Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Luận Văn Cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.59 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations
– ASEAN), một tổ chức quốc tế khu vực được ra đời theo Tuyên bố Bangkok về
thành lập ASEAN năm 1967 với mục đích chính thúc đẩy hòa bình và ổn định trong
khu vực. Từ một tổ chức còn ở mức độ liên kết lỏng lẻo, đến nay ASEAN đã trở
thành một tổ chức liên chính phủ, có tư cách pháp nhân và đang dần khẳng định vị
thế của mình trên trường quốc tế mà việc thành lập và xây dựng Cộng đồng
ASEAN cũng như việc cho ra đời bản Hiến chương đã minh chứng cho điều này.
Tuy nhiên, càng bước vào công cuộc hội nhập sâu và rộng trên tất cả các lĩnh
vực, thì mỗi nước ASEAN nói riêng và thế giới nói chung đều phải đứng trước
những thách thức to lớn, trong đó, vấn đề nổi bật hơn cả là giữ gìn nền hòa bình, an
ninh của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và của toàn nhân loại. Để làm được điều đó,
việc xây dựng nên những nguyên tắc chung và các cơ chế cho việc giải quyết tranh
chấp, bất đồng cũng như các tình thế nguy hiểm là điều hết sức quan trọng. Ý thức
được vấn đề này từ rất sớm, ASEAN trải qua các giai đoạn phát triển, đã xây dựng
và dần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị trong khu vực.
Dù vậy, do tính chất biến động phức tạp của các tranh chấp; các vấn đề xuất phát từ
bản chất hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của ASEAN; truyền thống văn
hóa, pháp luật của các nước trong khu vực, cũng như nhiều lý do khách quan và chủ
quan khác nhau mà cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị hiện tại của
ASEAN còn nhiều hạn chế, thiếu tính thực tiễn và hiệu quả. Đây sẽ là trở ngại
không nhỏ cho sự phát triển và vững mạnh của ASEAN, đặc biệt là trong thời kỳ
ASEAN đang tiến hành thực hiện nhiều kế hoạch, chương trình hành động như hiện
nay để có được bước chuyển vượt bậc.
Mặt khác, khi nghiên cứu một vấn đề nhất định nào đó, để nhận thức đúng và
hiểu được bản chất của vấn đề, cần phải phân tích tất cả các khía cạnh ưu và nhược
của nó; mối quan hệ của vấn đề cần nghiên cứu với nguồn gốc phát sinh vấn đề; đặt
nó trong mối tương quan với các vấn đề có liên quan khác. Vấn đề giải quyết tranh
chấp an ninh – chính trị của ASEAN cũng không phải là ngoại lệ. Cơ chế giải quyết
1


an ninh – chính trị của ASEAN hiện nay có thể nói sự hạn chế nhiều hơn tính hiệu
quả. Tuy vậy, muốn cho sự hợp tác toàn diện của ASEAN được phát triển, sự nỗ lực
không ngừng của mỗi thành viên ASEAN được thành công, ASEAN cần phải tìm
hiểu và giải quyết những vấn đề có tính chất ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
và những nỗ lực đó, mà cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của
ASEAN hiện nay chính là một trong các vấn đề mang tầm ảnh hưởng này. Hơn nữa,
Việt Nam cũng là một trong mười thành viên của ASEAN, nếu cơ chế giải quyết
tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN được hoàn thiện, sự hợp tác khu vực của
Việt Nam cũng sẽ đạt được nhiều bước tiến mới.
Từ việc nhận thức được tính cần thiết của vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài
“Cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN” nghiên cứu thực
hiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận
Qua quá trình nghiên cứu, khóa luận góp phần làm rõ hơn sự phát triển của
cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN và pháp luật của
ASEAN về giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị, tạo cơ sở khoa học để làm rõ
và bước đầu hoàn thiện pháp luật quốc gia về giải quyết tranh chấp an ninh – chính
trị trong ASEAN.
Về mặt thực tiễn, khóa luận giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về cơ chế
giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN. Việc hình thành và phát triển
cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN đã tạo ra một nền tảng
quan trọng trong việc đảm bảo hòa bình, ổn định khu vực.
3. Mục đích nghiên cứu khóa luận
Khóa luận nghiên cứu sự phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh
– chính trị của ASEAN xuất phát từ mô hình ngoại giao là chủ yếu sang một hệ
thống dựa trên các quy định của pháp luật với tham chiếu cụ thể là bối cảnh
ASEAN. Từ đó có cơ sở để đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính
trị của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong khu vực.
Khóa luận với mục đích là làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của
cơ chế giải quyết an ninh – chính trị trong khuôn khố ASEAN; những quy định về

2
cơ quan, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN. Từ
đó, người viết đưa ra những đánh giá về ưu điểm, hạn chế của các cơ chế này và
kiến nghị, những phương hướng để hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Xuất phát từ yêu cầu của đề tài là nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp
an ninh – chính trị của ASEAN nên đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài khóa
luận đi sâu vào nghiên cứu ở các nội dung cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp
an ninh – chính trị như: Nguyên tắc giải quyết tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh
chấp, các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp,
cũng như các biện pháp bảo đảm thi hành các quyết đinh của cơ quan giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực an ninh – chính trị của ASEAN.
5. Phương pháp nghiên cứu khóa luận
Để hoàn thành mục đích và những nhiệm vụ đặt ra, người viết sử dụng
phương pháp nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, người viết còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp liệt
kê, phương pháp tổng hợp… Đặc biệt, các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của
khoa học pháp lý như: phương pháp phân tích, phương pháp quy nạp và diễn dịch,
… được sử dụng chủ yếu trong khóa luận.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của
ASEAN
Chương 2: Cơ quan và trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp an ninh – chính
trị của ASEAN
Chương 3: Những đánh giá và kiến nghị về cơ chế giải quyết tranh chấp an
ninh – chính trị của ASEAN
Do giới hạn về kiến thức, thời gian và kinh nghiệm, bài khóa luân chắc chắn

không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy,
cô giáo đề bài khóa luận được hoàn thiện hơn.
3
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP AN NINH – CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP AN NINH – CHÍNH TRỊ TRONG KHUÔN KHỔ
ASEAN
Giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức khu vực là một trong những
phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp được ghi nhận trong Hiến chương Liên
Hợp Quốc. Thực tiễn quốc tế cho thấy, các tổ chức quốc tế khu vực, trong điều lệ
hoạt động của mình đều ghi nhận việc sử dụng các biện pháp hòa bình để giải quyết
tranh chấp. Và cùng quá trình hợp tác, phát triển, các tổ chức này đã hình thành nên
các cơ chế giải quyết tranh chấp riêng, phù hợp với đặc điểm chung về điều kiện
lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của các quốc gia trong khu vực cũng như
mức độ hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức khu vực đó. ASEAN là một tổ
chức quốc tế khu vực, được hoạt động dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đồng
thuận, bình đẳng và cùng có lợi. Trong thập kỷ đầu mới thành lập, hoạt động của
ASEAN chủ yếu tập trung vào các vấn đề văn hóa, chính trị và tăng cường mối
quan hệ hiểu biết lẫn nhau để củng cố, hợp tác phát triểu mối quan hệ đoàn kết
trong khu vực Đông Nam Á. Các quốc gia thành viên cố tránh va chạm, căng thẳng,
các tranh chấp, xung đột chủ yếu được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải
hoặc theo cơ chế chung của hệ thống pháp luật quốc tế. Thời kỳ này, ASEAN chưa
có một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng trong khu vực.
Ngày 8 tháng 8 năm 1967, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao với sự có mặt
của đại diện 5 nước Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore
và Thái Lan, một tuyên bố hết sức ngắn gọn (chưa đầy 3 trang với 7 mục tiêu) đã ra
đời. Hiệp hội ASEAN đã hình thành trên cơ sở của Tuyên bố Bangkok với mục tiêu
gói gọn trong 2 điểm cơ bản: Phấn đấu để ASEAN trở thành tổ chức quy tụ tất cả

