàn diện và Trung Quốc- một cường quốc chính trị
đang tiếp tục những bước phát triển vững chắc với đầy tham vọng.

Đỗ Minh Cao (2009), “Nhật-Trung: Những trở ngại tiềm tàng trong quan hệ song phương”, Nghiên cứu
Đông Bắc Á, số 10(104)10/2009, tr.19
Nằm ở vị trí địa chiến lược quan trọng, Đông Nam Á từ lâu đã trở


thành địa bàn tranh chấp ảnh hưởng và quyền lực giữa các nền văn hóa- văn
minh và các nước lớn trên thế giới.
2
Trong gần hai thập niên trở lại đây,
cùng với sự kết thúc chiến tranh lạnh và gia tăng của toàn cầu hóa, khu vực
hóa, khu vực Đông Nam Á lại trở nên sống động không chỉ bởi sự gia tăng
hợp tác và liên kết nội khối trong ASEAN, mà còn trở thành nơi hội tụ của
các sáng kiến mới thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác
trên thế giới, trong đó không thể không nhắc đến Trung Quốc và Nhật Bản.
Với đề tài “ Cạnh tranh Trung-Nhật tại khu vực Đông Nam Á sau
chiến tranh lạnh”, bài viết dưới đây không có tham vọng đưa ra hướng giải
quyết cụ thể cho cạnh tranh Trung- Nhật trước những mâu thuẫn tồn tại
trong lịch sử cũng như những mâu thuẫn mới nảy sinh trong hiện tại mà chỉ
tập trung nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu “Tại sao cạnh tranh Trung-Nhật
lại trở nên căng thẳng sau chiến tranh lạnh, đặc biệt tại khu vực Đông Nam
Á và cạnh tranh này diễn ra trên những lĩnh vực nào?” để từ đó thấy được
những tác động đối với khu vực nói chung cũng như đối với Việt Nam nói
riêng và chiều hướng phát triển của cạnh tranh này trong tương lai.
Về phương pháp, trong khóa luận này, người viết vận dụng kết hợp
quan điểm của thuyết hiện thực và thuyết tự do. Theo đó, trong quá trình
phân tích, người viết sẽ đi sâu tìm hiểu cạnh tranh Trung Quốc-Nhật Bản tại
khu vực ASEAN sau chiến tranh lạnh theo khía cạnh lợi ích, đồng thời tập
trung vào những tính toán về mặt kinh tế và phương thức cạnh tranh của các
bên (thuyết hiện thực). Bên cạnh đó, những đánh giá của bài viết về cạnh
tranh Trung- Nhật tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh cũng sẽ tập
trung theo hướng dù có mâu thuẫn và cạnh tranh nhưng xu thế hợp tác và
cùng phát triển vẫn là xu thế chung đối với cả hai nước này tại khu vực

Xem thêm: Trần Khánh (2001), “Vị thế địa chính trị Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI, Tạp chí
Cộng sản (21) tr.13.

(thuyết tự do). Khóa luận cũng đồng thời sử dụng các phương pháp quy nạp,
diễn dịch và dự báo để rút ra các kết luận thực tế và khách quan.
Về bố cục, khóa luận gồm ba chương với nội dung chính như sau:
Chương I: Khái quát quan hệ Trung- Nhật trong lịch sử
Chương này khái quát về vai trò của Trung Quốc và Nhật Bản ở Châu Á nói
chung và Đông Nam Á nói riêng, đồng thời điểm lại quan hệ Trung- Nhật
trong chiến tranh lạnh và nêu lên những di sản lịch sử còn tồn tại trong quan
hệ Trung-Nhật như vấn đề lịch sử và vấn đề Đài Loan.
Chương II: Cạnh tranh Trung- Nhật sau chiến tranh lạnh tại khu
vực Đông Nam Á
Chương II chỉ ra ba nội dung chính. Thứ nhất là vận động của quan hệ
Trung – Nhật sau chiến tranh lạnh, tức so sánh lực lượng thay đổi giữa
Trung Quốc và Nhật Bản từ sau chiến tranh lạnh cũng như chính sách của
hai cường quốc với nhau. Thứ hai là tầm quan trọng của Đông Nam Á trong
chiến lược của hai quốc gia này sau chiến tranh lạnh và triển khai chính sách
của từng nước đối với khu vực. Cuối cùng là phần quan trọng nhất: cạnh
tranh Trung-Nhật trong khu vực Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh. Tại
đây bài viết chỉ ra cạnh tranh Trung-Nhật trên các lĩnh vực chính: cạnh tranh
về chính trị-quân sự, về vấn đề xây dựng cơ chế hợp tác cho toàn vùng Đông
Á, về kinh tế, và về tranh giành năng lượng.
Chương III: Xu hướng cạnh tranh Trung- Nhật trong tương lai
Chương III chỉ ra tác động của cạnh tranh Trung- Nhật đến khu vực Đông
Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó đưa ra triển vọng quan hệ
Trung-Nhật trong tương lai dựa trên cơ sở lý luận của thuyết tự do.
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT QUAN HỆ TRUNG-NHẬT TRONG LỊCH SỬ
I. TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN TRONG LỊCH SỬ CHÂU Á
1. Khái quát quan hệ Trung – Nhật trước CTTG II:
Nhật Bản và Trung Quốc là hai nước láng giềng lớn, có ảnh hưởng quan
trọng trong không gian địa chính trị tại Châu Á nói chung và khu vực Đông

Nam Á nói riêng. Lịch sử quan hệ hai nước này đã có từ lâu đời và thăng
trầm theo những biến cố quan trọng trong tiến trình lịch sử thế giới và giữa
hai nước với nhau. Từ xa xưa Trung Quốc đã có tầm ảnh hưởng rất lớn đối
với các nước láng giềng, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và đã thiết lập
một hệ thống các nước chư hầu xung quanh. Mặc dù vậy, do vị trí địa lý đảo
quốc tách biệt của mình, Nhật Bản đã giữ được một vị thế tương đối độc lập
với Trung Quốc. Nhật Bản đã không trở thành một nước chư hầu của Trung
Quốc mà còn tận dụng được cơ hội để phát triển con đường riêng thông qua
cải cách Minh Trị duy tân để gia nhập vào hàng ngũ các cường quốc. Khi
Nhật Bản trỗi dậy cũng là lúc Trung Quốc (triều Mãn Thanh) đi vào suy
yếu, dẫn đến sự thay đổi đáng kể vị thế và vai trò của hai nước tại Á châu.
Nhật Bản và Trung Quốc đã đối đầu trong cuộc chiến tranh giáp Ngọ
cuối thế kỷ XIX (1894-1895). Người Nhật đã giành thắng lợi áp đảo trước
quân đội nhà Thanh, kết quả là Nhật Bản đã dựng nên chính quyền bù nhìn
thân Nhật tại vùng Mãn Châu Lý và chiếm đảo Đài Loan. Từ đó, nước Nhật
dần dần mở rộng ảnh hưởng ở Trung Quốc. Ký ức về sự tàn bạo của quân
phiệt Nhật ngày nay vẫn còn rất đậm nét, thí dụ vụ “tàn sát Nam Kinh” năm
1937 được xem là hành động dã man nhất của binh lính Nhật tại Trung
Quốc và để lại những dư âm tiêu cực trong quan hệ hai nước về sau.
3

