Tải bản đầy đủ (.doc) (202 trang)

Luận Văn Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh và ảnh hưởng của quan hệ đó đến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.74 KB, 202 trang )

Mục lục

Mở đầu
Chương 1. SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ SAU
CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Khái lược lịch sử quan hệ Xô- Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh
1.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau khi
Liên Xô tan rã đến cuối thập niên 90
1.3. Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau chiến tranh lạnh của Mỹ
Chương 2. QUAN HỆ NGA-MỸ TRONG THẬP NIÊN 90
2.1. Quan hệ Nga- Mỹ trong lĩnh vực chính trị- đối ngoại, quân sự- an
ninh
2.2. Quan hệ kinh tế- thương mại và khoa học- công nghệ Nga- Mỹ
2.3. Những xu hướng vận động của quan hệ Nga- Mỹ
Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN HỆ NGA-MỸ ĐẾN VIỆT NAM
3.1. Ảnh hưởng về mặt chính trị, đối ngoại và an ninh
3.2. Ảnh hưởng về kinh tế, văn hoá, khoa học- kỹ thuật
Kết luận
Danh mục các công trình của tác giả
Danh mục tài liệu tham khảo
Trang
1
8
8
23
48
72
72
103
122
137


137
160
180
184
186
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử loài người, Ýt nhất từ thời cận đại, các nước lớn, các cường quốc
từng đóng vai trò quyết định trật tự thế giới và chi phối hệ thống các quan hệ quốc tế
(QHQT). Đường hướng vận động, phát triển của lịch sử thế giới phụ thuộc chủ yếu vào
tham vọng và lợi Ých chiến lược của các nước lớn, vào sự hoà hoãn hoặc chiến tranh
giữa các nước lớn. Thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên Xô và Mỹ đã tồn tại với tư cách hai
siêu cường đứng đầu hai hệ thống chính trị-xã hội đối lập, kiềm chế, chi phối lẫn nhau,
đồng thời chi phối đời sống chính trị thế giới và hệ thống các QHQT. Cuộc chiến tranh
lạnh kéo dài hơn bốn thập niên đó đã đặt cả thế giới vào tình trạng đối đầu căng thẳng
và thù địch.
Đến đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, do tác động của hàng loạt các nhân tố chủ
quan và khách quan, bên trong và bên ngoài, cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và
trật tự thế giới hai cực tan rã. Từ thời điểm này, cộng đồng các quốc gia- dân tộc vận
động và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử rất mới và rất khác thời kỳ chiến tranh
lạnh, vừa tạo ra những cơ hội, vừa đặt ra những thách thức mới đối với họ. Tình hình
thế giới sau chiến tranh lạnh diễn biến phức tạp, diện mạo một trật tự thế giới mới thay
cho trật tự hai cực đã tan rã vẫn chưa định hình. Sau mấy thập niên chiến tranh lạnh,
một mặt các nước lớn nhỏ đều muốn có môi trường quốc tế hoà bình, ổn định để phát
triển, nên nhìn chung đều điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại theo hướng tránh
đối đầu, tăng cường hợp tác, liên kết, hội nhập trên các tầng nấc khác nhau. Mặt khác,
các nước- trước hết là các nước lớn- cũng cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm giành giật
vai trò, vị trí có lợi nhất cho mình trong trật tự thế giới mới đang hình thành. Động thái
quan hệ giữa các nước lớn diễn ra hết sức phức tạp, chứa đầy những yếu tố khó lường.
2

Trong khi đó, các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn thời kỳ sau chiến tranh lạnh
vẫn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị- xã hội loài người.
Quan hệ giữa Nga và Mỹ- với tư cách là quan hệ giữa hai nước lớn- không nằm
ngoài tình hình chung đó. Song quan hệ Nga- Mỹ là cặp quan hệ có những nét đặc
thù. Không chỉ trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hiện nay quan hệ Nga- Mỹ, bất luận
những biến thiên của lịch sử, vẫn là cặp quan hệ chủ chốt, đóng vai trò rất quan trọng
trong hệ thống các QHQT. Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh,
dù theo hướng nào, cũng tác động lớn đến cục diện thế giới, đến đời sống chính trị và
an ninh thế giới. Tuy nhiên, quan hệ giữa Nga và Mỹ thời kỳ sau chiến tranh lạnh diễn
biến khá phức tạp, phản ánh rõ nét nhất, điển hình nhất thực trạng quan hệ giữa các
nước lớn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng quan hệ giữa hai nước
lớn Nga- Mỹ thực sự hữu Ých, thực sự cần thiết đối với tất cả các nước lớn nhỏ. Hơn
nữa, việc nghiên cứu đó không chỉ nhằm xác định diện mạo của một mối quan hệ cụ
thể giữa hai nước lớn, mà còn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận đặt ra
trong quan hệ giữa các nước lớn và giữa các nước lớn với các nước nhỏ nói chung
trong thời kỳ quá độ từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự thế giới mới.
Do điều kiện lịch sử đặc biệt của mình, hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam luôn nằm
trong toan tính chiến lược của các nước lớn như Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc, Nhật
Bản. Những nước lớn đó, đặc biệt là Liên Xô và Mỹ, đã có những tác động rất lớn, cả
hai chiều tích cực và tiêu cực, đến sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc của
nhân dân Việt Nam. Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô bị thủ
tiêu làm thay đổi tương quan lực lượng trên trường quốc tế từ trạng thái cân bằng sang
có lợi cho Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) phát triển. Quan hệ giữa Nga- đã
từng là đồng minh chiến lược của Việt Nam, và Mỹ- đã từng là đối thủ chiến lược của
Việt Nam, dù vận động, phát triển theo hướng nào (hoà hoãn, hợp tác hay căng thẳng,
3
xung đột) thì cũng đều ảnh hưởng đến nước ta với tư cách là một nước nhỏ, có lợi Ých
chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thực tiễn quan hệ giữa
Nga và Mỹ từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc cho thấy Việt Nam đã và sẽ còn phải
chịu sức Ðp và ảnh hưởng qua lại của quan hệ Nga- Mỹ. Thực tế này đặt ra nhiều vấn