các nước Đông Nam Á; Phấn đấu để Đông Nam Á trở thành một khu vực Hòa bình
– Tự do – Thịnh vượng.
1
Tuyên bố Bangkok năm 1967 ghi nhận khẳng định bước
1
Xem thêm: />dong/122/4675117.epi
4
đầu của các nước ASEAN cùng nhau thúc đẩy hòa bình, ổn định khu vực thông qua
việc tôn trọng công lý, các nguyên tắc pháp luật trong quan hệ giữa các quốc gia và
Hiến chương của Liên Hợp Quốc. Tại Tuyên bố Bangkok, những thành viên sáng
lập nên ASEAN đã nhận thức rất rõ ràng, đối với vận mệnh chung của các dân tộc
Đông Nam Á, đặt trong một thế giới ngày càng tùy thuộc lẫn nhau thì cách tốt nhất
để thực hiện lý tưởng tha thiết về hòa bình, tự do, công bằng xã hội và phát triển
phúc lợi kinh tế là tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tăng cường quan hệ láng giềng tốt,
trong đó, hợp tác tích cực và toàn diện là điều không thể thiếu.
2
Tuy nhiên, Tuyên
bố này chủ yếu nhấn mạnh vào sự hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
giữa các quốc gia thành viên ASEAN mà chưa thực sự đề ra một cơ chế giải quyết
tranh chấp rõ rệt cho các tranh chấp giữa các nước này. Do vậy, các tranh chấp xảy
ra được giải quyết chủ yếu dựa trên cơ sở hợp tác, thiện chí của các nước trong khối
đồng thời áp dụng cơ chế chung của hệ thống pháp luật quốc tế mà trước hết là theo
nguyên tắc và quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc về hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế.
Trong vấn đề giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên nói chung cũng
như giữa các nước thành viên trong khu vực với các nước ngoài khối, ASEAN luôn
khẳng định nguyên tắc “tôn trọng công lý và nguyên tắc luật pháp trong quan hệ
giữa các nước trong vùng và tuân tủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp
Quốc”
3

để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, thúc đẩy hòa bình và ổn định khu
vực. Đồng thời dựa trên những đặc điểm tương đồng về truyền thống lịch sử, văn
hóa giữa các nước trong khu vực, trong quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế,
ASEAN còn coi việc thực thi nguyên tắc tôn trọng hòa bình, truyền thống văn hóa
và pháp luật của các nước thành viên làm nguyên tắc chỉ đạo chung.
Để cụ thể hóa nguyên tắc về giải quyết tranh chấp và đảm bảo hòa bình, an
ninh khu vực Đông Nam Á, tháng 2 năm 1976, tại Hội nghị thượng đỉnh các nước
ASEAN lần thứ nhất diễn ra ở Bali (Indonesia), các nhà lãnh đạo cao cấp của năm
nước thành viên sáng lập ASEAN đã thỏa thuận và thông qua Hiệp ước Thân thiện
và Hợp tác ở Đông Nam Á (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia,
2
Xem: Lê Mai Anh (2008), “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong Hiến chương Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (Hiến chương ASEAN)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 3, tr. 71.
3
Xem: Tuyên bố Bangkok về thành lập ASEAN.
5
còn gọi là Hiệp ước Bali – TAC). Hiệp ước này đã đánh dấu cơ sở pháp lý đầu tiên
cho quan hệ hợp tác bền vững của các nước ASEAN, đồng thời tạo nguyên tắc ứng
xử chung cho tất cả các quốc gia thành viên trong khối, trong đó có nguyên tắc ứng
xử hòa bình trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế. Từ tinh thần hòa bình giải
quyết tranh chấp quốc tế của ASEAN được ghi nhận trong Tuyên bố Bangkok năm
1967, Hiệp ước Bali đã dành chương IV để quy định cụ thể về vấn đề này. Các quy
định của Hiệp ước tiếp tục khẳng định “quyết tâm và thiện chí ngăn không để xảy ra
các vụ tranh chấp. Trong trường hợp xảy ra các vụ tranh chấp và nảy sinh các vấn
đề tác động trực tiếp đến họ, các bên tham gia Hiệp ước sẽ kiềm chế không đe dọa
sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực và sẽ luôn luôn giải quyết các tranh chấp như
vậy với nhau thông qua thương lượng hữu nghị”.
4
Một tiến trình khu vực đã được
xác định trước trong trường hợp các bên tranh chấp không giải quyết tranh chấp

bằng con đường thương lượng, đó là các bên sẽ thỏa thuận thành lập Hội đồng Cấp
cao (các thành viên thuộc cấp Bộ trưởng - High Council) để xem xét giải quyết. Hội
đồng sẽ xem xét vụ tranh chấp, ra khuyến nghị về các biện pháp giải quyết tranh
chấp cũng như các biện pháp cần thiết để ngăn chặn xung đột do tranh chấp gây ra.
Tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 34 diễn ra tại Hà Nội
ngày 23 tháng 1 năm 2001, Quy tắc tố tụng của Hội đồng Cấp cao (Rules of
procedure of the High Council of Treaty of Amity and Cooporation in Southeast
Asia) đã được thành viên Hiệp ước Bali thông qua, tạo cơ sở cho quy trình giải
quyết tranh chấp. Việc thông qua Quy tắc tố tụng của Hội đồng Cấp cao được đánh
giá là bước khởi đầu quan trọng, góp phần tăng cường sức mạnh và hiệu quả cho cơ
chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị. Tuy nhiên, với nội dung bao gồm 25
nguyên tắc, quy định nhiều vấn đề về cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cấp cao, trình tự
xem xét các cuộc tranh chấp trong khu vực… bản Quy tắc vẫn không tạo ra những
bước đột phá so với các quy định của Hiệp ước Bali.
Hiệp ước Bali cũng đã được bổ sung năm 1987 bằng Nghị định thư Manila
(ngày 15 tháng 12 năm 1987), theo đó phạm vi các chủ thể áp dụng Hiệp ước được
mở rộng đối với các nước ngoài khối nếu có liên hệ trực tiếp đến vụ tranh chấp
đang được giải quyết.
5

4
Xem: Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á năm 1976 (Hiệp ước Bali), Điều 13.
5
Xem: Nghị định thư Manila năm 1987 về bổ sung Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, Điều 2.
6
Để tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực an ninh – chính
trị, năm 2003, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 9 (họp tại Bali, Indonesia) đã ra
Tuyên bố hòa hợp ASEAN (2003 Declaration of ASEAN Concord II, còn gọi là
Tuyên bố Bali II – BAC II), trong đó ghi nhận việc thành lập và xây dựng Cộng
đồng an ninh (ASC) (sau này gọi là Cộng đồng chính trị - an ninh, APSC) là một

trong ba trụ cột chính của Cộng đồng ASEAN. Với các chương trình hành động cụ
thể, trong đó có các kế hoạch xây dựng Cộng đồng trên năm lĩnh vực chính, bao
gồm tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN.
Qua hơn 40 năm tồn tại và phát triển, quan hệ hợp tác giữa các nước thành
viên ASEAN ngày càng được mở rộng và tăng cường trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Nhằm hướng tới việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững
mạnh trên ba trụ cột: Cộng đồng chính trị an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng
văn hóa xã hội, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 tại Singapore đã thông
qua một văn kiện hết sức quan trọng: Hiến chương ASEAN (Charter of the
Association of Southeast Asean Nations) ngày 20 tháng 11 năm 2007, hơn một năm
sau đó, Hiến chương có hiệu lực (ngày 15 tháng 12 năm 2008).
6
Sự ra đời của Hiến
chương ASEAN phản ánh sự trưởng thành của Hiệp hội, thể hiện tầm nhìn và quyết
tâm mạnh mẽ của các nước thành viên nhằm mục tiêu xây dựng một ASEAN hòa
bình, ổn định và phát triển với vị thể mới hơn, liên kết chặt chẽ hơn và ràng buộc
pháp lý hơn. Đồng thời, Hiến chương ASEAN cũng dành một chương quy định về
việc giải quyết tranh chấp, hệ thống hóa những thỏa thuận trước kia của ASEAN và
tạo cơ sở pháp lý việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế giải quyết tranh chấp
trong mọi lĩnh vực của ASEAN.
7
Hiến chương ASEAN được đánh giá là một sản phẩm mang đậm nét truyền
thống văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á, là tiếng nói chung phản ánh mức độ
“thống nhất trong đa dạng” về một Cộng đồng ASEAN ngày càng gắn kết và ràng
buộc hơn về pháp lý để giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định khu vực, hỗ trợ
đắc lực cho các nước thành viên phát triển kinh tế - xã hội cũng như hội nhập khu
6
Xem thêm: Woon, Walter. “The ASEAN Charter Dispute Settlement Mechanisms.” The Making of the
ASEAN Charter. Ed Tommy Koh, Rosario Manalo and Walter Woon. Singapore: World Scientific, 2008.
7