2. Quan hệ Trung – Nhật trong chiến tranh lạnh:
2.1. Giai đoạn 1949-1971:

Ngô Xuân Bình (2000), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Nhà xuất bản
khoa học xã hội, Hà Nội,tr.233-234
Từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, quan hệ
Trung – Nhật đã bị cuốn vào vòng xoáy của Chiến tranh lạnh. Sự phân tuyến
và đối đầu Đông – Tây đã sớm đẩy Trung Quốc và Nhật Bản đứng vào hai
chiến tuyến đối địch nhau. Chính điều này trong suốt một thời gian dài đã

ngăn cản hai nước khôi phục mối quan hệ ngoại giao bình thường.
Vào cuối thập kỷ 60 thế kỷ XX, Trung Quốc bị rơi vào tình thế bị cô
lập bốn bề.
4
Để phá vòng vây cô lập, Trung Quốc không còn con đường nào
khác là phải tìm cho mình một chính sách đối ngoại cởi mở hơn. Trong bối
cảnh ấy, việc bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản là một điều cần thiết,
hơn nữa lại được mở đường bởi mối quan hệ tan băng với Mỹ - một đồng
minh thân cận của Nhật Bản.
Đối với Nhật Bản, việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc tạo
điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế đang phát triển như vũ bão của Nhật dễ
dàng hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường khổng lồ Trung Quốc, đồng thời
cũng giảm nguy cơ đe dọa về mặt an ninh đối với Nhật trong bối cảnh Trung
Quốc tuyên bố đã có vũ khí hạt nhân năm 1964. Trong giai đoạn thập kỷ 50-
60 thế kỷ XX, Nhật Bản phải chịu sức ép lớn từ Mỹ và tư tưởng chống
Cộng, nên mặc dù vẫn duy trì quan hệ kinh tế khá nhộn nhịp với Trung
Quốc, quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai bên chưa thể được thiết lập.
Chính vì vậy, việc Mỹ đàm phán bí mật với Trung Quốc và chuyến thăm
Trung Quốc của tổng thống Mỹ Nichxơn đã ít nhiều gây sốc cho Nhật Bản.
Nhật Bản cảm giác bị gạt ra ngoài lề trong mối quan hệ giữa các nước lớn.
Đây chính là động lực quan trọng thúc đẩy Nhật Bản nhanh chóng thoát ra
khỏi tư duy cũ và tiến hành bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Tóm lại, trong suốt hai thập kỷ 50 - 60 thế kỷ XX, quan hệ chính trị
giữa hai bên được duy trì ở mức độ không chính thức, tình trạng căng thẳng

Trung Quốc lúc này không chỉ đối đầu với Mỹ và các nước phương Tây mà phía Tây xung đột với Ấn Độ,
phía Nam là các đồng minh với Mỹ hoặc các nước đang bị Mỹ can thiệp, phía Đông là Nhật Bản và Hàn
Quốc, ngay cả quan hệ với Liên Xô, một nước đã từng là đồng minh chiến lược ở phía Bắc cũng xuống đến
mức thấp nhất.
là phổ biến. Tuy nhiên, quan hệ kinh tế vẫn được duy trì, không những thế

mức độ ngày một gia tăng, tạo nền tảng cơ bản cho quan hệ song phương.
Nhưng chỉ mãi đến đầu những năm 70 thế kỷ XX, khi tình hình quan hệ
giữa các nước lớn có nhiều biến động: Xô – Trung đối đầu, Trung – Mỹ bắt
tay, quan hệ Trung – Nhật mới có được chất xúc tác đủ mạnh để chuyển
mình.
2.2. Giai đoạn 1972-1991:
Ngay khi Thủ tướng Tanaka Kakuei lên nắm quyền ở Nhật Bản thay
thế Thủ tướng Sato – một người có quan điểm cứng rắn đối với Trung Quốc,
quá trình tiến hành đàm phán bình thường hóa quan hệ được khởi động.
Tuyên bố chung đánh dấu sự chấm dứt tình trạng thù địch giữa hai nước
được ký kết ngày 29/9/1972, mở ra một trang sử mới trong quan hệ hai
nước.
5
Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, quan hệ hai nước có
những bước tiến nhất định về cả kinh tế lẫn chính trị. Năm 1972, lần đầu
tiên kể từ sau chiến tranh thế giới II, kim ngạch mậu dịch giữa hai nước vượt
1 tỷ đô-la trong đó Nhật xuất khẩu sang Trung Quốc 608,9 triệu dola và
nhập khẩu đạt 491,1 triệu đô-la.
6
Tuy nhiên, trong giai đoạn 1973-1977 sau
đó, kim ngạch mậu dịch hai chiều hầu như không tăng, thậm chí có năm còn
giảm đi do sự giảm sút của kinh tế Trung Quốc và sự mất ổn định trong nội
bộ từng nước.
7
Bước vào năm 1977, tình hình nội bộ hai nước trở nên ổn
định hơn.
8
Các cuộc đàm phán về ký kết Hiệp ước Hòa Bình, hữu nghị mới

Xem thêm: R K Jain. “China anh Japan 1949-1980”, Second Edition-India: Humanities Press Atlantic

Hinglands

Nguyễn Thanh Bình. “Quan hệ Nhật-Trung từa sau chiến trash thế giới II đến nay”. NXB Khoa học xã
hội, 2004,tr 83.

Ở Trung Quốc lúc này đang diễn ra cuộc đấu tranh lật đổ “ Bè lũ bốn tên”, thêm vào đó, những nhà lãnh
đạo kỳ cựu như Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông lần lượt qua đời . Còn về phía Nhật là sự thay đỏi liên tục
các đời thủ tướng.

Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình được khôi phục chức vụ; ở Nhật Bản, nội các của Fukada lên nắm quyền.
được khai thông. Tháng 10/1978, Hiệp ước Hòa bình hữu nghị được phía
Trung Quốc khởi xướng ngay sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ
mới chính thức được hai bên phê chuẩn, đánh dấu sự khôi phục toàn diện
quan hệ Trung – Nhật.
Khái quát lại, từ năm 1979 đến trước sự kiện Thiên An Môn năm
1989, quan hệ Trung – Nhật phát triển theo hướng tích cực. Nhưng sau khi
vụ đàn áp đẫm máu xảy ra tháng 6/1989, quan hệ hai bên bị gián đoạn trong
một thời gian. Chỉ đến tháng 7/1990, Thủ tướng Nhật Kaifu mới có những
động thái mở đường cho quan hệ quan hệ song phương hai nước nửa đầu
thập kỷ 90 thế kỷ XX.
9
II. VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM Á VỚI TRUNG QUỐC VÀ
NHẬT BẢN TRONG LỊCH SỬ
Từ xa xưa, với Trung Quốc và Nhật Bản, Đông Nam Á được coi như là
một vùng ảnh hưởng truyền thống. Bởi nằm ở vị trí địa chiến lược nên từ lâu
khu vực đã trở thành địa bàn tranh chấp ảnh hưởng và quyền lực giữa các
nền văn hóa-văn minh và các nước lớn trên thế giới, bao gồm có hai người
láng giềng khổng lồ là Trung Quốc và Nhật Bản.
Đối với Trung Quốc, Đông Nam Á luôn là khu vực có ý nghĩa chiến lược
cao đối với an ninh và phát triển, là nhịp cầu lý tưởng để nước này tham dự

vào hoạt động quốc tế ở Đông Á, trong đó có việc tạo dựng vị thế nổi trội ở
khu vực Đông Nam Á. Trong lịch sử, khu vực Đông Nam Á là sự mở rộng
lãnh thổ của triều đình phong kiến nước này, đồng thời đây cũng là vùng
đệm cực kỳ quan trọng của họ. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, do nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan, quan hệ của Trung Quốc với các nước Đông
Nam Á vừa là bạn vừa là kẻ thù. Vào những 1950, có người gọi đây là thời
kỳ ghẻ lạnh của Trung Quốc với Đông Nam Á không cộng sản.
10
Tuy nhiên,

Tháng 7/1990, Thủ tướng Nhật Kaifu chính thức tuyên bố nối lại dần khoản vay đợt 3 cho Trung Quốc.