đề lý luận và thực tiễn cấp thiết của chính sách đối ngoại Việt Nam trong quan hệ với
Nga và Mỹ. Việc nghiên cứu sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh và
ảnh hưởng của quan hệ đó đến Việt Nam không chỉ nhằm rót ra những bài học kinh
nghiệm cần thiết nhằm thúc đẩy quan hệ Việt- Nga và Việt- Mỹ, mà còn cung cấp
những luận cứ khoa học góp phần đưa phương châm đối ngoại cân bằng trong quan hệ
với các nước lớn vào thực tiễn hoạt động đối ngoại cho sát đúng với từng nước lớn cụ
thể.
Vì tất cả những lẽ đó, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Sự vận động của quan hệ
Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh và ảnh hưởng của quan hệ đó đến Việt Nam” làm đề tài
luận án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa Nga và Mỹ không phải là một đề tài mới mẻ đối với giới nghiên cứu
ở nước ngoài, nhất là ở Nga và Mỹ. Các vấn đề như vai trò, vị thế quốc tế của các nước
lớn hiện nay và trong tương lai, chính sách đối ngoại của Nga và của Mỹ, quan hệ Nga-
Mỹ trong các lĩnh vực chính trị-đối ngoại, kinh tế-thương mại, đã được Ýt nhiều đề
cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau của các tác giả nước ngoài. Trong các
công trình này, đáng chú ý là các cuốn sách: “Sự đảo lộn của thế giới địa-chính trị thế kỷ
XXI” của Maridôn Tuareno (Pháp); “Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu” của Lý Thực
Cốc (Trung Quốc); “Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc”; “Chuẩn bị cho thế kỷ
XXI” của Pôn Kennơđy (Mỹ); “Dự báo thế kỷ 21” của tập thể các tác giả Trung Quốc;
“Bàn cờ lớn” của Z. Brzezinski (Mỹ); “Sự biến đổi” của A.CôdưrÐp (Nga); “Nước Nga
4
hướng về Châu Á” của M. L. Titarencô, v.v Ngoài ra, nhiều bài viết đề cập đến các khía
cạnh cụ thể của đề tài đã được đăng tải trên các Ên phẩm chuyên ngành của Nga như các
tạp chí: Kinh tế thế giới và QHQT; Mỹ: Kinh tế, Chính trị, Tư tưởng; Sinh hoạt quốc tế;
Tư tưởng tự do; Báo Độc lập, v.v Trong các Ên phẩm này, đáng chú ý nhất là tờ tạp chí
rất có uy tín, chuyên nghiên cứu về Mỹ ở Nga, tờ “Mỹ: Kinh tế, Chính trị, Tư tưởng” (ra
đời từ tháng 1 năm 1970, đến tháng 1 năm 1999 đổi tên là “Mỹ- Canada: Kinh tế, Chính
trị, Văn hoá”). Đây là tờ tạp chí đã nhiều năm liền đăng tải các bài viết, các công trình
nghiên cứu của nhiều học giả có tiếng tăm, có bề dày nghiên cứu về Mỹ, về chính sách

đối ngoại của Mỹ, về quan hệ Nga- Mỹ, như S. Rôgốp, G. Trôfimencô, B. Krêmenhúc,
A. Ótkin, T. Saklêina, v.v Đặc biệt, các bài viết của S. Rôgốp đăng trên các số 3/1995,
10/1996, 11/1997, 2/1998, 7 và 8/1998, 2/2000 của Tạp chí trên và một số Ên phẩm khác
như Tạp chí Tư tưởng tự do, Báo Độc lập, đã phác họa những đường nét cơ bản, những
thăng trầm của quan hệ Nga- Mỹ qua các giai đoạn khác nhau thời kỳ sau chiến tranh
lạnh. Tác giả chỉ ra những kết quả hợp tác đã đạt được, cũng như những mâu thuẫn, xung
đột lợi Ých trong quan hệ Nga- Mỹ, nhấn mạnh ý đồ của Mỹ kiềm chế Nga khôi phục
ảnh hưởng chính trị- an ninh trên trường quốc tế.
Ngoài các công trình của các tác giả Nga, các bài nghiên cứu liên quan đến đề tài
của các tác giả Mỹ như M. Manđenbaum, Aron Leon, G. Duglac, cũng được đăng
tải trên các Ên phẩm chuyên ngành kể trên của Nga. Tuy nhiên, cách nhìn nhận, sự
đánh giá các vấn đề như chiến lược đối ngoại của Nga, của Mỹ, quan hệ Nga-Mỹ, v.v.
không phải luôn luôn có sự thống nhất giữa các tác giả Nga, giữa các tác giả Mỹ với
nhau, cũng như giữa các tác giả Nga và các tác giả Mỹ. Thực tế này đòi hỏi nghiên
cứu sinh phải biết kế thừa có chọn lọc công trình nghiên cứu của các học giả nước
ngoài, và chỉ trên cơ sở xem xét các sự vật, hiện tượng lịch sử một cách khách quan,
5
chân thực và bằng phương pháp luận mácxít thì mới có thể đưa ra sự đánh giá xác
đáng về những vấn đề thuộc đề tài nghiên cứu.
Ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu tập thể và cá nhân đã Ýt
nhiều đề cập đến chiến lược, chính sách đối ngoại của Mỹ, của Nga, quan hệ Mỹ- Việt,
quan hệ Nga-Việt. Trong số các công trình này, đáng chú ý là các bài viết, sách tham
khảo, đề tài khoa học của một số cơ quan nghiên cứu các vấn đề quốc tế như: Trung
tâm nghiên cứu Châu Âu, Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Học viện QHQT (Bộ ngoại
giao), Viện QHQT (Học viện CTQG Hồ Chí Minh), các tạp chí chuyên ngành về
QHQT, v.v Cố học giả Lê Bá Thuyên với đề tài luận án PTS Lịch sử “Chiến lược toàn
cầu của Mỹ và tác động của nó trong QHQT hiện nay” (bảo vệ năm 1995); cuốn sách
“Hoa Kỳ: cam kết và mở rộng”, NXB KHXH, Hà Nội, 1997; cũng như một số bài viết
của tác giả về chiến lược, chính sách đối ngoại của Mỹ đăng trên các tạp chí chuyên
ngành là những công trình có tính chất chuyên sâu nhất về đề tài này. Còn việc nghiên

cứu quan hệ Nga-Mỹ ở Việt Nam thì thực sự chỉ mới ở giai đoạn ban đầu, số lượng các
bài viết về chủ đề này rất hạn chế. Hơn nữa, các công trình được công bố về quan hệ
Nga-Mỹ mới chỉ dừng lại ở việc mô tả thực trạng quan hệ Nga- Mỹ ở một vài lĩnh vực,
chưa có tính hệ thống và khái quát.
Chủ đề quan hệ Việt- Nga và Việt- Mỹ giành được sự quan tâm nhiều hơn từ các
nhà nghiên cứu Việt Nam. Trong số các công trình nghiên cứu về các chủ đề này,
đáng chú ý là các cuốn sách “Quan hệ kinh tế Việt Nam- LB Nga: Thực trạng và triển
vọng” (NXB KHXH, Hà Nội, 1995); “Về mối quan hệ giữa Việt Nam- LB Nga trong
giai đoạn hiện nay” (NXB CTQG, Hà Nội, 1997); “Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hoa
Kỳ” (NXB Thế giới, Hà Nội, 2000). Đây là những công trình công phu của các tập
thể tác giả và cá nhân về sự vận động khá phức tạp của các cặp quan hệ Nga-Việt và
Mỹ-Việt từ sau khi Liên Xô tan rã. Song do phạm vi nghiên cứu đặt ra, nên quan hệ
6
Nga-Việt và Mỹ-Việt chưa được xem xét từ góc độ quan hệ giữa các nước lớn và một
nước nhỏ trong bối cảnh thế giới mới sau chiến tranh lạnh. Đặc biệt ảnh hưởng của
quan hệ Nga- Mỹ với tư cách là quan hệ giữa hai nước lớn, đến Việt Nam, với tư cách
là một nước nhỏ, trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, hầu như chưa được nghiên cứu cả
ở các nước ngoài cũng như ở Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài luận án ở nước ngoài và
Việt Nam cho thấy sự cần thiết phải có một công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống và sâu sắc hơn về đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm rõ thực chất sự vận động của
quan hệ giữa LB Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trên cơ sở đó nêu lên ảnh hưởng của
mối quan hệ này đến Việt Nam trong bối cảnh thế giới đã và đang thay đổi thời kỳ sau
chiến tranh lạnh.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận án là:
- Khái quát lịch sử quan hệ Xô- Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh, cũng như sự điều
chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại của Nga và của Mỹ trong thập niên 90.
- Phân tích thực trạng vận động của quan hệ giữa Nga và Mỹ trong các lĩnh vực