Xem thêm: />7
vực và quốc tế.
8
Về cơ bản, nội dung của Hiến chương không phải là những vấn đề
hoàn toàn mới mà đó là sự đúc kết và hệ thống hóa trong một văn kiện pháp lý
những mục tiêu, nguyên tắc và thỏa thuận đã có của ASEAN, có sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình mới. Thông qua Hiến chương, ASEAN và các quốc gia
thành viên nêu rõ cam kết và việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong
các tuyên bố và văn kiện của ASEAN. Đó là các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, ra quyết định bằng tham vấn
và đồng thuận…
Với cách tiếp cận đó, trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, nhiều quy định về
các cơ chế giải quyết tranh chấp quy định trong Hiến chương ASEAN cũng được
tổng hợp và hệ thống hóa từ các văn kiện khác của ASEAN. Ví dụ, nguyên tắc giải
quyết tranh chấp kịp thời bằng biện pháp hòa bình, kiềm chế không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực khi có tranh chấp, tôn trọng sự thỏa thuận… đã được
ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hiệp ước Bali năm 1976.
9
Điều 22 Hiến chương ASEAN khẳng định ASEAN duy trì và thiết lập các cơ
chế giải quyết tranh chấp trong tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN. Khi nói về
“các lĩnh vực hợp tác của ASEAN”, người ta có thể nghĩ đến các lĩnh vực hợp tác
về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng… Đó cũng là lý do để các
nhà lãnh đạo các quốc gia thành viên ASEAN cùng nhau xây dựng ASEAN với ba
trụ cột chính (bao gồm Cộng đồng an ninh – chính trị ASEAN; Cộng đồng kinh tế
ASEAN và Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN); tương ứng với đó là các Hội đồng
(Hội đồng Cộng đồng an ninh – chính trị ASEAN; Hội đồng Cộng đồng kinh tế
ASEAN và Hội đồng Cộng đồng văn hóa ASEAN).
10
Trong lĩnh vực hợp tác ngoại
khối, ASEAN cũng khẳng định ASEAN phát triển các mối quan hệ hợp tác thân

thiện, đối thoại cùng có lợi với các quốc gia, khu vực, các tổ chức quốc tế và các thể
chế quốc tế. Song, các cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN lại không chia theo
các lĩnh vực hợp tác đó. Vì vậy, khi muốn giải quyết một tranh chấp nào đó người
8
Xem thêm: Tommy Koh (Ambassador At-Large, Sing), Rosario G Manalo (European Students programe,
Ateneo de manila university, the Philippines), Walter woon (Attorney – General, Sing), “The making of the
Asean Charter”.
9
Xem thêm: Woon, Walter. “The ASEAN Charter Dispute Settlement Mechanisms.” The Making of the ASEAN
Charter. Ed Tommy Koh, Rosario Manalo and Walter Woon. Singapore: World Scientific, 2008.
10
Xem thêm: Declaration of Asean Concord II, Annex, Asean Security Community.
8
ta phải tìm theo các văn kiện của ASEAN để xem lĩnh vực đang tranh chấp có được
quy định trong các văn kiện cụ thể nào của ASEAN không, thuộc quy định nào của
Hiến chương ASEAN, từ đó mới xem xét các quy định về các cơ chế giải quyết
tranh chấp phù hợp. Đây cũng là một nét đặc thù trong các cơ chế giải quyết tranh
chấp của ASEAN theo Hiến chương ASEAN, với phương châm duy trì các cơ chế
giải quyết tranh chấp đã có và thiết lập thêm các cơ chế giải quyết tranh chấp cho
phù hợp với yêu cầu mới.
Khi đề cập đến một cơ chế giải quyết tranh chấp người ta thường nghĩ đến
tổng thể thống nhất các cơ quan giải quyết tranh chấp, cách thức, trình tự, thủ tục
giải quyết tranh chấp và việc thi hành phán quyết giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên,
Hiến chương ASEAN lại có một cách tiếp cận khá khác. Mặc dù Hiến chương có
một chương quy định về các cơ chế giải quyết tranh chấp trong các văn kiện của
ASEAN, nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở việc đề ra những nguyên tắc chung
trong giải quyết tranh chấp và phân ra những loại tranh chấp nào thì áp dụng các
loại cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại các văn bản nào để giải quyết.
Toàn bộ các vấn đề về cách thức, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp… được quy
định trong các văn bản cụ thể về giải quyết tranh chấp hoặc trong các văn kiện cụ

thể khác của ASEAN.
Do đó, tư tưởng chỉ đạo của Hiệp ước Bali về việc giải quyết tranh chấp là
tích cực sử dụng phương pháp ngoại giao phòng ngừa, kết hợp với vận dụng các
biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp hiện vẫn được ưa chuộng trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên những quy định của Hiệp ước Bali về giải
quyết tranh chấp mới chỉ dừng lại ở mức độ thừa nhận những biện pháp mang tính
tự nguyện mà các bên tranh chấp (không kể là thành viên ASEAN hay bên ngoài
Hiệp hội) có thể sử dụng để ngăn ngừa hoặc hòa giải bất đồng, tranh chấp nảy sinh.
Các quy định như vậy chưa tạo được cơ chế giải quyết tranh chấp riêng của một tổ
chức quốc tế khu vực so với những biện pháp đã được thể chế hóa trong Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Đây là điểm hạn chế đáng kể trong một số văn kiện pháp
lý của ASEAN, vì thế đã phần nào làm mờ nhạt tính thể chế pháp lý của Hiệp hội
khi hội nhập vào quan hệ quốc tế thời đại toàn cầu hóa. Hiến chương ASEAN đã
khắc phục một cách cơ bản hạn chế trên bằng việc dành hẳn chương VIII để quy
9
định về cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN, theo đó các nước thành viên đã
nhất trí, ASEAN sẽ duy trì và thiết lập các cơ chế giải quyết tranh chấp trong tất cả
các lĩnh vực. Hiến chương ASEAN một mặt khẳng định giá trị pháp lý và thực tiễn
của các biện pháp truyền thống về giải quyết tranh chấp theo Hiến chương Liên
Hợp Quốc (khoản 1 Điều 33) đối với giải quyết tranh chấp phát sinh từ thực tế áp
dụng và giải thích Hiến chương, mặt khác xác định việc duy trì và phát triển các cơ
chế thích hợp đối với từng lĩnh vực hợp tác về kinh tế, thương mại, an ninh, chính
trị, văn hóa, xã hội…
11
Như vậy, Hiến chương đã trở thành văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, làm
cơ sở cho sự phát triển vững mạnh của ASEAN. Hiến chương đã tiếp tục ghi nhận
mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của ASEAN tiếp nối từ các văn kiện trước, đồng
thời ghi nhận những vấn đề cơ bản về ASEAN trong đó có vấn đề về cơ chế giải
quyết tranh chấp của ASEAN, được quy định tại chương IV của Hiến chương. Theo
Hiến chương quy định, khi tranh chấp xảy ra, các bên sẽ nỗ lực giải quyết tranh