Ngô Xuân Bình (2008), “Tìm hiểu chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu
Đông Bắc Á,(9), tr.5.
Trung Quốc đã lợi dụng một số cuộc xung đột ở khu vực (chiến tranh Đông
Dưong, chiến tranh Việt Nam và vấn đề Campuchia) để gây ảnh hưởng cho
mình tại các bàn đàm phán quốc tế (Hội nghị Geneve, Hội nghị Paris v.v.).
Từ khi tiến hành cải cách mở cửa năm 1978, sử dụng lợi thế của mình (là
nước láng giềng gần gũi, có quan hệ truyền thống lâu đời với các nước Đông
Nam Á, có thực lực kinh tế và uy tín chính trị đang lên nhanh và có đông
đảo cộng đồng người Hoa), Trung Quốc đã và đang ráo riết mở rộng quan
hệ của họ trên tất cả các phương diện đối với khu vực này.
Đối với Nhật Bản, Đông Nam Á trong lịch sử là một khu vực láng giềng
có quan hệ mật thiết. Lịch sử khu vực đầu thế kỷ XX đã chứng kiến Nhật
Bản mở rộng ảnh hưởng đáng kể đến khu vực Đông Nam Á thông qua các
cuộc xâm lược các nước khu vực trong thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ
hai. Sau năm 1945, Đông Nam Á đã dần dần trở thành một trong những địa
bàn đầu tư số một của Nhật và là thị trường tiêu thụ sản phẩm và cung cấp
nguyên liệu thô hay sơ chế cho nước này. Năm 1977, Nhật Bản đưa ra học
thuyết Fukuda nhắm cụ thể đến Đông Nam Á.

11
Có thể nói, nếu không có thị
trường Đông Nam Á thì Nhật Bản khó có thể đạt được những thần kỳ kinh
tế trong những thập niên 70-80 cũng như để thoát khỏi những trì trệ kinh tế
diễn ra trong thập niên 90 và nâng cao vị thế của mình.
III. DI SẢN LỊCH SỬ ĐỐI VỚI QUAN HỆ TRUNG-NHẬT
1. Những vấn đề lịch sử
Một thách thức lớn đối với quan hệ Trung – Nhật là tranh chấp lãnh
thổ đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và nhiều vấn đề lịch sử đến nay vẫn
chưa được hai bên giải quyết thấu đáo, tạo nên những rào cản trong quan hệ
song phương.

Học thuyết Fukuda ra đời trong chuyến thăm Đông Nam Á của thủ tướng Nhật Takeo Fukuda vào tháng
8/1977. Tại Manila ông đã công bố chính sách của Nhật đối với Đông Nam Á:
• Nhật Bản không trở thành cường quốc quân sự lớn.
• Xây dựng "lòng tin" trên mọi lĩnh vực.
• Hợp tác tích cực để tăng cường quan hệ với các nước ASEAN và tạo dựng hiểu biết lẫn nhau với
3 nước Đông Dương.
Thứ nhất về việc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku.
12
Nhật Bản
thì luôn cho rằng quần đảo này do một người Nhật phát hiện ra vào năm
1879 và được sát nhập vào lãnh thổ của Nhật từ năm 1895 theo Hiệp Ước
Shimonoseki.
13
Còn Trung Quốc khẳng định nhóm đảo này thuộc về Trung
Quốc từ xa xưa dựa theo tài liệu từ thời Minh - Thanh và điều này cũng
được Nhật Bản công nhận cho đến năm 1895 khi xảy ra chiến tranh Giáp
Ngọ giữa Nhật Bản và Trung Quốc.
Thứ hai là Trung Quốc cho rằng Nhật Bản không nhìn nhận đúng mức

cuộc chiến do Nhật Bản gây ra trong giai đoạn 1931-1945 khiến 35 triệu
người dân Trung Quốc, chủ yếu là dân thường thiệt mạng và bị thương. Một
vấn đề gây trở ngại khác là phía Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản xin lỗi và
bồi thường thiệt hại cho những phụ nữ Trung Quốc bị quân đội Hoàng gia
Nhật Bản cưỡng bức làm nô lệ tình dục trước và trong suốt Chiến tranh thế
giới hai.
Thứ ba, ngôi đền Yasukuni
14
luôn là tâm điểm gây căng thẳng giữa
Nhật và Trung Quốc, phía Trung Quốc cho rằng ngôi đền này là biểu tượng
của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Ngôi đền Yasukuni thờ 2,5 triệu người
Nhật Bản chết trong chiến tranh, trong đó bao gồm cả 14 tội phạm chiến
tranh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trung Quốc và Hàn Quốc đều cho
rằng ngôi đền này ca ngợi những hành động tàn bạo trong Thế chiến của
Nhật.
Cuối cùng, một thách thức nữa trong nhận thức lịch sử về cuộc chiến
tranh này là việc vào những cuối thế kỷ XX và vào thập niên đầu thế kỷ

Nhật Bản gọi đây là quần đảo Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư gồm một dãy đảo nhỏ (5 đảo và 3
bãi đá) không có người ở, nằm rải rác cách đảo Okinawa của Nhật Bản 300km về phía Tây và 200km về
phía Đông Bắc Đài Loan.

Nguyễn Hồng Yến (2/1997), “Tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trong quan hệ Trung- Nhật và
khả năng giải quyết”, Nghiên cứu quốc tế số 1 (16).

Đền Yasukuni được xây dựng năm 1869, ban đầu có tên là Tokyo Shokansha, năm 1879 đổi tên thành
Yasukuni. Đền này được xây dựng với mục đích tưởng niệm và tôn vinh những người đã hi sinh trong các
cuộc chiến tranh của dân tộc Nhật Bản.
XXI, Nhật Bản liên tiếp sửa chữa và xuất bản những cuốn sách giáo khoa
lịch sử mới

15
dạy cho học sinh, trong đó có những quan điểm mà Trung
Quốc cho rằng Nhật Bản đã “xuyên tạc lịch sử” liên quan đến cuộc “xâm
lược” của Nhật Bản tại Trung Quốc vào những năm từ 1937 đến 1945.
16

Theo nhiều chuyên gia phân tích chính trị cho rằng, vấn đề lịch sử chỉ
là cái cớ để hai bên sử dụng trong việc kích động sự trỗi dậy của chủ nghĩa
dân tộc ở hai quốc gia này, song rõ ràng, nếu hai nước muốn cải thiện và
thúc đẩy quan hệ thì một yếu tố quan trọng là phải có những nhận thức
chung về lịch sử một cách đúng đắn. Sự tồn tại của vấn đề lịch sử là một di
sản tiêu cực trong quan hệ Trung- Nhật, thúc đẩy sự nghi kỵ lẫn nhau vốn đã
có mầm mống từ lâu đời giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
2. Vấn đề Đài Loan
Đã từ lâu, Đài Loan luôn là một vấn đề nhạy cảm đối với cả hai quốc
gia Trung Quốc và Nhật bản bởi vị trí chiến lược và tầm quan trọng của
vùng lãnh thổ này đối với cả hai nước.
Đối với Nhật Bản, eo biển Đài Loan có tầm quan trọng chiến lược đặc
biệt vì nó đảm bảo điều kiện thuận lợi cho các con đường nhập khẩu và sự
thông thương của Nhật Bản. Liên kết với Đài Loan cũng chính là nhằm tạo
một vành đai bao bọc khống chế sức mạnh của Trung Quốc đang trỗi dậy
cạnh tranh vai trò với Nhật Bản. Trong tuyên bố chung tái khẳng định Hiệp
ước an ninh song phương năm 1996, Mỹ và Nhật đưa “vùng nước xung
quanh Nhật Bản” (có thể bao hàm cả Đài Loan) vào trong phạm vi phòng
thủ của họ. Điều này cũng thể hiện rõ trong Tuyên bố chung vào tháng
2/2005 tại cuộc họp 2+2 giữa Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng hai

Nhật Bản đã tiến hành ba đợt sửa chữa sách giáo khoa lịch sử: đợt thứ nhất kéo dài từ năm 1955 đến
những năm 1970, đợt thứ hai là từ năm 1982 kéo dài suốt những năm 1980, đợt thứ 3 là từ năm 1994 kéo
dài đến tháng 4 năm 2005, trong sách mới nhất có 124 điểm sửa chữa so với sách phát hành năm 1946.