chủ yếu là chính trị- an ninh, kinh tế- thương mại, khoa học- kỹ thuật, đồng thời nêu
ra một số dự báo về triển vọng của mối quan hệ này.
- Phân tích ảnh hưởng của quan hệ Nga- Mỹ đến Việt Nam trong sự tương tác
giữa các cặp quan hệ của tam giác Nga- Mỹ- Việt, từ đó nêu một số kiến nghị nhằm
thực hiện thành công chính sách đối ngoại với các nước lớn nói chung, với Nga và
Mỹ nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
7
- Về mặt thời gian: Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ và ảnh hưởng của quan hệ
Nga- Mỹ đến Việt Nam được nghiên cứu chủ yếu từ sau khi Liên Xô tan rã đến cuối
thập niên 90 của thế kỷ 20.
- Về mặt nội dung: Luận án đặt trọng tâm ở việc phân tích thực trạng quan hệ
Nga- Mỹ trong thập niên 90 và triển vọng của mối quan hệ đó trước hết trên lĩnh vực
chính trị- an ninh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận mácxít. Trong
quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận án quán triệt phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời đại và quan hệ giữa các quốc gia- dân tộc; về hoà
bình và cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau; tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, v.v Luận án bám sát các quan điểm
đánh giá tình hình quốc tế và khu vực của Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện
trong các văn kiện từ Đại hội VI đến nay, coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý
luận, định hướng tư tưởng trong nghiên cứu một đề tài vào loại khó và nhạy cảm.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Các phương pháp khác như phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu,
thống kê, v.v. được sử dụng như là những phương pháp hỗ trợ cần thiết cho hai
phương pháp chủ yếu nêu trên.
5. Những điÓm mới về khoa học của luận án
- Nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống sự vận động của quan hệ Nga-Mỹ từ
sau khi Liên Xô tan rã đến cuối thập niên 90, trên cơ sở đó bước đầu làm rõ tính chất

quan hệ giữa các nước lớn và vai trò của các nước lớn nói chung trong thời kỳ quá độ
từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự thế giới mới.
8
- Luận án đưa ra một số đánh giá bước đầu về ảnh hưởng của quan hệ Nga- Mỹ
đến Việt Nam, từ đó nêu một số kiến nghị nhằm xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa
Việt Nam với từng nước lớn cụ thể.
- Góp phần luận giải và làm sáng tỏ thêm chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,
phương châm cân bằng trong quan hệ với các nước lớn của Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài danh mục các công trình khoa học của tác giả, tài liệu tham khảo, luận án
có trang, gồm phần mở đầu, 3 chương với 8 tiết và phần kết luận.
Chương 1
SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ
SAU CHIẾN TRANH LẠNH
Chiến tranh lạnh, theo định nghĩa của các nhà ngôn ngữ học, là “Tình trạng căng
thẳng và không khí thù địch của một nước này gây ra đối với một nước khác”. Song
cuộc chiến tranh lạnh mà giới cầm quyền Mỹ phát động sau chiến tranh thế giới thứ hai
và kết thúc vào đầu thập niên 90 là cuộc chiến tranh chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.
Tình trạng đối đầu căng thẳng và thù địch giữa hai cường quốc đứng đầu thế giới- Liên
Xô và Mỹ- đã chi phối toàn bộ hệ thống QHQT và là nguyên nhân gây nên hàng loạt
cuộc “chiến tranh nóng” cục bộ. Hiện nay chiến tranh lạnh xét trên bình diện toàn cầu
đã kết thúc, song ở nơi này nơi kia vẫn có biểu hiện tiếp diễn, và hệ thống QHQT hiện
nay không khỏi không chịu những hệ quả của nó. Quan hệ Nga-Mỹ sau chiến tranh
lạnh là mối quan hệ tiếp nối quan hệ Xô-Mỹ trước đây, tất nhiên tính chất quan hệ khác
9
hơn nhiều. Do vậy, trước khi khảo sát quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh, chúng tôi
trình bày khái lược lịch sử quan hệ Xô-Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh.

1.1. Khái lược lịch sử quan hệ Xô - Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh
Tháng Mười năm 1917, cuộc Cách mạng “mười ngày rung chuyển thế giới”
thành công ở nước Nga, cho ra đời một Nhà nước kiểu mới- Cộng hoà XHCN Xô viết
Liên bang Nga. Ngay từ sau Cách mạng tháng Mười, Cộng hoà XHCN Xô viết LB
Nga và sau đó là Liên bang CHXHCN Xô viết đã kiên trì cuộc đấu tranh nhằm thiết
lập quan hệ chính trị và kinh tế-thương mại với Mỹ nói riêng, các nước khác nói
chung, theo nguyên tắc được V.I.Lênin khởi xướng về cùng tồn tại hoà bình giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Song nếu như từ những năm 1924 - 1925,
nhiều nước, trong đó có các nước TBCN lớn như Anh, Pháp, Italia đã chÝnh thức
công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, thì Mỹ là cường quốc duy
nhất trong thập niên 20 không thiết lập quan hệ với Liên Xô. Phải trải qua một quá
trình đấu tranh lâu dài của chính quyền Xô viết, và do tác động của rất nhiều nhân tố
khác nữa, mà tới tháng 11 năm 1933, Liên bang Xô viết và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Cũng từ đây bắt đầu một giai đoạn mới
trong quan hệ ngoại giao giữa hai cường quốc, về sau là hai siêu cường đứng đầu hai
hệ thống chính trị- xã hội đối lập trong QHQT thế kỷ XX.
Từ khi chính thức công nhận lẫn nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ
Xô - Mỹ vận động hoàn toàn không đơn giản trong tất cả các lĩnh vực chính trị-quân
sự, kinh tế- thương mại, văn hoá- khoa học- công nghệ.
1.1.1. Quan hệ Xô- Mỹ trong lĩnh vực chính trị- quân sự
Vào cuối những năm 30, trong bầu không khí nóng bỏng của QHQT do việc hình
thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và do bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nhìn chung
Mỹ thực hiện “chính sách trung lập”, “không can thiệp”, thực chất là âm mưu mượn
10
tay người khác đánh nhau để đứng giữa trục lợi. Chính H.Truman (lúc đó là Thượng
nghị sĩ, đến 4. 1945 là Tổng thống Mỹ), ngay sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên
bố trắng trợn: “Nếu chóng ta thấy Đức sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Nga, còn nếu
Nga sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Đức, và như vậy, mặc cho họ giết hại lẫn nhau
càng nhiều càng tốt” [113, tr.435]. Chỉ khi phát xít Đức, Italia đã thôn tính nhiều nước
ở Châu Âu, Châu Phi, còn Nhật đánh chiếm Trân Châu, gây cho Mỹ những tổn thất