chấp một các hòa bình, kịp thời thông qua các biện pháp như thương lượng, đối
thoại, tham vấn. Từ khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực đến nay, các cuộc hội
nghị trong khuôn khổ ASEAN đều chú trọng tới việc cụ thể hóa Hiến chương và
đưa Hiến chương vào cuộc sống, trong đó có vấn đề về cơ chế giải quyết tranh
chấp. Hơn nữa, trong tư duy của các nhà lãnh đạo ASEAN thì Hiến chương
ASEAN không chỉ có giá trị cho hiện tại mà còn nhằm để thế hệ mai sau tiếp tục
được hưởng thành quả phát triển mà Hiến chương đem lại do vậy, giá trị pháp lý,
chính trị đích thực của văn kiện quốc tế này đã được khẳng định ở ngay những điều
khoản cơ bản ghi nhận tại Hiến chương.
12
1.2. NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP AN
NINH – CHÍNH TRỊ CỦA ASEAN
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN
11
Xem: Lê Mai Anh (2008), “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong Hiến chương Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (Hiến chương ASEAN)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 3, tr. 73 – 74.
12
Xem: Lê Mai Anh (2008), “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong Hiến chương Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (Hiến chương ASEAN)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 3, tr. 71.
10
ASEAN là một tổ chức quốc tế khu vực bao gồm 10 nước thành viên, được
“Gắn kết với nhau bới một khát vọng chung và ý chí tập thể được sống trong một
khu vực hòa bình, an ninh và ổn định lâu dài, kinh tế tăng trưởng bền vững, tiến bộ
xã hội và thịnh vượng chung, nhằm thúc đẩy các lợi ích, nguyện vọng và lý tưởng
quan trọng”.
13
Với tinh thần hợp tác hòa bình để cùng phát triển, các tranh chấp an
ninh – chính trị xảy ra trong khuôn khổ ASEAN sẽ đều được giải quyết trên cơ sở
các biện pháp hòa bình. Điều này được cụ thể hóa trong hầu hết các văn kiện pháp
lý ký kết trong khuôn khổ ASEAN, và đã trở thành nguyên tắc chung được ghi nhận

trong văn bản pháp lý quan trọng nhất hiện nay của ASEAN, Hiến chương ASEAN.
Với thực trạng tranh chấp về biên giới, lãnh thổ giữa các quốc gia thành viên
hiện nay, việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp sẽ có ý nghĩa quan
trọng cho việc thực hiện mục tiêu nói trên. Trong Tuyên bố Bangkok năm 1967, các
nước ASEAN bước đầu khẳng định sẽ cùng nhau thúc đẩy hòa bình và ổn định khu
vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc pháp luật trong quan hệ giữa các
quốc gia và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên,
Tuyên bố chủ yếu nhấn mạnh vào sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và
văn hóa giữa các quốc gia thành viên mà chưa thực sự đề cập việc giải quyết tranh
chấp về biên giới, lãnh thổ.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất tổ chức tại Bali, Indonesia năm
1976, các quốc gia thành viên kí kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam
Á, Hiệp ước đề ra sáu nguyên tắc chỉ đạo quan hệ các quốc gia thành viên, trong đó
nêu rõ các tranh chấp giữa những nước này cần được giải quyết bằng biện pháp hòa
bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở hợp tác hiệu quả
giữa các bên. Cùng với những nguyên tắc trên, Hiệp ước đã đề ra các nguyên tắc và
biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc
thỏa thuận, kiềm chế không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
14
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp đã trở thành nguyên tắc chung
được ghi nhận trong văn bản pháp lý quan trọng nhất hiện nay của ASEAN, đó là
Hiến chương ASEAN. Với tất cả những mục tiêu, tôn chỉ đưa ra, Hiến chương
13
Xem: Lời mở đầu Hiến chương ASEAN.
14
Xem: Ths. Bạch Quốc An (2007), “Vai trò của ASEAN trong việc trong việc giải quyết các tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ”, Tạp chí Luật học, 9, tr. 4 – 5.
11
ASEAN khẳng định nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp, cụ thể “Các quốc
gia thành viên sẽ nỗ lực giải quyết một các hòa bình và kịp thời các tranh chấp

thông qua đối thoại, tham vấn và thương lượng”.
15
Khi có tranh chấp xảy ra, các bên
tranh chấp có quyền lựa chọn các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua con
đường ngoại giao hay tài phán hoặc các bên cũng có quyền viện dẫn những hình
thức giải quyết hòa bình các tranh chấp được quy định tại Điều 33 Hiến chương
Liên Hợp Quốc hoặc các văn bản luật quốc tế khác mà bên tranh chấp là các quốc
gia thành viên đã tham gia.
16
Bên cạnh đó, các nước ASEAN có nhiều nét tương đồng về truyền thống lịch
sử và văn hóa, nền nông nghiệp lúa nước cũng như tinh thần quật cường đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ từ đó đã dẫn đến một
trong những đặc trưng chung của văn hóa pháp luật, đó là việc ưu tiên coi trọng giữ
gìn mối quan hệ hài hòa trong gia đình, tập thể, xã hội và rộng hơn là giữa các quốc
gia với nhau, hết sức tránh xung đột, mâu thuẫn, tránh và hạn chế việc kiện tụng
trước tòa án. Nếu xảy ra xung đột, việc giải quyết chúng một cách hài hòa, thân
thiện bằng biện pháp mềm dẻo, không chính thức, có tính truyền thống như thông
qua con đường ngoại giao, thương lượng, đàm phán, trung gian, hòa giải hay thông
qua bên thứ ba được ưu tiên lựa chọn để giải quyết những xung đột, tranh chấp.
ASEAN tuân thủ những nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, tôn
trọng 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình nhưng trong nguyên tắc ứng xử có sự mềm
dẻo, uyển chuyển, nguyên tắc đồng thuận / nhất trí (Consensus) vẫn được vận dụng
trong suốt hơn 40 năm qua. Nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của nhau vẫn
được tôn trọng.
17
Vì vậy, ngoài nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp, các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp truyền thống của ASEAN đó là giữa các quốc gia
thành viên không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở hợp tác hiệu
quả giữa các bên, tôn trọng nguyên tắc thoả thuận, kiềm chế không sử dụng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực khi có tranh chấp.

1.2.2. Biện pháp giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN
15
Xem: Hiến chương ASEAN, Điều 22 khoản 1.
16
Xem: Hiến chương ASEAN, Điều 25, 28.
17
Xem: PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch (2007), “ASEAN tuổi 40 những thành tựu nổi bật”, ASEAN – 40 năm
nhìn lại và hướng tới, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 3.
12
Về biện pháp giải quyết tranh chấp, nhìn chung các văn kiện của ASEAN đều
ghi nhận và khuyến khích các bên quyết tâm và có thiện ý ngăn ngừa không để nảy
sinh ra các tranh chấp. Cụ thể:
Trong Hiệp ước Bali năm 1976 (TAC), khi có tranh chấp phát sinh, TAC
khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng trước khi lựa
chọn biện pháp khác.
Các bên tranh chấp có thể lựa chọn các biện pháp giải quyết tranh chấp như:
- Đàm phán;
- Lựa chọn một trong các biện pháp nêu tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp
quốc;
- Giải quyết thông qua tiến trình khu vực bằng việc thành lập Hội đồng Cấp
cao để giải quyết.
Trong Hiến chương ASEAN, các biện pháp giải quyết tranh chấp khá đa dạng.
Các bên tranh chấp có thể sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhau
như:
- Đề nghị bên thứ ba;
- Hoà giải
- Trung gian hoặc
- Trọng tài.
Việc lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp nào đó tuỳ thuộc vào ý

chí của các bên tranh chấp. Các Bên tranh chấp cũng có thể yêu cầu Chủ tịch
ASEAN hoặc Tổng thư ký ASEAN làm bên thứ ba, hoà giải hoặc trung gian. Các
bên có thể lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp nào đó vào bất kỳ thời điểm nào
trong quá trình tranh chấp.
Ngoài ra, các bên có thể viện dẫn các hình thức giải quyết tranh chấp được
quy định tại Điều 33 của Hiến chương Liên Hợp Quốc hoặc các văn bản luật quốc
tế khác mà các quốc gia thành viên ASEAN là bên tranh chấp tham gia miễn là các
phương thức giải quyết tranh chấp này đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của ASEAN là
giải quyết bằng hình thức “hoà bình”.
13
Điều 33 của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định các biện pháp giải quyết
tranh chấp mà các bên có thể lựa chọn, bao gồm:
- Đàm phán trực tiếp;
- Các biện pháp giải quyết mang tính thương lượng thông qua bên thứ ba như
môi giới, điều tra, trung gian, hoà giải;
- Các biện pháp giải quyết mang tính tài phán như giải quyết bằng trọng tài
hoặc toà án quốc tế.
1.3. PHẠM VI CÁC TRANH CHẤP AN NINH – CHÍNH TRỊ ĐƯỢC GIẢI
QUYẾT TRONG KHUÔN KHỔ ASEAN
Để xây dựng một ASEAN hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng, việc
giải quyết tranh chấp phát sinh luôn là vấn đề hết sức quan trọng. Tranh chấp về an
ninh – chính trị có thể là tranh chấp về vấn đề an ninh, chính trị truyền thống – an
ninh quân sự (như tranh chấp về biên giới, lãnh thổ; chủ nghĩa khủng bố, tội phạm
xuyên quốc gia; xung đột sắc tộc – tôn giáo; chủ nghĩa li khai,…) hoặc vấn đề an
ninh phi truyền thống – an ninh kinh tế (ví dụ như khủng hoảng tài chính tiền tệ,…).
Theo Hiệp ước Bali, các tranh chấp về an ninh – chính trị bao gồm “các tranh chấp
hoặc tình hình có thể phá rối hòa bình và hòa hợp trong khu vực”.
18
Ngay sau khi ASEAN được thành lập, có rất nhiều vấn đề cần được quan
tâm giải quyết để ổn định tình hình chung của khu vực, trong đó, an ninh – chính trị