Đỗ Minh Cao (2009), “Nhật-Trung: Những trở ngại tiềm tang trong quan hệ song phương”, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Bắc Á (10), tr.12.
nước Mỹ và Nhật Bản, xác định Đài Loan là “mục tiêu chiến lược chung”
trong Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật.
17
Về phía Trung Quốc, khi kiểm soát Đài Loan, Trung Quốc sẽ sử dụng
các cảng của Đài Loan cho những tầu ngầm có thể hoạt động tự do khắp
vùng biển Tây Thái Bình Dương. Điều này có ảnh hưởng vô cùng lớn đối
với Nhật Bản khi mà tầm quan trọng của Eo biển Đài Loan đã được đến cả
thường dân Nhật công nhận rộng rãi. Ví dụ điển hình là trong thời gian diễn
ra các cuộc tập trận tên lửa nhằm vào Đài Loan của Trung Quốc năm 1995-
1996, một số chuyến tàu buôn và chuyến bay vượt qua Eo biển Đài Loan đã
bị hủy bỏ.
18
Như vậy, mặc dù trong tuyên bố ngoại giao, Nhật Bản ủng hộ hướng
đến “một nước Trung Quốc”
19
, song trên thực tế Nhật Bản luôn tăng cường
quan hệ với Đài Loan vì mối quan hệ này đáp ứng được yêu cầu về kinh tế
và an ninh chính trị đối với Nhật Bản. Không chỉ là một trong những nhà
đầu tư hàng đầu mà Nhật Bản còn có quan hệ chính trị an ninh gần gũi với
Đài Loan. Bắc Kinh phê phán Tokyo là quá gần gũi với lực lượng theo đuổi
độc lập cho Đài Loan. Và xem ra, về thực chất, có thể Nhật cũng chưa muốn
Trung Quốc – Đài Loan hợp nhất, vì như thế sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến môi
trường an ninh xung quanh Nhật Bản. Vấn đề Đài Loan, do đó, cũng sẽ là
một trong những vấn đề gai góc trong quan hệ Trung-Nhật trong tương lai.

Trần Hoàng Long (2007), “Quan hệ Nhât-Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á (7). Tr.15.


Tokyo và Đài Loan với điệu nhảy Tango, Tạp chí nghiên cứu kinh tế viễn đông số tháng và 2/2007

Trần Hoàng Long (2007), “Quan hệ Nhât-Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á (7). Tr.16. .

CHƯƠNG II:
CẠNH TRANH TRUNG-NHẬT SAU CHIẾN TRANH LẠNH TẠI
KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
I. Vận động quan hệ Trung-Nhật sau chiến tranh lạnh
1. So sánh lực lượng Trung – Nhật sau chiến tranh lạnh
Nhật Bản: Nếu như trước chiến tranh lạnh, Nhật vươn lên thành
cường quốc kinh tế có ảnh hưởng nhiều mặt trên thế giới (mậu dịch, đầu tư
nước ngoài, ODA viện trợ và vốn vay ưu đãi cho các nước đi sau) thì từ đầu
thập niên 1990, kinh tế Nhật suy thoái, trì trệ hơn 10 năm. Tuy nhiên, về mặt
đối ngoại, nhất là đối với khu vực Đông Nam Á, Nhật vẫn giữ vai trò quan
trọng và có chiến lược củng cố vai trò đó. Từ năm 2003 kinh tế hồi phục
càng làm cho Nhật tự tin hơn trong chiến lược đối ngoại. Đặc biệt cũng từ
năm 2003 Nhật tích cực vận động để được trở thành uỷ viên thường trực của
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Tăng cường về vị trí chính trị trên trường
quốc tế.
Trung Quốc: Trong giai đoạn kinh tế Nhật suy sụp cũng là lúc Trung
Quốc trỗi dậy mạnh mẽ. Suốt hơn 20 năm cải cách, mở của, kinh tế Trung
Quốc phát triển trung bình mỗi năm 10%. Bước qua thế kỷ 21, đặc biệt là
sau khi gia nhập WTO (2001), các chỉ tiêu kinh tế chính như tổng sản phẩm
trong nước (GDP), kim ngạch xuất khẩu, v.v. cho thấy Trung Quốc ngày
càng tiến vào hàng ngũ những nước lớn. Trong thời kỳ Giang Trạch Dân
cầm quyền (1992-2002)
20
, ý thức nước lớn và quyết tâm thực hiện chiến

lược “Đại phục hưng dân tộc Trung Hoa” được giương cao.
21
Trước sự cảnh

tính theo thời gian Giang Trạch Dân làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, nếu tính theo thời
gian làm Chủ tịch nước thì là 1993-2003.

từ đầu thế kỷ thứ nhất đến giữa thế kỷ 19, Trung Quốc luôn là nền kinh tế lớn nhất và chiếm trên 20%
GDP thế giới. Nhưng từ giữa thế kỷ 19 trở đi, Trung Quốc suy sụp hoặc trì trệ hơn một trăm năm. Vào giũa
thế kỷ 20 Trung Quốc chỉ chiếm độ 5% GDP thế giới. Chiến lược đại phục hưng nhằm đưa Trung
Quốc trở lại thời truớc thế kỷ 19. Xem thêm: Maddison, Angus (2001), The World Economy: A Millennial
Perspective, OECD.
giác của nhiều nước Asean, Trung Quốc đưa ra khái niệm “trỗi dậy hòa
bình” và sau này là “phát triển hòa bình” để nhấn mạnh là Trung Quốc sẽ
vươn lên thành nước lớn nhưng bằng các biện pháp hoà bình như mở rộng
ngoại thương, tận dụng tư bản và công nghệ thế giới.
22
Tóm lại, có thể nói từ giữa thập niên 1990, Nhật Bản từ một cường
quốc kinh tế muốn vươn lên thành một cường quốc nhiều mặt, kể cả chính
trị. Còn Trung Quốc từ một nước có tiếng nói mạnh trên chính truờng quốc
tế đã vươn lên thành một nước lớn về kinh tế. Trong lịch sử Á châu, đây là
lần đầu tiên cả Nhật Bản và Trung Quốc đều là các cường quốc mạnh và
đang tranh nhau củng cố vai trò của mình tại khu vực Châu Á nói chung và
tranh giành tầm ảnh hưởng với khu vực Đông Nam Á nói riêng.
2. Chính sách của Trung Quốc và Nhật Bản với nhau:
2.1. Chính sách của Trung Quốc với Nhật Bản
Trung Quốc cho rằng Nhật Bản hiện nay là nước có sức mạnh tổng
hợp quốc gia hùng hậu nhất trong khu vực Đông Á, vì thế Nhật Bản là đối
thủ hàng đầu của Trung Quốc trong việc mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung
Quốc đối với khu vực Đông Á. Trung Quốc cho rằng tư duy cơ bản của