nặng nề, lợi Ých và an ninh Mỹ bị đe dọa, thì Mỹ mới tham chiến, cùng Liên Xô và
một số nước khác thành lập Mặt trận đồng minh chống phát xít (1.1.1942). Sau đó Mỹ
và Liên Xô ký Hiệp ước Xô-Mỹ về những nguyên tắc tương trợ trong quá trình chiến
tranh chống xâm lược (11.7.1942). Những hành động đối ngoại này của hai nước đã
góp phần tạo những biến chuyển tích cực, có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết và
hợp tác chiến đấu giữa Liên Xô và Mỹ nói riêng, các lực lượng chống phát xít nói
chung trên toàn thế giới để đánh bại chủ nghĩa phát xít.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với chiến thắng của Liên Xô và các
nước trong khối Đồng minh đã mở ra một thời kỳ mới trong QHQT hiện đại, dẫn đÕn
những biến chuyển sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới. Trong khối Đồng minh
chống phát xít, Mỹ là nước duy nhất không những không bị chiến tranh tàn phá, mà
còn lợi dụng được chiến tranh để làm giàu nhanh chóng. Với sức mạnh kinh tế đi đôi
với sức mạnh quân sự, nhất là sự độc quyền vũ khí hạt nhân, Mỹ trở thành một cường
quốc hùng mạnh. Đây là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tham vọng bá chủ
toàn cầu của Mỹ. Tổng thống Mỹ H.Truman trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 4 năm
1946 đã khẳng định: “Ngày nay Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh, không có một quốc
gia nào mạnh hơn Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế chúng ta có nghĩa vụ
nắm quyền lãnh đạo thế giới ” [89, 119].
11
Tuy nhiên, tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ đã gặp phải những cản trở rất lớn.
Vốn là nước đi tiên phong trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, Liên Xô
bước ra khỏi Đại chiến thế giới lần thứ hai với uy tín quốc tế đã tăng cao. Nhà nước
XHCN đầu tiên trên thế giới đã tỏ rõ sức mạnh của mình trên thực tế, trở thành trụ cột
của phong trào cách mạng thế giới. Ngoài Liên Xô, một loạt Nhà nước dân chủ nhân
dân ở Đông Âu và Châu Á đã được thành lập, lựa chọn con đường đi lên CNXH. Hệ
thống XHCN thế giới dần dần được hình thành và củng cố. Cùng với sự lớn mạnh của
hệ thống XHCN thế giới, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các
nước thuộc địa và TBCN cũng phát triển mạnh, tạo thành những dòng thác lớn tấn
công vào dinh luỹ của hệ thống ĐQCN thế giới. Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ
hai, tương quan lực lượng trên trường quốc tế thay đổi không có lợi cho Mỹ.

Để thủ tiêu những lực cản đó (mà lực cản lớn nhất là Liên bang Xô viết), Mỹ đã
dùng mọi phương sách, biện pháp, thủ đoạn ngoại giao để, thứ nhất, lôi kéo, tập hợp
lực lượng chống lại Liên Xô và ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS. Thứ hai, Mỹ bắt đầu
công khai thực hiện một chính sách đối ngoại thù địch với Liên Xô trong tất cả các
lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực chính trị-đối ngoại.
Trên cơ sở một học thuyết do G.Kennan, Chủ tịch uỷ ban vạch chính sách đối
ngoại của Chính phủ, cựu đại sứ Mỹ tại Liên Xô đề ra, Tổng thống Mỹ H.Truman
tháng 3 năm 1947 đã cho ra đời một học thuyết đối ngoại mang tên “Học thuyết
Truman”. Nội dung cơ bản của Học thuyết Truman là Mỹ phải đảm trách sứ mệnh lãnh
đạo thế giới tự do, phải bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự để giúp đỡ, trước mắt là
Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, sau nữa là các dân tộc trên thế giới chống lại sự đe doạ của chủ
nghĩa cộng sản (CNCS). Nếu G.Kennan được coi là “kiến trúc sư” cho chiến lược
“Chiến tranh lạnh”, thì diễn văn của thủ tướng Anh W.Sơcsin tại Phuntơn ngày
5.3.1946 và Học thuyết Truman được coi là châm ngòi nổ cho cuộc “chiến tranh lạnh”
12
chống Liên Xô và CNCS. (Theo một số tài liệu, “chiến tranh lạnh”- cold war- là từ do
Barút, tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở LHQ đặt ra, xuất hiện lần đầu trên
báo Mỹ ngày 26.7.1947. Nhưng rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “chiến tranh lạnh”
trên thực tế đã bắt đầu trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cụ thể là tại Hội
nghị tam cường Mỹ - Anh - Xô tại Ianta tháng 2 năm 1945). Như vậy thế giới Phương
Tây đứng đầu là đế quốc Mỹ đã chính thức đề ra một chiến lược đối ngoại thù địch với
Liên Xô và các nước XHCN. “Đặc trưng tiêu biểu của chiến tranh lạnh là gây tình hình
căng thẳng, đe dọa dùng bạo lực, bao vây kinh tế, phá hoại chính trị, đẩy mạnh chạy
đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh, thành lập các khối liên minh xâm lược, tiến hành
chiến tranh tâm lý chống cộng” (Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, 1995, tr. 463).
Như vậy, với sù ra đời của Học thuyết Truman, mối quan hệ đồng minh giữa
Liên Xô với Mỹ và các nước Phương Tây trong Mặt trận Đồng minh chống phát xít
đã chấm dứt; bắt đầu một tình trạng đối đầu ngày càng căng thẳng, quyết liệt giữa hai
cường quốc Xô - Mỹ. Cuộc đối đầu Xô - Mỹ gay gắt và toàn diện trở thành trục trung
tâm của chính sách đối ngoại hai siêu cường và là yếu tố cơ bản chi phối các mối