được chú trọng hơn cả nhằm đảm bảo một nền tảng vững chắc cho sự hợp tác toàn
diện sau này của ASEAN. Hiệp ước Bali năm 1976 được kí kết là một nhu cầu tất
yếu cho việc giải quyết tranh chấp về an ninh – chính trị, đặc biệt là các tranh chấp
về biên giới, lãnh thổ. Thực tế cho thấy, trong thời kì đầu thành lập ASEAN, cũng
như tại thời điểm Hiệp ước Bali chưa ra đời, các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ
(tiêu biểu là các tranh chấp về phân định đường biên giới đất liền, phân định chỉ
quyền quốc gia đối với vùng, lãnh thổ nhất định) của các nước ASEAN xảy ra
nhiều, các tranh chấp này thường rất phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến
hòa bình, an ninh khu vực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia ASEAN đều chưa hoàn
thành việc giải quyết tranh chấp này, ví dụ như tranh chấp giữa Thái Lan và Lào về
18
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 14.
14
biên giới trên bộ dọc sông Mê Kông, giữa Thái Lan và Myanma trong việc phân
định lãnh hải trong vùng biển Andaman và chủ quyền với một số đảo, đảo đá; tranh
chấp giữa Malaysia với Philippines về vùng biền Xulu và vấn đề Xaba, với
Singapore về hoạch định biên giới trong eo biển Johor …
19
Đặc biệt, có những cuộc
tranh chấp lãnh thổ kéo dài giữa nhiều quốc gia trong ASEAN, các tranh chấp này
bị chi phối rất nhiều bởi các yếu tố kinh tế, luật pháp, ngoại giao chiến lược và các
lợi ích địa – chính trị khác nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, sự tồn tại và
phát triển của ASEAN mà đến nay vẫn chưa được giải quyết như: tranh chấp Quần
đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago) giữa Việt Nam và Trung Quốc (bao gồm cả
Đài Loan), Quần đảo Trường Sa (Spratly Archipelago) cũng là đối tượng tranh chấp
của Brunei, Trung quốc (bao gồm cả Đài Loan), Malaysia, Philippines và Việt
Nam.
20
Hiệp ước Bali nhằm mục đích thúc đẩy nền hòa bình vĩnh viễn, sự thân thiện
và hợp tác lâu bền giữa nhân dân các nước tham gia Hiệp ước, góp phần vào sức

mạnh, tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ trên của nhân dân các nước khu vực Đông
Nam Á. Chính vì vậy, các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ thân thuộc và hợp tác
Đông Nam Á đã được ghi nhận, trong đó có nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa
sử dụng vũ lực và có quan hệ biện chứng với nó là nguyên tắc giải quyết những bất
đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Các tranh chấp và bất đồng thuộc
phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước Bali đã được ghi nhận rõ ở Điều 14 “các tranh
chấp mà sự tồn tại của nó có thể phá rối hòa bình và hòa hợp trong khu vực”. Còn
tại Điều 14 sau khi sửa đổi bằng Nghị định thư năm 1987 thì quy định “các tranh
chấp hoặc tình hình chắc chắn phá hoại hòa bình và hữu nghị khu vực”. Như vậy,
tiêu chí để xác định tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của Hiệp ước Bali phải là
tranh chấp hoặc tình hình mà sự tồn tại của chúng có khả năng phá hoại hòa bình và
an ninh khu vực. Tuy nhiên, điều kiện trên chỉ là điều kiện cần, muốn được giải
quyết theo các điều khoản của Hiệp ước phải có điều kiện đủ là sự chấp thuận sử
dụng điều khoản của Hiệp ước của tất cả các bên tranh chấp.
21
19
Xem: Ths. Bạch Quốc An (2007), “Vai trò của ASEAN trong việc trong việc giải quyết các tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ”, Tạp chí Luật học, 9, tr. 4.
20
Xem thêm: />noi-2009/659-hoang-vit
21
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Trung tâm Luật Châu Á – Thái Bình Dương, Tập bài giảng Pháp luật
Cộng đồng ASEAN, Hà Nội, 2011, tr. 263 – 264.
15
*****
Việc hình thành và phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị
của ASEAN đã tạo ra một nền tảng quan trọng trong việc đảm bảo hòa bình, ổn
định khu vực. Và đỉnh cao của sự hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN là sự ra
đời của bản Hiến chương ASEAN, đánh dấu một mốc quan trọng về mặt pháp lý
cho sự tồn tại và phát triển vững mạnh của ASEAN nói chung và cơ chế giải quyết

tranh chấp của ASEAN nói riêng, là dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện
cơ chế giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị của ASEAN. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp an ninh – chính trị ASEAN, những nguyên tắc giải quyết tranh
chấp được quy định trong Hiến chương ASEAN là kim chỉ nam mà các quốc gia
cần phải tuân theo khi xảy ra tranh chấp, đặc biệt là nguyên tắc hòa bình giải quyết
tranh chấp. Các tranh chấp an ninh – chính trị xảy ra trong khuôn khổ ASEAN sẽ
đều được giải quyết trên cơ sở các biện pháp hòa bình. Trải qua các giai đoạn phát
triển của mình, ASEAN đã xây dựng và từng bước hoàn thiện dần cơ chế giải quyết
tranh chấp an ninh – chính trị phù hợp với điều kiện khu vực.
Chương 2. CƠ QUAN VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP AN NINH – CHÍNH TRỊ CỦA
ASEAN
2.1. CƠ QUAN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Thực tế cho thấy, các tranh chấp về an ninh – chính trị xảy ra nhiều giữa các
nước thành viên ASEAN, đặc biệt là tranh chấp về biên giới lãnh thổ. Để đảm bảo
an ninh, hòa bình khu vực, ngay từ Tuyên bố Bangkok, ASEAN đã khẳng định mục
đích hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN là “Thúc đẩy hòa bình và ổn định
khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc luật pháp trong quan hệ giữa các
quốc gia trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp Quốc”.
22
22
Xem thêm: Tuyên bố Bangkok năm 1967.
16
Tuy nhiên, để giải quyết tranh chấp, thực sự cần đến một cơ chế cụ thể, các
quốc gia ASEAN đã sớm nhận thức được điều này và đã kí kết tại Bali, Indonesia
Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) năm 1976.
Tiếp đó, Tuyên bố Bali II trên cơ sở khẳng định việc tôn trọng các nguyên
tắc chủ đạo của ASEAN, tiếp tục đề cao và phát huy các cơ chế và công cụ sẵn có
của ASEAN về hợp tác chính trị - an ninh, trong đó coi “Hiệp ước Hợp tác và thân
thiện là quy tắc xử sự then chốt điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia và là công