Nhật Bản là: lấy việc sửa sai, thoát khỏi hệ thống các nước chiến bại sau
chiến tranh, mục tiêu cơ bản là trở thành “quốc gia bình thường”, nội dung
cơ bản là xây dựng “nước lớn chính trị hóa”, và đường lối tăng cường quân
sự.
23
Về quan hệ Trung – Nhật, các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng
trong 10-15 năm đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản vẫn coi Trung Quốc là đối tác
hợp tác quan trọng là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối
ngoại của Nhật Bản, tuy nhiên cũng nhìn nhận rằng liên minh Mỹ- Nhật sẽ
tiếp tục tồn tại trong một thời gian dài, và trong thời gian đó, Nhật Bản về cơ
bản sẽ tiếp tục thực hiện chính sách “theo đuôi” Mỹ trong khuôn khổ “Mỹ

Khái niệm hoà bình quật khởi chính thức được đưa ra vào tháng 11 năm 2003

Xem thêm:”Môi trường an ninh quốc tế khu vực Châu Á- Thái Bình Dương mà Trung Quốc phải đối mặt
trong 10-15 năm tới”. NXB Khoa học xã hội ( Trung Quốc), tháng 11/2003
chủ đạo, Nhật phục tùng”. Đồng thời, ở Nhật vẫn còn tồn tại một thế lực cực
hữu cố tình ngăn cản sự phát triển quan hệ Trung – Nhật, nên quan hệ Trung
– Nhật khó có bước đột phá trong thời gian ngắn trước mắt.
2.2. Chính sách của Nhật Bản với Trung Quốc
Sau chiến tranh lạnh, tương quan lực lượng thay đổi. Trong khi Nhật
Bản bị trì trệ về kinh tế thì Trung Quốc lại “trỗi dậy” mạnh mẽ và phát triển
nhanh chóng. Trung Quốc trở thành một đối thủ đáng gườm của Nhật đăc
biệt là trong khu vực Đông Nam Á. Nhật Bản tiếp tục coi trọng ổn định và
phát triển quan hệ với Trung Quốc nhằm đạt được mục đích quan trọng như
ổn định xung quanh, khai thác thị trường Trung Quốc; tiếp tục mưu cầu tăng
cường địa vị và vai trò của mình ở khu vực Đông Nam Á, ra sức phát huy
vai trò chủ đạo trong tiến trình hợp tác kinh tế và an ninh khu vực. Trong
báo cáo “Chiến lược cơ bản của Ngoại giao Nhật Bản thế kỷ XXI- thời đại
mới, tầm nhìn mới, ngoại giao mới”, do “Tổ công tác quan hệ đối ngoại”

thuộc cơ quan tư vấn của thủ tướng J.Koizumi đệ trình bày 28/11/2002
24
,
Trung Quốc được coi là “một cường quốc đang trỗi dậy không gì ngăn cản
được”. Từ đây, Nhật Bản rất chú trọng chính sách của mình với Trung
Quốc. Trong một bài diễn văn tháng 5/2005, nguyên thủ tướng Kiichi
Miyazawa đã nói: “Quan hệ với Hoa Kỳ dĩ nhiên quan trọng. Nhưng không
kém quan trọng là nhìn Trung Quốc như thế nào”.
25

Do đó, Nhật Bản nhìn nhận sự tăng cường sức mạnh quân sự của
Trung Quốc, xét về thời gian trung và dài hạn, như là mối đe dọa nghiêm
trọng với Nhật Bản. Nhật Bản không hề muốn một quốc gia vốn đã có sức
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng như Trung Quốc nay lại có thêm sức mạnh
về quân sự. Điều này càng đe dọa vị thế vốn có của Nhật trong khu vực
Đông Nam Á, một vị thế mà Mỹ đã hậu thuẫn cho Nhật Bản từ lâu.

Đỗ Trọng Quang(2007), “ Chính sách của Nhật Bản tại châu Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (8),
tr.16.

Nt
II. Đông Nam Á trong chiến lược của Trung Quốc và Nhật Bản sau
chiến tranh lạnh
1. Tầm quan trọng của Đông Nam Á đối với Trung Quốc và Nhật
Bản sau chiến tranh lạnh
Đối với Trung Quốc và Nhật Bản, Đông Nam Á có vị trí chiến lược
quan trọng, là cửa ngõ nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là yết
hầu của con đường vận chuyển dầu lửa trên biển. Đồng thời đây cũng là thị
trường đầu tư và tiêu thụ lớn, luôn là bộ phận quan trọng cấu thành trong sự
điều chỉnh chiến lược của cả hai nước. Trong gần hai thập niên trở lại đây,

cùng với sự kết thúc chiến tranh lạnh và gia tăng của toàn cầu hóa, khu vực
hóa, khu vực Đông Nam Á lại trở nên sống động không chỉ bởi sự gia tăng
hợp tác và liên kết nội khối trong ASEAN và các thành viên mà còn với các
đối tác lớn trên thế giới.
Trung Quốc, sau chiến tranh lạnh, càng nhận thấy hơn tầm quan trọng
và ảnh hưởng của khu vực Đông Nam Á đối với đất nước mình. Trung Quốc
nhận thấy các nước Phương Tây, đặc biệt là Mỹ lợi dụng việc tăng cường
hợp tác quân sự với các nước ASEAN sau chiến tranh lạnh để kiểm soát khu
vực, triển khai chính sách ngăn chặn, bao vây và kiềm chế Trung Quốc.
Điều này sẽ đe dọa đến an ninh của Trung Quốc. Trong khi đó, đa số các
nước ASEAN là các nước vừa và nhỏ, về mặt an ninh - quốc phòng không
tạo nên mối đe dọa nào mà còn là vành đai, lá chắn bên ngoài bảo vệ an ninh
quốc gia của Trung Quốc. Hơn nữa, Đông Nam Á còn là khu vực có thể
giúp Trung Quốc tăng cường vai trò trong cộng đồng quốc tế, tăng tầm ảnh
hưởng hơn trong cạnh tranh với Nhật Bản trong khu vực.
Về phía Nhật Bản, ủng hộ ASEAN ngay từ khi tổ chức này thành lập
năm 1967, Nhật Bản luôn coi tổ chức này là đồng minh tin cậy trong việc mở
rộng ảnh hưởng ra bên ngoài và ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.
Sau chiến tranh lạnh, nhận thấy vai trò của ASEAN đang ngày càng tăng trên
trường quốc tế, để củng cố được địa vị chính trị của mình, Nhật Bản gia sức
tranh giành tầm ảnh hưởng tại khu vực này với Trung Quốc thông qua một
loạt các hình thức viện trợ. Ngoài ra, ASEAN có vai trò quan trọng đối nền
kinh tế Nhật Bản: một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, năng động về
kinh tế, tương đối ổn định về chính trị - xã hội, đang tích cực mở cửa và hội
nhập với bên ngoài.
Nói tóm lại, trong chiến lược khu vực của mình sau chiến tranh lạnh,
cả hai nước Trung Quốc và Nhật Bản đều mong muốn giành được sư ủng hộ
của ASEAN. Bởi nước nào giành được sự ủng hộ của ASEAN, nước đó sẽ có
vai trò và tiếng nói quan trọng trong khu vực, và tất nhiên sẽ có ảnh hưởng
tới các nước trong khu vực.