QHQT trong suốt nhiều thập niên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Các mối
QHQT này được diễn đạt bằng thuật ngữ “Trật tự hai cực Ianta” hay “Trật tự thế giới
hai cực Xô-Mỹ” - một cực do Liên Xô đứng đầu, cực kia là Mỹ.
Để dễ bề tập hợp các lực lượng trên thế giới vào một mặt trận do Mỹ đứng đầu
chống Liên Xô, Mỹ đã ra sức thổi phồng mối đe doạ từ Liên Xô và CNCS đối với “thế
giới tự do”, bắt đầu triển khai thực hiện chiến lược toàn cầu “Ngăn chặn Liên Xô và
chủ nghĩa cộng sản” (gọi tắt là “Chiến lược ngăn chặn”). Tháng 6 năm 1947, Bộ trưởng
ngoại giao Mỹ lúc đó là G.Macsan đưa ra cái gọi là “Chương trình tái thiết Châu Âu”
hay “Kế hoạch Macsan”. Nội dung chủ yếu của kế hoạch này là Mỹ sẵn sàng viện trợ
quy mô lớn để phục hồi nền kinh tế các nước Châu Âu, để “tạo ra những điều kiện
13
chính trị và xã hội giúp cho các thể chế tự do có thể tồn tại”. Song viện trợ theo “kế
hoạch Macsan” chỉ được thực hiện với rất nhiều điều kiện nghiêm ngặt, được quy định
trong “Đạo luật viện trợ nước ngoài” mà Quốc hội Mỹ thông qua tháng 4 năm 1948. Có
16 nước, về sau thêm CHLB Đức, đã chấp nhận "Kế hoạch Macsan" của Mỹ.
Về quân sự, Mỹ đã sử dụng tối đa các ưu thế quân sự và sự độc quyền vũ khí hạt
nhân để lôi kéo các nước đồng minh lớn nhỏ vào các liên minh quân sự song phương
và đa phương. Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty
Organisation- NATO) đã chính thức ra đời ngày 4.4.1949 tại Oasinhton. Việc thành lập
NATO trước hết nhằm mục đích tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ, biến NATO
trở thành công cụ quan trọng nhất để Mỹ thực hiện kế hoạch thống trị thế giới. Sự ra
đời của NATO đã đẩy lục địa Châu Âu vào cuộc chạy đua vũ trang quy mô lớn và có
thể dẫn tới nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới thứ ba. Đặc biệt, năm 1955, sau khi
được Mỹ và các nước Phương Tây tái vũ trang, được kế hoạch Macsan phục hồi kinh
tế, CHLB Đức gia nhập khối NATO, trở thành bàn đạp chính của cuộc chiến tranh lạnh
chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũng như phong trào giải phóng dân tộc
đang lan rộng trong tất cả các thuộc địa của Mỹ và của các nước TBCN phát triển.
Ở Châu Á, Mỹ đã từng bước biến Nhật Bản thành nước lệ thuộc Mỹ, thành căn
cứ quân sự khu vực Đông Bắc Á. Tháng 9.1951, với việc ký với Nhật Hiệp ước hoà
bình San Francisco, Mỹ đã mở đường cho chủ nghĩa quân phiệt Nhật ngóc đầu dậy.

Đặc biệt, với việc ký Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật (8.9.1951), Mỹ được phép bố trí các
lực lượng vũ trang trên đất Nhật. Mặc dù Mỹ- Nhật tuyên bố Hiệp ước này nhằm
“duy trì hoà bình thế giới và an ninh Viễn Đông”, song thực chất đã chính thức hoá
việc thiết lập các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật để trước hết phong toả, bao vây Liên
Xô ở hướng Châu Á- Thái Bình Dương. Kể từ khi Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật được
ký kết, Mỹ thực tế đã sử dụng Nhật Bản phục vụ mục đích khống chế Liên Xô.
14
Ngoài Liên minh quân sự-chính trị Mỹ- Nhật, Mỹ còn thành lập các liên minh
quân sự song phương và đa phương khác ở khu vực: Mỹ-Philipin (30.8.1951); Mỹ-Óc-
NiuDilân (Hiệp ước an ninh Thái Bình Dương, 1.9.1951); Mỹ-Hàn Quốc (1.10.1953);
Mỹ- Pakistan (19.5.1954); Mỹ- Đài Loan (2.12.1954); nhất là khối SEATO (8.9.1954)
gồm Mỹ, Anh, Pháp, Óc, NiuDilân, Philippin và Thái Lan.
Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ đã từng bước hình thành thế trận
liên hoàn với các cấp độ khác nhau từ Châu Âu- Đại Tây Dương (CA - ĐTD) sang
Châu Á- Thái Bình Dương (CA - TBD) với mục đích bao vây, phong toả, kiềm chế,
tiến tới tiêu diệt Liên Xô, ngăn chặn CNCS. Mỹ đã chi những khoản tài chính khổng
lồ cho ngân sách quân sự hàng năm và viện trợ quân sự cho các nước thành viên khối
NATO, SEATO và các đồng minh song phương khác. Thực chất chiến lược toàn cầu
“Ngăn chặn” của Mỹ không chỉ nhằm chống Liên Xô, chống CNCS, mà còn thực
hiện các mục tiêu phát triển nước Mỹ hùng mạnh cả về kinh tế, quân sự và chính trị
làm chỗ dựa để thực hiện tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ. Chiến lược “Ngăn chặn”
đã được nhiều lần điều chỉnh qua các đời Tổng thống Mỹ từ 1947 đến 1991, song mục
tiêu đối ngoại xuyên suốt là thống trị thế giới và tiêu diệt CNCS thì không hề thay
đổi.
Để đối phó lại âm mưu của các thế lực đế quốc hiếu chiến Phương Tây đứng đầu
là Mỹ, Liên Xô buộc phải tìm mọi cách tăng cường sức mạnh chính trị-quân sự của
mình. Một mặt, Liên Xô tập trung các nguồn lực xây dựng quân đội hùng mạnh, nền
quốc phòng hiện đại, nghiên cứu chế tạo được vũ khí hạt nhân (năm 1949) để phá thế
độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ. Mặt khác, Liên Xô tích cực triển khai kế hoạch xây
dựng hệ thống an ninh tập thể. Do Châu Âu có vị trí địa-chính trị, địa-chiến lược quan

trọng đối với hoà bình, ổn định thế giới, cũng là nơi tập trung các lợi Ých sống còn của
Liên Xô và Mỹ, nên chính sách đối ngoại của Liên Xô nhìn chung rất chú trọng Châu
15
Âu. Theo sáng kiến của ĐCS Liên Xô, tháng 9 năm 1947, tại Vacsava (Ba Lan), đã
diễn ra Hội nghị đại biểu các ĐCS Liên Xô, Bungari, Hungari, Ba Lan, Rumani, Tiệp
Khắc, Nam Tư, Pháp và Italia. Hội nghị thông qua bản tuyên bố rằng thế giới lúc này
đã chia thành hai phe: phe ĐQCN do Mỹ đứng đầu và phe XHCN do Liên Xô đứng
đầu. Hội nghị quyết định thành lập cơ quan thông tin của một số ĐCS và công nhân với
tên gọi "Cục thông tin quốc tế" (KOMINFORM). Còn sau đó, để đối phó với khối
NATO, tháng 5.1955, tại Vacsava đã ra đời một Liên minh chính trị-quân sự của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu với việc ký kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương
trợ Vacsava (gọi tắt là Hiệp ước Vacsava).
Cùng với sự tồn tại của khối NATO do Mỹ chi phối và chỉ huy, sù ra đời của
khối Vacsava do Liên Xô đứng đầu đã đẩy lục địa Châu Âu đến một cuộc đối đầu trực
tiếp giữa hai khối chính trị-quân sự hùng mạnh nhất. Sự đối đầu căng thẳng, cuộc
chạy đua vũ trang quy mô lớn (từ vũ khí hạt nhân chiÕn lược và chiến thuật đến vũ
khí thông thường) giữa hai khối là biểu hiện đặc trưng nhất của quan hệ Xô-Mỹ trong
thời kỳ chiến tranh lạnh. Cuộc chạy đua vũ trang đó đạt tới đỉnh cao vào những năm
70, khi hai bên cân bằng vũ khí hạt nhân. Mỹ đã thiết lập hơn 2000 căn cứ quân sự
với khoảng 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài (trong tổng số 3.477.000 quân thường
trực Mỹ). Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân đóng ở các nước khối Vacsava (tập
trung ở CHDC Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô-Trung [89, tr.243].
Bảng 1. Tương quan vũ khí hạt nhân chiến lược
Khối NATO Khối
Vacsava
Tên lửa chiến lược ICBM (loại đặt trên
đất)
Tên lửa SLBM (loại đặt trên tàu ngầm)
Máy bay chiến lược
1.018