cụ chính trị để thúc đẩy hòa hình và ổn định trong khu vực”, và “các vấn đề về biển
và liên quan là những vấn đề mang tính biên giới, và bởi vậy, chúng phải được giải
quyết trên phạm vi khu vực theo hướng có lý hài hòa và toàn diện”
23
.
Cho đến nay, Hiến chương ASEAN vẫn dẫn chiếu việc sử dụng văn kiện này
để giải quyết các tranh chấp về an ninh – chính trị “Các tranh chấp không liên quan
đến việc áp dụng hoặc giải thích bất kì một văn kiện nào của ASEAN sẽ được giải
quyết một cách hòa bình phù hợp với Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam
Á (TAC) và các quy định thủ tục của Hiệp ước này”
24
.
Hiệp ước Bali được đánh giá là văn kiện quan trọng, không chỉ đề ra các
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên ASEAN mà trở thành
bộ quy tắc chỉ đạo quan hệ giữa các nước này, dặt cơ sở cho việc xây dựng khu vực
Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Theo quy định của
Hiệp ước Bali, cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp là một Hội đồng
Cấp cao (High Council) do các bên tham gia tranh chấp thành lập khi có tranh chấp
xảy ra. Hội đồng Cấp cao “là bộ phận quan trọng trong Cộng đồng an ninh ASEAN
bởi vì nó phản ánh những cam kết của ASEAN nhằm giải quyết tất cả những khác
biệt, tranh chấp và xung đột một cách hòa bình”
25
. Hội đồng Cấp cao chỉ đóng vai
trò tương đối hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp; Hội đồng không có thẩm
quyền đương nhiên mà thẩm quyền của Hội đồng được xác định trên cơ sở thỏa
thuận ý chí của các bên tranh chấp; Hội đồng giải quyết các tranh chấp đã tồn tại và
có nguy cơ đe dọa đến hòa bình và hợp tác trong khu vực; quyết định của Hội đồng
chỉ mang tính khuyến nghị và không có giá trị pháp lý bắt buộc.
26
23

Xem thêm: Tuyên bố Bali II năm 2003.
24
Xem: Hiến chương ASEAN, Điều 24, khoản 2.
25
Xem thêm: Tuyên bố Bali II năm 2003.
26
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 14, 15, 16.
17
Về cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cấp cao bao gồm một đại diện cấp Bộ
trưởng của mỗi Bên tham gia ký Hiệp ước. Tuy nhiên, với sự mở rộng phạm vi áp
dụng Hiệp ước, ngoài các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và là thành viên của
Hiệp ước, các nước ngoài khu vực Đông Nam Á cũng được áp dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp thông qua tiến trình khu vực khi tham gia Hiệp ước – với sự đồng
thuận của tất các quốc gia Đông Nam Á đã ký kết Hiệp ước và Brunei, và có liên hệ
trực tiếp đến vụ tranh chấp.
27
Vai trò của Hiệp ước Bali càng được củng cố khi các
nước ASEAN tiến hành sửa đổi Hiệp ước này và bổ sung quy định: Các quốc gia
ngoài khu vực Đông Nam Á cũng có thể tham gia Hiệp ước với sự đồng ý của tất cả
các quốc gia thành viên.
28
Trên cơ sơ quy định này, tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9
diễn ra tại Bali (Indonesia) từ ngày 7 đến ngày 8 tháng 10 năm 2003, Trung Quốc
và Ấn Độ đã chính thức tham gia Hiệp ước. Sự tham gia của các quốc gia ngoài
ASEAN đã khẳng định vị trí, vai trò của Hiệp ước Bali đồng thời tạo môi trường
ngày càng thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia trong khu
vực.
29

Với cơ chế quy định tại Hiệp ước Bali, ASEAN khó có thể trở thành “bánh

xe chính” của quá trình giải quyết tranh chấp khu vực. Việc tìm kiếm các biện pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế này là cần thiết. Vì vậy, nhằm giải quyết
tranh chấp một cách hiệu quả và nhanh chóng, Quy chế hoạt động và quy tắc tố
tụng của Hội đồng Cấp cao được Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 34
tổ chức tại Hà Nội năm 2001 thông qua. Sau 25 năm kể từ khi kí Hiệp ước Bali,
việc thiết lập Hội đồng Cấp cao mới có cơ sở và điều kiện để trở thành hiện thực.
Đây là khoảng thời gian tương đối dài nhưng đánh dấu bước tiến của ASEAN trong
xây dựng và củng cố lòng tin, đặt nền móng cho việc duy trì hòa bình và hợp tác
giải quyết tranh chấp khu vực.
30
Theo đó, thành phần của Hội đồng Cấp cao đã
được thay đổi, ngoài một đại diện ở cấp Bộ trưởng của mỗi nước thành viên Hiệp
ước (mười quốc gia ASEAN), còn có đại diện ở cấp Bộ trưởng của các quốc gia
ngoài ASEAN nhưng là thành viên của Hiệp ước Bali đồng thời có liên hệ trực tiếp
27
Xem: Nghị định thư Manila 1987 về bổ sung Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, Điều 2.
28
Xem: Nghị định thư sửa đổi Hiệp ước Bali, Điều 1. Trên thực tế, Hiệp ước Bali được sửa đổi hai lần, lần
thứ nhất vào ngày 15/12/1987 và lần thứ hai vào ngày 25/7/1998.
29
Xem: Ths. Bạch Quốc An (2007), “Vai trò của ASEAN trong việc trong việc giải quyết các tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ”, Tạp chí Luật học ,9, tr. 5.
30
Xem: Ths. Bạch Quốc An (2007), “Vai trò của ASEAN trong việc trong việc giải quyết các tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ”, Tạp chí Luật học, 9, tr. 7.
18
đến vụ tranh chấp (là các bên tranh chấp) mà Hội đồng nhận thấy là phù hợp với
Hiệp ước và quy tắc tố tụng của Hội đồng. Hội đồng Cấp cao có một Chủ tịch, là
đại diện của quốc gia thành viên của Hiệp ước (đồng thời đang là Chủ tịch ủy ban
Thường trực của ASEAN – ASEAN Standing Committee) hoặc là một đại diện

khác của một quốc gia ở Đông Nam Á có thể được Hội đồng Cấp cao quyết định
phù hợp với những quy tắc đã được đưa ra.
31
Các biện pháp Hội đồng Cấp cao có thể đưa ra bao gồm: trung gian; môi
giới; hòa giải; điều tra và các biện pháp thích hợp khác để ngăn không cho tranh
chấp hoặc tình hình xấu đi. Ngoài ra, Hội đồng Cấp cao có thể đứng ra làm trung
gian hoặc theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, hoạt động như một ủy ban
trung gian, điều tra hay hòa giải.
32
Hội đồng Cấp cao có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa
các nước thành viên Hiệp ước và những tình hình có nguy cơ đe dọa đến hòa bình,
hòa hợp trong khu vực.
33
Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng
Cấp cao sẽ chỉ phát sinh trên cơ sở ý chí của các bên tranh chấp và ý chí này phải
được thể hiện dưới hình thức văn bản gửi lên Hội đồng Cấp cao, trong đó nêu rõ:
(1) Chấp thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại Hội đồng Cấp cao;
(2) Cơ sở xác định thẩm quyền của Hội đồng Cấp cao;
(3) Nội dung tranh chấp và yêu cầu cụ thể của các bên.
34
Việc áp dụng các quy tắc, quy trình giải quyết tranh chấp theo Quy tắc thủ
tục của Hội đồng Cấp cao cũng phải có sự thừa nhận bằng văn bản như vậy của các
bên.
35
Như vậy, Hội đồng Cấp cao Hiệp ước Bali không phải là cơ quan thường
trực với các thành viên chuyên trách mà cơ quan giải quyết tranh chấp này là do các
bên thành lập khi có tranh chấp và chấp nhận đưa tranh chấp ra trước Hội đồng.
2.2. TRÌNH TỰ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
31
Xem: Trần Thăng Long (2006), “Về một số cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN hiện nay”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, 12, tr. 68.
32
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 15.
33
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 14.
34
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 14, 16; Quy chế hoạt động của Hội đồng Cấp cao Hiệp ước bali, Điều 6, 7, 8, 9
35
Hiệp ước Bali, Điều 16.
19
Theo quy định của Hiệp ước Bali 1976, trong trường hợp xảy ra các vụ việc
và phát sinh các vấn đề tác động đến các bên tranh chấp, đặc biệt là các vụ tranh
chấp có khả năng phá hoại hòa bình và hòa hợp khu vực thì các bên tranh chấp phải
tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực (Có
thể căn cứ vào các văn kiện của Liên hợp quốc thì vũ lực được hiểu là sức mạnh về
quân sự, chính trị, kinh tế hoặc ngoại giao mà quốc gia này sử dụng bất hợp pháp
với quốc gia khác).
36