2. Triển khai chính sách của Trung Quốc và Nhật Bản tại Đông
Nam Á sau chiến tranh lạnh
2.1. Chính sách của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á
Trong chính sách đối ngoại của mình, Trung Quốc luôn mềm dẻo
trong việc thu hút sự ủng hộ quốc tế. “Ngoại giao láng giềng thân thiện” là
phương thức ngoại giao nằm trong chính sách của Trung Quốc đối với khu
vực Đông Nam Á. Trung Quốc có quan hệ chính thức với ASEAN với tư
cách là một tổ chức khu vực kể từ tháng 7 năm 1991 khi Trung Quốc được
mời tham dự cuộc họp Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 24. ASEAN
đối với Trung Quốc không chỉ là một khu vực láng giềng có ý nghĩa chiến
lược cao đối với an ninh quốc gia mà còn là một nhịp cầu lý tưởng để Trung
Quốc tham dự vào hoạt động chính trị quốc tế ở Đông Á. Đồng thời, Trung
Quốc tạo cho các nước ASEAN một lựa chọn khác để bớt phụ thuộc vào Mỹ
và Nhật Bản. Mối quan hệ này có cái bẫy của mối quan hệ "cùng thắng".
26


Michael Hsiao và Alan Yang, “Chính sách của Trung Quốc đối với Asean”,
truy cập ngày 12/5/2011.
Từ đó, Trung Quốc đẩy mạnh triển khai chính sách hợp tác với
ASEAN. Năm 1994, Trung Quốc tham gia diễn đàn khu vực ARF và trở
thành một bên đối thoại tích cực của ASEAN. Tháng 12-1997, trong cuộc
gặp thượng đỉnh của Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và các nguyên
thủ các nước ASEAN tại Malaysia hai bên đã tuyên bố chung về thiết lập
quan hệ láng giềng thân thiện và tin cậy lẫn nhau hướng tới thế kỷ 21. Điểm
mốc quan trọng nhất đánh dấu sự thay đổi tính chất của mối quan hệ này
thông qua văn bản là Trung Quốc và ASEAN ký tuyên bố chung “đối tác
chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng” vào tháng 10-2009.
27
Có thể thấy tuy

chưa hiểu hết thâm ý đối tác chiến lược của người Trung Quốc song với văn
bản này, Trung Quốc đã tự mình khẳng định họ có tầm quan trọng lớn hơn
trong tương quan so sánh với các thế lực khác trong quan hệ với ASEAN. Ít
ra thì nhận định này cũng có lý cho đến hiện nay vì ngoài Trung Quốc thì cả
Mỹ và Nhật Bản đều chưa ký một văn bản nào như vậy với ASEAN.
Có thể nói chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN thể hiện qua
việc ký hiệp định đối tác chiến lược với nhóm này là một bước tiến dài
nhằm thể hiện với đối tác về một Trung Quốc có thiện chí và thực thi chính
sách chính trị đối ngoại hòa bình với các nước láng giềng. Tuy nhiên cần
phải thấy rằng chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN được tiến hành
dựa trên ưu thế của một thế lực lớn và buộc các nước nhỏ hơn trong một
chừng mực nào đó phải chấp nhận.
28

II.2. Chính sách của Nhật Bản đối với các quốc gia Đông Nam Á
Sau chiến tranh lạnh, nỗ lực chủ yếu của chính sách đối ngoại Nhật
Bản là phát triển quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia Đông Nam Á. Nhằm

Ngô xuân Bình(2008), “Tìm hiểu chính sách của Trung Quốc đối với Asean”, Nghiên cứu Đông Bắc Á
(9),tr.6.

Điều này có thể thấy qua việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên Biển Đông sau khi họ ký
công ước quốc tế về luật biển năm 1982 cũng như việc sử dụng vũ lực để bảo vệ cái gọi là lợi ích trên vùng
biển họ tuyên bố chủ quyền (việc này đã diễn ra một số lần trong thập kỷ 1980, 1990 và những năm gần
đây) đã đặt các đối tác ASEAN vào thế đã rồi.
nâng cao vị thế của mình và tranh giành tầm ảnh hưởng với Trung Quốc trên
trường quốc tế cũng như vứt bỏ hình ảnh mình chỉ là “cái đuôi” trong các
chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực, Nhật Bản nhận thấy rằng ngoài cải
cách ra, nước Nhật cần phải gắn bó và đóng một vai trò hữu hiệu hơn nữa
với Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Cho tới nay, Nhật Bản là

quốc gia đầu tư chủ chốt vào các nước Đông Nam, nhưng điều đó vẫn không
đảm bảo nước Nhật có một vai trò chính trị quan trọng ở khu vực. Động thái
của Nhật Bản vẫn bị Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á nghi ngờ.
Nhật Bản phải cố gắng thuyết phục các nước láng giềng rằng mình có ý định
đóng một vai trò tích cực trong khu vực, có lợi cho tất cả.
Từ đó, chính sách của Nhật cũng độc lập hơn với Hoa Kỳ nhưng vẫn
giữ tính cạnh tranh với Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á. Năm 1997,
lập trường của Nhật Bản với Myanmar cũng khác lập trường của Hoa Kỳ.
Nước Nhật không ủng hộ chính sách của Mỹ định cô lập Myanmar, mà tán
thành chủ trương của ASEAN muốn đối thoại với nước này. Cũng phải nói
rằng, quyết định của Nhật Bản, ở một mức độ nào đó, bị tác động từ sự mở
rộng ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc trong khu vực. Tháng
3/1977, Trung Quốc thông báo cho Myanmar vay một khoản lớn, và ký với
nước này một hiệp ước hợp tác kinh tế. Nhật Bản gắn mối quan tâm của
Trung Quốc đến Myanmar với tham vọng của Bắc Kinh muốn vươn tới Ấn
Độ Dương.
29
Trong trường hợp Việt Nam, chính phủ Tokyo cũng đi đầu thiết lập
quan hệ với Hà Nội, mặc dầu Mỹ cấm vận Việt Nam về kinh tế. Tại
Campuchia, nước Nhật giữ một vai trò chủ chốt trong tiến trình hòa bình,
nêu bật sự cam kết của Tokyo muốn đóng góp vào hòa bình và ổn định của
khu vực.

Đỗ Trọng Quang (2007), “ Chính sách của Nhật Bản tại châu Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (8),
tr.16.
Sở dĩ Nhật Bản hăng hái trong chính sách với các nước khu vực Đông
Nam Á còn do nhiều nhân tố thúc đẩy. Theo dự báo thì đến năm 2025, hơn
một nửa dân số Nhật Bản sẽ quá tuổi 65, bộ phận lớn dân chúng già đi đó sẽ
gây sức ép cho nên kinh tế và cấu trúc xã hội của đất nước. Hiện nay, nước
Nhật đã thiếu tiền trả hưu bổng và chăm sóc y tế cho công dân nhiều tuổi.