672
518
36
1.398
922
160
62
16
Tàu ngầm chiến lược

Bảng 2. Tương quan vũ khí thông thường
Xe tăng Tàu
chiến
Đại bác Trực thăng
tiêm kích
Máy bay
chiến đấu
NATO (1990)
Vacsava (1989)
Trong đó Liên Xô
Các nước Đông Âu
25.091
59.470
41.580
17.890
34.453
70.330
45.000
25.330
20.620

71.560
50.275
21.285
1.736
2.785
2.200
585
5.939
7.876
5.955
1.921
Nguồn: Bảng 1 và 2: Dẫn theo C. M. Rôgốp, Nga và Mỹ trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, Tạp chí
Tư tưởng tự do sè 5/97 (Tiếng Nga), tr. 95.
Ngoài ra, sự đối đầu giữa hai cực Xô- Mỹ còn biểu hiện qua các cuộc chiến tranh
nóng cục bộ giữa các đồng minh của Mỹ, một bên, với các đồng minh của Liên Xô, một
bên khác. Hàng loạt cuộc chiến tranh khu vực ở nhiều nơi trên thế giới (Trung Đông,
Đông Dương, bán đảo Triều Tiên, v.v.) có sự dính líu, can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp
của Mỹ và Liên Xô.
Tuy nhiên, dù buộc phải lao vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ, Liên Xô vẫn
kiên trì cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại vì HOÀ BÌNH, AN NINH VÀ PHÁT
TRIỂN. Trên các diễn đàn quốc tế, trong các cuộc tiếp xúc, đàm phán ở các tổ chức
khu vực cũng như trong quan hệ song phương Xô- Mỹ, các đại diện của Liên Xô bằng
nhiều phương pháp, phương tiện ngoại giao kiên trì đấu tranh nhằm giải trừ quân bị,
cấm thử, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, thiết lập hệ thống an ninh tập thể giữa các
17
nước có chế độ chính trị-xã hội khác nhau,v.v. Về phía Mỹ, do tác động của nhiều
nhân tố khác nhau, cũng buộc phải bắt đầu các cuộc tiếp xúc, đàm phán với Liên Xô
về các vấn đề trên. Từ thập niên 70 bắt đầu có những bước tiến đáng kể trong việc cải
thiện quan hệ Xô-Mỹ. Tháng 5.1972, Tổng thống Mỹ R.Nichxơn đến thăm Liên Xô,
hai bên có những cuộc hội đàm quan trọng, kết quả đã ký được các văn kiện có ý

nghĩa rất tích cực là:
1- Hiệp ước về hạn chế hệ thống phòng thủ chống tên lửa (ABM);
2- Hiệp định tạm thời về hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT-1).
Tháng 7 năm 1974, Hiệp ước ABM được bổ sung thêm một Nghị định thư quy
định mỗi bên chỉ triển khai một hệ thống ABM với số lượng tên lửa giảm một nửa so
với ABM- 1972 (ABM- 1972 quy định mỗi bên Xô- Mỹ có hai hệ thống phòng thủ
chống tên lửa, một ở thủ đô và một ở khu vực có tên lửa chiến lược, với không quá
200 tên lửa chống tên lửa) [113, tr.410]. Có thể nói, Hiệp ước ABM là Hiệp ước tạo
cơ sở cho hai nước Liên Xô và Mỹ ký Hiệp định SALT-1 và sau đó là SALT-2. Các
Hiệp ước ABM, SALT-1 và SALT-2 đã tạo nên sự cân bằng chiến lược về lực lượng
hạt nhân, vừa giữ cho hai siêu cường thoát khỏi nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt
nhân, vừa hạn chế đáng kể cuộc chạy đua vũ trang quy mô toàn cầu.
Nhưng từ năm 1981, khi R.Rigân lên làm Tổng thống Mỹ, quan hệ Xô-Mỹ bắt đầu
căng thẳng trở lại. Vị Tổng thống thuộc Đảng Cộng hoà này đã thực hiện hàng loạt các
động thái đối ngoại nguy hiểm, như bố trí tên lửa tầm trung hiện đại “Pershing” và
“Cruise” ở một số nước Châu Âu, vạch ra kế hoạch “Chiến tranh giữa các vì sao” hay
“Sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI) nhằm phá thế cân bằng quân sự với Liên Xô.
Năm 1985, chi phí quốc phòng Mỹ lên tới gần 400 tỷ USD, chiếm 28% ngân sách Liên
bang và 7% GDP [5, tr.3]. Còn Liên Xô, theo tài liệu của Mỹ, cũng chi phí quốc phòng
lên tới gần 280 tỷ USD, chiếm khoảng 50% ngân sách Liên bang và 10% GDP hàng
18
năm [178]. Theo số liệu của cơ quan kiểm soát lực lượng vũ trang và giải trừ quân bị
Mỹ, chi phí quốc phòng tính theo đầu người của Mỹ lớn hơn 6 lần chỉ số chung của thế
giới, lớn hơn 3 lần so với các nước Tây Âu và lớn hơn 6 lần so với Nhật Bản [178].
Học thuyết quân sự của Rigân “Phản ứng linh hoạt mới” được mệnh danh là “Học
thuyết chạy đua vũ trang, khôi phục vị trí đứng đầu thế giới” đã dẫn đến tình trạng hết
sức phức tạp và căng thẳng trong quan hệ Xô-Mỹ cũng như quan hệ giữa nhiều nước
khác trong suốt nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Rigân.
Năm 1985 đánh dấu bước khởi đầu quá trình thay đổi có tính chất bước ngoặt
trong chính sách đối ngoại cũng như đối nội của Liên Xô. M.Goócbachốp lên nắm