Do đó, trình tự giải quyết tranh chấp an ninh – chính trị trong khuôn khổ
ASEAN có thể chia ra làm hai giai đoạn:
37
Ở giai đoạn thứ nhất, các bên sử dụng
biện pháp thương lượng hữu nghị là tập hợp bao gồm các biện pháp đối thoại, tham
vấn, trung gian hoặc hòa giải. Nếu giai đoạn thứ nhất kết thúc không thành công,
tiến hành giai đoạn thứ hai là giải quyết tranh chấp bằng tiến trình khu vực theo quy
định tại Hiệp ước Bali. Cụ thể như sau:
2.2.1. Giai đoạn đầu tiên
Trong giai đoạn này, các bên sử dụng các biện pháp thương lượng hữu nghị.
Trong Hiệp ước Bali chỉ ghi nhận “các bên luôn luôn giải quyết các vụ tranh chấp

với nhau thông qua thương lượng hữu nghị”
38
. Trong khoa học luật quốc tế, thuật
ngữ “thương lượng hữu nghị” được hiểu là tập hợp các biện pháp ngoại giao để giải
quyết tranh chấp, cụ thể là bao gồm biện pháp đối thoại, tham vấn, trung gian hoặc
hòa giải. Đặc trưng của tập hợp các biện pháp này là luôn dựa trên tinh thần hữu
nghị, thân thiện và hợp tác giữa các bên để tiến hành các cuộc thương lượng phù
hợp với nhau như đối thoại, tham vấn, đàm phán trực tiếp hoặc thông qua bên thứ
ba nhằm tiến tới giải quyết tranh chấp mà không làm phương hại tới quan hệ hữu
nghị và thân thiện vẫn đã tồn tại giữa các bên hữu quan.
36
Xem thêm: Ths Nguyễn Thị Kim Ngân – Ths Chu Mạnh Hùng (Đồng chủ biên), Giáo trình Luật quốc tế,
Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010.
37
Xem thêm: Trường đại học luật Hà Nội, Trung tâm Luật Châu Á – Thái Bình Dương, Tập bài giảng Pháp
luật Cộng đồng ASEAN, Hà Nội, 2011, tr. 264 – 265.
38
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 13.
20
Đối thoại, đàm phán trực tiếp là biện pháp giải quyết tranh chấp dựa trên sự
tiếp xúc trực tiếp giữa các chủ thể để trao đổi, thương lượng, bàn bạc nhằm hướng
tới việc giải quyết vấn đề mà các bên cùng quan tâm. Đàm phán trực tiếp là một
trong những biện pháp giải quyết tranh chấp có từ lâu trong quan hệ quốc tế. Trong
giai đoạn hiện nay, đây cũng là biện pháp cơ bản, hữu hiệu và thông dụng nhất để
giải quyết tranh chấp quốc tế. So với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, đàm
phán trực tiếp có nhiều ưu điểm:
- Các bên tranh chấp có thể gặp gỡ trực tiếp, đưa ra những quan điểm, lập
trường của mình để từ đó giải quyết tranh chấp;
- Đàm phán có thể được tiến hành bất kì lúc nào mà không bị hạn chế về thời
gian và không gian;

- Thông qua đàm phán, không chỉ tranh chấp được giải quyết mà các bên còn
có thể hiểu nhau hơn, từ đó góp phần củng cố, thúc đẩy quan hệ giữa các bên
hữu quan;
- Các thế lực bên ngoài khó có thể gây áp lực và can thiệp vào quá trình giải
quyết tranh chấp…
Có thể nói, đàm phán trực tiếp là biện pháp linh hoạt và có hiệu quả hơn cả
để giải quyết tranh chấp, vì vậy khi đề cập tới các biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp thì biện pháp đàm phán trực tiếp thường được đặt lên hàng đầu. Khoản 1
Điều 22 Hiến chương ASEAN quy định: “Các quốc gia thành viên sẽ nỗ lực giải
quyết một cách hòa bình và kịp thời tất cả các tranh chấp thông qua đối thoại, tham
vẫn và thương lượng”. Do vậy, các bên có thể áp dụng kết hợp biện pháp đàm phán
với một hoặc một số biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp. Khi đó, đàm
phán có thể là bước đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp (trong đàm phán
các bên có thể thỏa thuận áp dụng biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp
như môi giới, trung gian, hòa giải…) và đôi khi đàm phán cũng có thể là kết quả
của việc áp dụng các biện pháp hòa bình khác. Kết quả của quá trình đàm phán có
thể là sự thỏa thuận nhất trí giữa các bên để giải quyết dứt điểm tranh chấp. Tuy
nhiên, trường hợp cũng có khi kết thúc đàm phán nhưng các bên không đạt được bất
kì thỏa thuận nào, khi đó các bên phải kiềm chế không tiến hành những hành động
21
làm phức tạp thêm tranh chấp hoặc gây ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh khu vực;
đồng thời thiện chí và nỗ lực áp dụng các biện pháp hòa bình khác để giải quyết
tranh chấp.
39
Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba (trung gian và hòa giải) là các
biện pháp đều có sự tham gia của bên thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp
với nhiệm vụ giúp đỡ các bên nhanh chóng giải quyết tranh chấp. Bên thứ ba có thể
đứng ra làm trung gian hay hòa giải nhưng cũng có thể đóng vai trò này theo đề
nghị của các bên tranh chấp, nhưng trong bất kì trường hợp nào, sự tham gia của
bên thứ ba đều phải được sự đồng ý của tất cả các bên tranh chấp. Trong quá trình

giải quyết tranh chấp, bên thứ ba cũng có thể đưa ra các ý kiến, đề xuất nhưng các ý
kiến, đề xuất này không có giá trị pháp lý ràng buộc các bên tranh chấp. Chấp nhận
hay không chấp nhận đề nghị của bên thứ ba là quyền của các bên tranh chấp.
Ngoài ra, bên thứ ba phải thực hiện nhiệm vụ của mình phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của Luật Quốc tế, đặc biệt là tôn trọng bình đẳng chủ quyền và không can
thiệp vào công việc nội bộ của các bên tranh chấp.
40
Các điều này cũng được quy định trong Phụ lục của Tuyên bố Bali II (Phụ
lục về Cộng đồng an ninh), theo đó các nước thành viên ASEAN sẽ giải quyết bất
cứ cuộc tranh chấp nào bằng biện pháp hòa bình trên tinh thần thúc đẩy hòa bình, an
ninh, ổn định khu vực. Trong khi tiếp tục sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp
của quốc gia, song phương và quốc tế, các nước thành viên ASEAN sẽ nỗ lực sử
dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp mà khu vực hiện có như thương lượng, đàm
phán, trung gian, hòa giải, thông qua bên thứ ba.
2.2.2. Giai đoạn hai
Giai đoạn này được tiến hành khi giai đoạn đầu tiên kết thúc mà không thành
công, theo quy định của Hiệp ước Bali thì “để giải quyết tranh chấp bằng tiến trình
khu vực, các bên kí kết sẽ thành lập như một cơ quan kế tiếp, một Hội đồng Cấp
cao bao gồm một đại diện ở cấp bộ trưởng của mỗi bên ký kết để công nhận sự tồn
39
Xem thêm: Ths. Nguyễn Thị Kim Ngân – Ths. Chu Mạnh Hùng (Đồng chủ biên), Giáo trình Luật quốc tế,
Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, tr. 209 – 301.
40
Xem: Ths. Nguyễn Thị Kim Ngân – Ths. Chu Mạnh Hùng (Đồng chủ biên), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb.
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, tr. 301 – 302.
22
tại của một cuộc tranh chấp hoặc tình hình chắc chắn phá hoại hòa bình và hữu nghị
khu vực”
41
.