Dân chúng đang già đi và tỉ lệ sinh đẻ thấp có nghĩa là nước Nhật cần ngày
càng nhiều nhân công nước ngoài, và đến một mức độ nào đó, tình trạng
thiếu nhân công là một trong những lý do khiến Nhật Bản mở rộng cơ sở
công nghiệp ở nước ngoài. Và các nước Đông Nam Á là một lựa chọn
không thể không kể đến.
Một lý do không kém quan trọng là Nhật Bản nhận thức được những
hạn chế của mình khi muốn có một vị thế cường quốc lớn ở Đông Nam Á
nói riêng và trên thế giới. Nước Nhật hầu như không có tài nguyên thiên
nhiên, cần nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm. Trong những
năm đầu 1990, Nhật Bản phải đối phó với những vấn đề kinh tế lớn, nhiều
cuộc cải cách hành chính, xã hội và chính trị được thi hành để phục hồi nền
kinh tế. Đây cũng là thời gian thế giới chứng kiến những thay đổi đáng kể
khi Liên Xô tan rã. Chiến tranh Lạnh kết thúc tác động sâu sắc đến chính
sách đối ngoại của Nhật Bản.
III. Cạnh tranh Trung – Nhật trong khu vực Đông Nam Á sau
chiến tranh lạnh
1. Cạnh tranh chính trị-quân sự Nhật – Trung tại khu vực
Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới thay đổi, Trung Quốc và Nhật
Bản ra sức tranh giành tầm ảnh hưởng của mình với khu vực Đông Nam Á
trên lĩnh vực chính trị và quân sự. Nhật Bản là một nước đã có quan hệ mật
thiết với hầu hết các nước ASEAN từ nửa thế kỷ trước còn quan hệ Trung
Quốc và ASEAN thì tương đối mới nhưng được triển khai rất nhanh từ thập
niên 1990.
30
Do đó, cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng giữa hai quốc gia
càng trở nên quyết liệt và sôi động hơn tại khu vực trong cả lĩnh vực chính
trị và quân sự.
Về chính trị, đối với cả Nhật Bản và Trung Quốc, đây được coi như
một cuộc chạy đua trong việc gia tăng ảnh hưởng, lôi kéo các nước đồng
minh tại khu vực. Tuy cùng đạt đến vị trí cường quốc chính trị và kinh tế,

nhưng sự nổi dậy của Nhật Bản và Trung Quốc lại diễn ra theo hai hướng
trái ngược nhau, được nhiều nhà phân tích coi như “Một chín một mười”:
Nhật Bản là một cường quốc kinh tế lội ngược dòng để khẳng định vị thế
chính trị. Ngược lại, Trung Quốc đi từ cường quốc chính trị đến cường quốc
kinh tế. Hẳn nhiên, Trung Quốc không hề muốn nhìn thấy một quốc gia từng
bị coi là “lùn về chính trị” sánh ngang hàng với mình trên lĩnh vực này. Do
đó, Nhật và Trung Quốc đã không ngừng thiết lập tầm ảnh hưởng của mình
đến cộng đồng các nước Đông Nam Á (ASEAN).
Để triển khai, Nhật Bản tích cực thúc đẩy các hiệp ước song phương
với các nước ASEAN. Nhật đứng ra tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh đặc biệt
Nhật-ASEAN vào tháng 12/2003 tại Tokyo. Đây là lần đầu tiên một hội
nghị ASEAN – Nhật Bản diễn ra không phải ở một nước ASEAN mà ở Nhật
Bản. Điều này cho thấy Nhật đang ngày càng quan tâm hơn và nhấn mạnh
hơn tầm quan trọng của Đông Nam Á đối với quốc gia này. Tiếp đến từ
2005 Nhật bắt đầu thương lượng với ASEAN để đi đến hiệp định liên kết
kinh tế toàn diện Nhật Bản – ASEAN (JACEP) mà thủ tướng Koizumi đã đề
xướng tại Xingapo từ tháng 1/2002. Nhật cam kết sẽ cung cấp khoảng 1,5 tỷ

Trong giai đoạn này,Trung Quốc tích cực, chủ động lập lại quan hệ bình thường với nhiều nước ASEAN.
Phần lớn việc lập lại quan hệ bình thường này được thực hiện năm 1990 trong chuyến công du của Thủ
tướng Lý Bằng sang Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan và Lào.
Xem thêm: Trần Hoàng Long(2007), “Quan hệ Nhật – Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, Nghiên
cứu Đông Bắc Á(7).tr.13
USD để phát triển khu vực sông Mê Công, đồng thời tăng cường hơn nữa
vốn FDI từ Nhật sang các nước này.
31
Một trong những chiến lược của Nhật đối với khu vực là ưu tiên chú
trọng cung cấp ODA để phát triển Hành lang Kinh tế Đông Tây (EWEC) và
Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia. Nhờ có nguồn tài trợ từ
Nhật, Tuyến EWEC đã thông xe vào cuối năm 2006. Từ 2005, Nhật Bản

cũng đã tổ chức nhiều đoàn khảo sát khu vực Tam giác phát triển và tài trợ
bước đầu 2 tỷ yên cho dự án phát triển Tam giác này. Đồng thời, năm 2006,
Nhật Bản đã đóng góp 64 triệu USD thành lập Quĩ hội nhập Nhật Bản –
ASEAN, trong đó dành phần ưu tiên cho Tam giác phát triển Việt Nam –
Lào – Campuchia.
32
Về phía Trung Quốc, nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hóa những nỗ lực
mới của Nhật Bản tại Đông Nam Á, nhất là đối với phát triển EWEC và
Tam giác Việt Nam – Lào – Campuchia, Trung Quốc vào năm 2006 ( năm
thông xe tuyến EWEC) đã đưa ra chiến lược “Một trục hai cánh” hay còn
gọi là “Chiến lược chữ M”, trong đó: 1) Xây dựng hành lang kinh tế trên
đất liền kéo dài từ Nam Ninh ( Quảng Tây) đi qua một số nước Đông Nam
Á đến Xingapo, đồng thời lấy đó làm trục; 2) Thúc đẩy Hợp tác Tiểu vùng
sông Mê Công mở rộng (GMS) và coi đây là một Cánh; 3) Xây dựng hành
lang kinh tế biển, gọi là vịnh Bắc Bộ mở rộng, đồng thời coi đây là một
Cánh. Dự án lớn này sẽ tạo ra sự liên kết theo chiều dọc, hay sự “ hợp tung”
giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á.
33
Để thực hiện dự án chiến

Xem thêm: Ngô Vĩnh Long(2007). “Đông Nam Á trong quan hệ Mỹ, Nhật, Trung Quốc và ảnh hưởng
của nó đối với Việ Nam” (8)

Trần Khánh (2009), “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung-Nhật (thập niên đầu thế kỷ XXI)”,
Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.18.

Sự “hợp tung” và “ liên hoành” của các hành lang, vành đai kinh ( như hành Bắc Nam, Hành lang Đông
Tây…) trong GMS đã và đang làm tăng nhanh các mối giao lưu, nhất là kinh tế giữa Trung Quốc và các
nước Đông Nam Á lục địa. Tại điểm giao nhau đó ngày càng xuất hiện nhiều Trung tâm thương mại mới
của Trung Quốc. Còn Trung Quốc, nhiều trung tâm đô thị, hải cảng lớn được xây dựng để kết nối với trục,