quyền lãnh đạo ở Liên Xô, với “Tư duy chính trị mới” đã có những điều chỉnh chiến
lược đối ngoại nhằm chuyển biến quan hệ từ đối đầu sang đối thoại với Mỹ. Rất nhiều
cuộc gặp cấp cao chính thức và không chính thức giữa M.Goócbachốp với R.Rigân
rồi với G.Busơ đã được tiến hành. Cuộc gặp chính thức cấp cao Xô- Mỹ có ý nghĩa
quan trọng đầu tiên là cuộc gặp giữa M. Goócbachốp và R.Rigân tại Râygiavích
(Aixơlen). Tại đây, những người đứng đầu hai Nhà nước Liên Xô và Mỹ đã bắt đầu
những cuộc đàm phán khá phức tạp về cắt giảm vũ khí hạt nhân, kể cả vũ khí hạt nhân
chiến lược. Những cuộc đàm phán tiếp nối sau đó đã dẫn đến chỗ nhiều văn kiện song
phương Xô- Mỹ đã được ký kết, trong đó quan trọng nhất là Hiệp ước về vũ khí hạt
nhân tầm trung (Intermediate-range Nuclear Forces- INF) tháng 12.1987. Theo Hiệp
ước này, hai bên thoả thuận phá huỷ khoảng 3% kho vũ khí hạt nhân của mỗi nước
gồm hàng trăm tên lửa tầm trung và tầm ngắn, có khả năng tiếp cận mục tiêu xa dưới
3.400 dặm và cho phép tiến hành kiểm tra bất ngờ các cơ sở hạt nhân của nhau. Tháng
12 năm 1989 diễn ra cuộc gặp không chính thức, song thực sự là “cuộc gặp lịch sử”
giữa M.Goócbachốp và G.Busơ tại đảo Manta trên Địa Trung Hải. Tại đây, Tổng bí
thư BCH trung ương ĐCS Liên Xô M.Goócbachốp và Tổng thống Mỹ G.Busơ tuyên
19
bố từ nay Liên Xô và Mỹ không coi nhau là kẻ thù, thoả thuận cắt giảm vũ khí hạt
nhân chiến lược và tăng cường hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề quốc tế,
Đây là cuộc gặp thu hút sự chú ý của dư luận thế giới và được coi là thời điểm bắt đầu
kết thúc thời kỳ “chiến tranh lạnh” giữa hai siêu cường. Gần một năm sau, tháng 11
năm 1990, Hội nghị Paris lịch sử diễn ra với sự có mặt của G.Busơ, M.Goócbachốp,
các nhà lãnh đạo của 20 quốc gia thành viên khối NATO và khối Vacsava. Tại đây
các nhà lãnh đạo kể trên đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau và chính thức ra
tuyên bố chung chấm dứt Chiến tranh lạnh (Hiến chương Paris 11/1990).
Kể từ đó, quan hệ Xô-Mỹ thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác giải
quyết những vấn đề quốc tế, những tranh chấp, xung đột vũ trang giữa hai khối và giữa
một số nước ở các khu vực trên thế giới (Ápganistan, Cămpuchia, Namibia, Trung
Đông, ). Trong số những thoả hiệp, nhượng bộ bất lợi cho Liên Xô của M.Goócbachốp
phải kể đến việc Tổ chức Hiệp ước Vacsava tuyên bố tự giải thể tháng 3.1991.

Một Hiệp ước có ý nghĩa tích cực hơn, đánh dấu lần hoà dịu cuối cùng trong
quan hệ Xô-Mỹ là “Hiệp ước hạn chế và giảm bớt vũ khí tiến công chiến lược”
(START- 1) được G.Busơ và M.Goócbachốp ký ngày 31 tháng 7 năm 1991. Theo các
thoả thuận đạt được giữa hai Tổng thống, Mỹ và Liên Xô sẽ thủ tiêu khoảng 1/3 kho
vũ khí hạt nhân chiến lược của mỗi bên trong vòng 7 năm tính từ ngày ký.
Tuy nhiên, do tác động của hàng loạt nhân tố, cả chủ quan lẫn khách quan, cả
bên trong lẫn bên ngoài, siêu cường Liên bang Cộng hoà XHCN Xô viết- một trong
những nhà nước hùng mạnh bậc nhất trong nền chính trị thế kỷ XX-đã phải chấm dứt
sự tồn tại của mình vào cuối năm 1991. Tính từ thời điểm lịch sử này, 15 nước Cộng
hoà Xô viết chính thức trở thành các quốc gia độc lập, có chủ quyền, những chủ thể
pháp lý quốc tế mới, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế thừa nhận.
20
Sù tan rã của Liên bang Xô viết và sự ra đời của 15 quốc gia độc lập trong không
gian hậu Xô viết cũng đồng nghĩa với sự tan rã của trật tự thế giới hai cực để bắt đầu
cho quá trình tìm kiếm, kiến tạo một trật tự thế giới mới.
Như vậy, cuộc “chiến tranh lạnh” do giới cầm quyền Mỹ phát động sau chiến
tranh thế giới thứ hai, kéo dài hơn 4 thập niên giữa hai siêu cường Xô- Mỹ đứng đầu
hai khối đối địch, có đặc trưng cơ bản là tình trạng đối đầu và không khí thù địch, từ
đây chấm dứt. Kể từ thời điểm này, trong lĩnh vực quan hệquốc tế bắt đầu một thời kỳ
mới-thời kỳ “sau chiến tranh lạnh”.
1.1.2. Quan hệ kinh tế- thương mại và khoa học- kỹ thuật Xô - Mỹ
Quan hệ kinh tế- thương mại chính thức giữa Liên Xô và Mỹ được đánh dấu
bằng “Hiệp định về quan hệ thương mại Xô-Mỹ” ký ngày 13 tháng 7 năm 1935. Sau
một thời gian thực hiện, Hiệp định thương mại Xô-Mỹ năm 1935 được điều chỉnh, rồi
được thay bằng Hiệp định thương mại ký ngày 4 tháng 8 năm 1937. Hiệp định thương
mại Xô-Mỹ năm 1937 ghi rõ rằng Mỹ và Liên Xô sẽ giành cho nhau quy chế tối huệ
quốc (MFN) vô điều kiện và không hạn chế trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến
thuế quan mậu dịch, thuế doanh thu, thể lệ và thủ tục xuất khẩu, đến việc bán và sử
dụng hàng Nga ở Mỹ và Liên Xô. Phía Mỹ bảo đảm rằng mọi ưu tiên, ưu đãi nêu trên,
đã hoặc sẽ được Mỹ giành cho nước thứ ba, cũng sẽ ngay lập tức giành cho Liên Xô.