Việc giải quyết tranh chấp bằng tiến trình như vậy sẽ thông qua một Hội
đồng Cấp cao được các bên tranh chấp thành lập sau khi có tranh chấp xảy ra để ghi
nhận, xem xét tranh chấp hoặc tình thế. Hội đồng cũng có thể đứng ra làm trung
gian điều tra, dàn xếp hoặc hòa giải theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Lúc
này, Hội đồng sẽ hoạt động như một ủy ban trung gian điều tra hoặc hòa giải và có
thể đưa ra những khuyến nghị đối với các bên khi cần thiết để ngăn ngừa xung đột
có thể xảy ra làm cho tình hình giải quyết tranh chấp giữa các bên xấu đi.
42
Tuy
nhiên, một tranh chấp như vậy nảy sinh và được các bên lựa chọn giải quyết tại Hội
đồng Cấp cao cũng cần được diễn ra theo một quy trình cụ thể nhất định.
Theo Quy tắc Tố tụng của Hội đồng Cấp cao (Rules of procedure of the High
Council of Treaty of Amity and Cooporation in Southeast Asia) thì một quốc gia ký
kết, khi muốn đưa vụ tranh chấp của mình ra trước Hội đồng Cấp cao và viện dẫn
quy tắc tố tụng của Hội đồng cũng như được Hội đồng ghi nhận vụ việc thì cần phải
thông báo bằng văn bản qua đường ngoại giao cho Chủ tịch Hội đồng và những
quốc gia ký kết khác. Một bên ký kết trước khi thực hiện thủ tục thông báo này ít
nhất trong vòng 14 ngày, sẽ phải thông báo bằng văn bản qua đường ngoại giao
hoặc ý định như vậy cho quốc gia thành viên là một bên tranh chấp. Nội dung của
thông báo bao gồm việc nêu rõ vụ tranh chấp và nguồn gốc của tranh chấp hoặc tình
thế; các yêu cầu cụ thể của quốc gia ký kết là bên tranh chấp; cơ sở để xác định
thẩm quyền của Hội đồng Cấp cao phù hợp với Hiệp ước Bali.
43
Để xem xét và giải quyết vụ tranh chấp, Hội đồng Cấp cao cần đến sự đồng ý
chấp thuận và việc áp dụng quy tắc tố tụng của Hội đồng của tất cả các bên tranh
chấp. Nói cách khác, Hội đồng Cấp cao là cơ quan giải quyết tranh chấp giữa các
bên ký kết của Hiệp ước Bali và xem xét những tình hình có khả năng gây nguy
hiểm cho hòa bình, ổn định khu vực. Những thẩm quyền này không đương nhiên
mà phải dựa trên ý chí của tất cả các chủ thể tranh chấp. Ý chí này chỉ đươc thể hiện
dưới hình thức duy nhất là văn bản gửi lên Hội đồng Cấp cao. Chủ tich Hội đồng sẽ

41
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 14.
42
Xem: Hiệp ước Bali, Điều 19.
43
Xem: Quy tắc tố tụng Hội đồng cấp cao Hiệp ước Bali, Điều 7.
23
là người xem xét sự nhất trí chấp thuận này của các bên thông qua văn bản đã gửi
lên. Kèm theo văn bản này, các bên cũng có thể đưa ra nguồn gốc của tranh chấp
hoặc tình thế đã được gửi lên Hội đồng; các bên tranh chấp và những yêu cầu, mong
muốn cụ thể của họ; cơ sở làm căn cứ xác định thẩm quyền của Hội đồng Cấp cao.
44
Như vậy, Hội đồng Cấp cao chỉ nhận và xem xét vụ việc khi có ít nhất một bên
tranh chấp yêu cầu và tất cả các bên tranh chấp đồng ý đưa vụ việc ra trước Hội
đồng.
Dựa vào sự chấp thuận của tất cả các bên về sự ghi nhận thẩm quyền cũng
như Quy tắc tố tụng của Hội đồng Cấp cao phù hợp với Hiệp ước Bali, Hội đồng
Cấp cao sẽ được nhóm họp để giải quyết tranh chấp. Hội đồng Cấp cao họp theo sự
triệu tập của Chủ tịch Hội đồng trong vòng 6 tuần, cuộc họp này phải được thông
báo cho tất cả các đại diện cũng như các thành viên khác ít nhất 3 tuần trước khi
diễn ra cuộc họp. Kèm theo thông báo là các bản sao của thư thông báo và các văn
bản chấp thuận có liên quan. Các cuộc họp của Hội đồng Cấp cao sẽ được tổ chức
tại bên ký kết là Chủ tịch Hội đồng Cấp cao hoặc tại địa điểm khác do Hội đồng
quyết định.
45
Tham gia cuộc họp của Hội đồng Cấp cao có tất cả các đại diện của Hội
đồng. Một đại diện có thể được đại diện bởi một đại diện khác do họ ủy quyền và có
thể được tháp tùng bởi những người dự khuyết và những cố vấn. Đối với bên ký kết
là những quốc gia ngoài Đông Nam Á và không liên quan trực tiếp đến tranh chấp
thì vẫn có thể yêu cầu Chủ tịch cho phép đại diện bởi các quan sát viên tại cuộc họp

của Hội đồng trừ khi Hội đồng có quy định khác. Một quan sát viên có thể phát biểu
tại cuộc họp khi được Hội đồng Cấp cao cho phép. Trừ khi, Hội đồng Cấp cao có
quy định khác, thư ký mỗi cuộc họp sẽ do bên ký kết của nơi tổ chức cuộc họp đảm
nhận. Tuy vậy, bên ký kết đó có thể nhờ tới sự giúp đỡ của cơ quan thư ký của
ASEAN.
46
Để trợ giúp cho Hội đồng Cấp cao hoàn thành chức năng và trách nhiệm
của mình, Hội đồng có thể thành lập các nhóm công tác viên trên cơ sở adhoc, cụ
thể như Nhóm chuyên gia tư vấn (Experts Advisory Committee – EAC) hay Nhóm
những người nổi tiếng (Eminent Persons Group – EPG). Các nhóm công tác này có
44
Xem: Quy tắc tố tụng Hội đồng cấp cao Hiệp ước Bali, Điều 8.
45
Xem: Quy tắc tố tụng Hội đồng cấp cao Hiệp ước Bali, Điều 10, 11.
46
Xem: Quy tắc tố tụng Hội đồng cấp cao Hiệp ước Bali, Điều 12, 13, 14, 15.
24
thể đưa ra sự trợ giúp cho Hội đồng Cấp cao để khuyến nghị trong việc giải quyết
tranh chấp theo yêu cầu phù hợp với Quy tắc tố tụng của Hội đồng Cấp cao Hiệp
ước Bali.
47
Trong toàn bộ trình tự giải quyết tranh chấp nêu trên, các bên đều có quyền
sử dụng các phương thức giải quyết hòa bình quy định tại Điều 33 Hiến chương
Liên Hợp Quốc:
“1. Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc
tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải
cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra,
trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những
hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa
chọn của mình.

2. Hội đồng Bảo an, nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết
tranh chấp của họ bằng các biện pháp nói trên”.
48
Theo đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trước hết các bên có thể sử
dụng các biện pháp hòa bình sau: đàm phán, trung gian, điều tra, hòa giải, trọng tài,
tòa án hoặc thông qua các cơ quan hay tổ chức quốc tế khu vực hoặc bằng các biện
pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình. Các bên có quyền tự do lựa
chọn các biện pháp hòa bình nói trên để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp và
có hiệu quả nhất. Các phương thức giải quyết tranh chấp được ghi nhận tại Điều 33
Hiến chương Liên hợp quốc đều là các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoà
bình. Hội đồng bảo an, trong quyền hạn của mình, nếu thấy cần thiết, sẽ đứng ra yêu
cầu các bên phải tuân thủ Hiến chương và phải giải quyết tranh chấp bằng các
phương thức hoà bình nêu trên.
Có thể thấy, Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định hầu hết các
biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế để các bên lựa chọn sao cho phù
hợp với tình hình tranh chấp. Việc lựa chọn biện pháp thích hợp hoàn toàn tuỳ
thuộc vào ý chí và sự thoả thuận tự nguyện của các bên tranh chấp. Các phương
thức giải quyết tranh chấp theo Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc nhiều hơn hẳn
47
Xem thêm: Declaration of Asean Concord II, Annex, Asean Security Community.
48
Xem: />%E1%BB%87p_Qu%E1%BB%91c#.C4.90i.E1.BB.81u_33.
25

×