hành lang kinh tế trên. Thành phố Nam Ninh đã trở thành trung tâm hội chợ xuất nhập khẩu Trung Quốc-
ASEAN, được tổ chức hàng năm kể từ 2004. Cảng Phòng Thành của tỉnh Quảng Tây đã nâng cấp lên
lược này, vào tháng 1/2008, Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn Quy
hoạch phát triển khu vực hợp tác kinh tế Vĩnh Bắc Bộ (Quảng Tây), và coi
khu vực này là cực tăng trưởng thứ 4 của Trung Quốc, tiếp sau khu vực sông
Chu Giang, khu vực sông Trường Giang và Vịnh Bột Hải.
Chiến lược mới của Trung Quốc trong việc mở rộng ảnh hưởng tại
lưu vực sông Mê Công đã làm cho người Nhật cay cú. Không phải ngẫu
nhiên mà tờ Yomiuri Shinbun của Nhật Bản lại đưa ra nhận định rằng:
“Người gieo giống là Nhật Bản, nhưng quả của nó xem ra đã bị Trung Quốc
hái mất rồi”.
34
Lý do là: Nhật Bản là người đề xướng xây dựng Hợp tác
Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có hành lang kinh tế
Đông – Tây nối liền từ Việt Nam qua Lào, Thái Lan đến Mianma, còn
Trung Quốc thì ngược lại, tích cực xây dựng Hành lang Kinh tế Bắc - Nam
từ Côn Minh đi qua Lào đến Băng Cốc. Còn về phía Trung Quốc, Giáo sư
Mã Yến Bang- Viện Nghiên cứu Quan hệ quốc tế đương đại của Trung
Quốc cho rằng: “Hiện nay, GMS đã trở thành chiến trường mới của cuộc
đấu tranh chính trị, kinh tế giữa Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Nước nào
nắm được bán đảo Trung Nam (tức Đông Dương) thì sẽ có ảnh hưởng đến
cục diện địa-chính trị Đông Nam Á, thậm chí cả châu Á; Đây là tiêu điểm
mới của cục diện châu Á- Thái Bình Dương”. Còn giáo sư Lý Thần Dương-
Sở nghiên cứu Đông Nam Á, đại học Vân Nam chỉ ra rằng: “Việc xây dựng
các hành lang kinh tế thuộc GMS đã mang lại dấu ấn sâu sắc của mối quan
hệ giữa các nước lớn, biểu hiện chủ yếu là tranh chấp quyền chủ đạo trong
hợp tác vùng giữa Trung Quốc và Nhật Bản; Trung Quốc thiên về hành lang
theo chiều dọc, còn Nhật Bản lại chú ý đến hành lang theo chiều ngang”
35
thành cảng quốc tế, nơi sẽ thu hút các luồng thương mại từ “Một trục hai cánh”, Nhất là cánh biển, và là cái

“phiễu” mới đón nhận các sản phẩm từ vùng Tây Nam của Trung Quốc xuất khẩu ra nước ngoài.

Trần Khánh (2009), “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung-Nhật (thập niên đầu thế kỷ XXI)”,
Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.18.

Xem thêm: Hoài Nam (2008). “Trung Quốc với Hành lang Kinh tế Đông Tây“, Nghiên cứu Đông Nam Á
(11), tr.50-51.
Những nhận xét trên có thể là chưa đúng hoàn toàn, nhưng cũng chứng minh
một phần về sự gia tăng cạnh tranh giành ưu thế địa chính trị giữa Trung
Quốc và Nhật Bản ở Đông Nam Á, nhất là ở khu vực Đông Nam Á lục địa.
Về quân sự, tuy không quá gay gắt nhưng Nhật Bản và Trung Quốc
cũng có những cạnh tranh nhất định trên lĩnh vực này.
Nhật Bản vốn là một quốc gia không có thế mạnh về quân sự, nhưng
để hoàn thiện mình với khu vực Đông Nam Á và không muốn thua kém gì
Trung Quốc tại khu vực, những năm gần đây, Nhật Bản đang tăng cường
quan hệ đồng minh chiến lược Mỹ - Nhật – Úc, đồng thời nâng cấp Cục
phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng từ tháng 1/2007, gia tăng đầu tư trang bị
vũ khí mới, hiện đại, thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận chung với
các đồng minh, trong đó có các nước đồng minh ở Đông Nam Á như Thái
Lan và Philippin. Tháng 5/2005, lần đầu tiên trong lịch sử, Nhật Bản tham
gia vào cuộc tập trận chung với tên gọi là “Hổ mang” tổ chức hàng năm tại
Thái Lan với sự tham gia của Mỹ và các đồng minh của họ trong khu vực.
Hơn nữa Nhật Bản từ 2005 đã để cho cơ quan chỉ huy của Tập đoàn Bộ binh
số 1 từ Oasingtơn đến Kanagawa, đồng thời tăng cường hợp tác quân sự với
Mỹ , trong đó có việc xây dựng Hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo tại Nhật
Bản. Tuy nhiên, liên minh an ninh-quân sự Mỹ- Nhật lại càng làm cho hố
ngăn cách Nhật- Trung ngày càng lớn.
36
Về phía Trung Quốc, đáp lại sự củng cố liên minh Nhật-Mỹ, ngoài
việc tăng cường ảnh hưởng mềm, Trung Quốc cũng không ngừng gia tăng

hợp tác an ninh – quốc phòng với Đông Nam Á, trong đó có cả với những
đối tác truyền thống và đồng minh của Mỹ-Nhật như Thái Lan và Philippin.
Cùng với việc thông qua bản “Kế hoạch hành động chung về hợp tác chiến
lược Thái-Trung” nhân dịp kỷ niệm 30 năm quan hệ Trung- Thái, hai nước
này lần đầu tiên tiến hành cuộc tập trận chung với quy mô lớn tại vịnh Thái

Hà Phương (2007), “Triển vọng mới trong quan hệ Trung – Nhật”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt
Nam, ngày 3/3/2007.
Lan mang tên “Hữu nghị Trung- Thái 2005” (tháng 12/2005) và cuộc tập
trận thứ hai với tên gọi “Tấn công 2007” diễn ra tại Quảng Châu hồi tháng
7/2007.
37
Mặt khác, Trung Quốc tiếp tục cung cấp tín dụng quân sự cho Thái
Lan bất chấp việc Mỹ ngưng khoản viện trợ vì việc đảo chính vi hiến vào
tháng 9/200. Đây là một trong những hành động đáp trả đối với sự gia tăng
quan hệ đồng minh chiến lược Nhật- Mỹ.
Ngoài ra, từ lâu đã cảnh báo về sự gia tăng sức mạnh quân sự của
Trung Quốc, Nhật Bản phản đối mạnh mẽ việc EU bãi bỏ lệnh cấm vận vũ
khí đối với Trung Quốc. Đồng thời để tránh sự lôi kéo đồng minh của Trung
Quốc, Nhật Bản đã phần nào cổ suý cho thuyết về “mối đe dọa Trung
Quốc”. Phủ định điều này, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã phải thuyết phục
các nước Đông Nam Á bằng việc tuyên truyền về một Trung Quốc “trỗi dậy
hòa bình”.
38

Tóm lại, cạnh tranh về vị thế chính trị-quân sự nêu trên đã cho thấy
sự lo ngại lẫn nhau của hai quốc gia đầy tham vọng về việc xác định Trung
Quốc hay Nhật Bản, ai sẽ là nước nắm vai trò lớn hơn ở khu vực Đông Nam
Á, từ đó tiến hành các biện pháp ngăn chặn và kiềm chế tầm ảnh hưởng tại
khu vực này.

2. Vấn đề xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực
Vấn đề xây dựng cơ chế hợp tác khu vực “Cộng đồng Đông Á”
39
thể
hiện rất rõ việc lôi kéo đồng minh các nước khu vực Đông Nam Á trong
chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng của Nhật Bản và Trung Quốc bởi từ lâu, cả
hai quốc gia này đều muốn chiếm vai trò chủ đạo trong khu vực Đông Á.

Xem thêm: Trần Khánh(2008), “Can dự và cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ở Đông Nam Á trong thập
niên đầu thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á(12)

Trần Hoàng Long (2007), “Quan hệ Nhật – Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, Nghiên cứu
Đông Bắc Á (7).tr.14

Vấn đề Cộng đồng Đông Á lần đầu tiên được chính thức bàn đến là vào năm 2001 khi Nhóm bàn thảo về
tầm nhìn Đông Á (East Asian Vision Group) được thành lập gồm các thức giả trong vùng, theo sự gợi ý
của Tổng thống Hàn Quốc đương thời Kim Dae Jung.

×