Còn phía Liên Xô thì có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp nhằm tăng khối lượng hàng
nhập khẩu từ Mỹ.
Có thể nói, Hiệp định thương mại năm 1937 tạo nền tảng pháp lý đầu tiên thúc
đẩy quan hệ kinh tế-thương mại Xô-Mỹ phát triển khá mạnh cho đến vài năm sau
chiến tranh thế giới thứ II.
Tuy nhiên, cùng với việc phát động cuộc “chiến tranh lạnh”, Mỹ bắt đầu thực
hiện những biện pháp hạn chế thương mại với Liên Xô. Chẳng hạn, từ đầu năm 1947,
21
chính phủ Mỹ ngừng cung cấp máy móc, thiết bị cho Liên Xô; năm 1949 áp dụng chế
độ cấp quota sang Châu Âu nhằm chống lại Liên Xô, Đặc biệt, Mỹ bắt đầu thi
hành Luật kiểm soát xuất khẩu, mà theo luật này, người ta đã áp dụng các hạn ngạch
có tính chất phân biệt đối xử đối với hàng Mỹ xuất sang Liên Xô. Năm 1951, Mỹ
thông qua cái gọi là Luật Bettla nhằm bắt các nước khác thống nhất với Mỹ trong
chính sách hạn chế thương mại với Liên Xô. Cuối cùng, ngày 21 tháng 6 năm 1951,
Mỹ đơn phương huỷ bỏ Hiệp định thương mại Xô-Mỹ năm 1937. Tính từ thời điểm
này, quan hệ kinh tế-thương mại giữa 2 nước bắt đầu suy giảm mạnh.
Nhìn chung, cho đến tận đầu thập niên 90, quan hệ kinh tế-thương mại Xô-Mỹ ở
mức rất thấp và luôn bị sự đối đầu về ý thức hệ giữa hai hệ thống chính trị-xã hội chế
ước ở mức đáng kể. Những quan hệ làm ăn buôn bán giữa hai nước không hiếm khi
trở thành vật hy sinh của cuộc đối đầu tư tưởng Êy, nên thường mang tính chất không
vững chắc, bị gián đoạn hoặc đổ vỡ. Cơ cấu trao đổi kinh tế thời kỳ “chiến tranh lạnh”
giữa hai nước có đặc trưng nổi bật là biến dạng và rất mất cân đối. Trên thực tế,
thương mại Xô-Mỹ giới hạn ở việc Liên Xô mua từ Mỹ ngũ cốc cho gia súc và một số
lô hàng nhỏ các thiết bị đồng bộ, còn bán sang Mỹ một khối lượng hạn chế sản phẩm
từ dầu mỏ, hàng hoá học, một số sản phẩm truyền thống như rượu vốt ca, trứng cá,
cua Cán cân thương mại nói chung nghiêng về phía có lợi cho Mỹ nhiều hơn.
Vật cản nghiêm trọng trong việc phát triển quan hệ kinh tế-thương mại bình
thường giữa Liên Xô và Mỹ còn do có những barie đủ loại, trước hết là trong các bộ
luật của Mỹ. Các bộ luật này đưa ra nhiều điều kiện chính trị khác nhau làm hạn chế
đáng kể quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao. Chẳng hạn,

điều luật Giắcxơn-Vanich khét tiếng ra đời năm 1974, bổ sung cho phần II của Luật
thương mại Mỹ, nhằm ngăn cấm giành cho các nước XHCN quy chế tối huệ quốc
22
(MFN) trong thương mại và ngăn cản các nước này tham gia vào các chương trình
kinh tế đối ngoại của chính phủ Mỹ,
Về quan hệ khoa học- công nghệ Xô- Mỹ, thì trong bối cảnh đối đầu gay gắt giữa
hai khối, quan hệ đó không thể không mang tính chất hạn hẹp, tạm thời. Các trí tuệ
siêu việt ở cả hai nước thường chỉ chú ý tập trung nghiên cứu làm sao đạt được ưu thế
quân sự so với phía bên kia. Tuy nhiên, hai nước cũng đã ký được một số Hiệp định
về hợp tác trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, nhất là từ những năm 70.
Chẳng hạn, năm 1972 ký Hiệp định về hợp tác khoa học-kỹ thuật; năm1973 ký Hiệp
định về hợp tác trong lĩnh vực sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình;
năm 1974 ký Hiệp định về hợp tác nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ vào
mục đích hoà bình, v.v. Chuyến bay vũ trụ mà hai nước thực hiện năm 1975 theo
chương trình nghiên cứu vũ trụ “Soiuz-Apollon” đã đi vào lịch sử như là đỉnh cao của
quan hệ hợp tác Xô-Mỹ hiếm hoi.
Về tổng thể, từ năm 1933 đến 1991, Liên Xô và Mỹ đã ký các Hiệp định, Hiệp
ước trong các lĩnh vực kinh tế-thương mại, khoa học-kỹ thuật-công nghệ như sau:
Bảng 3.1. Quan hệ kinh tế-thương mại Liên Xô 1933-1991 qua các Hiệp định đã ký
Thương
mại
Tài chính Đánh

Xí nghiệp
liên doanh
Thuế
quan
Đầu tư Công
nghiệp
13 20 18 6 4 0 23

Bảng 3.2. Các Hiệp định hợp tác khoa học- kỹ thuật- công nghệ mà
Liên Xô và Mỹ đã ký
Trong lĩnh vực năng
lượng hạt nhân
Trong lĩnh vực nghiên cứu
khoảng không vũ trụ
Trong lĩnh vực y học
11 11 7
Nguồn: Bảng 3.1 và 3.2 Dẫn theo Kredin, Tạp chí Đời sống quốc tế số 4/1998, tr.12. (Tiếng Nga)
23
Để thực hiện các hiệp định, hiệp ước, thoả ước đã ký, Liên Xô và Mỹ đã thành
lập một số cơ quan liên chính phủ nhằm thực thi, giám sát và điều tiết quan hệ tương
ứng với các văn bản đó. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi điều khoản đã được
hai bên thoả thuận trong các văn bản Êy được thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ, chưa
nói đến việc nhiều Hiệp định, Hiệp ước được ký mà không được thực hiện.
Trong lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại, có một điểm rất đáng chú ý là tình trạng
biệt lập, đóng cửa, đóng khung quan hệ kinh tế trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh
tế) của Liên Xô. Tất nhiên, có tình trạng này là do Mỹ và các nước phương Tây thực
hiện chính sách bao vây, cấm vận, phong toả kinh tế Liên Xô và các nước XHCN, vốn
sinh sau đẻ muộn lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hoàn cảnh lịch sử đó đã đẩy lùi khả
năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế-thương mại, khoa học-công nghệ của Liên Xô với
Mỹ nói riêng, với thế giới bên ngoài khối SEV nói chung. Song điều đáng nói là, khi
đóng khung quan hệ kinh tế- thương mại trong khối SEV, Liên Xô đã thực hiện quan hệ
đó chủ yếu theo kiểu bao cấp nên vừa kém hiệu quả, vừa lãng phí các nguồn lực. Hậu
quả là Liên Xô đánh mất các lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế; nền kinh
tế Liên Xô tụt hậu ngày càng xa so với Mỹ và các nước tư bản phát triển.
Đó là di sản quan hệ chính trị-quân sự, kinh tế-thương mại và khoa học- kỹ thuật
song phương mà Nga và Mỹ kế thừa khi bước sang thời kỳ “sau chiến tranh lạnh”. Rõ
ràng chỉ để vứt bỏ những chướng ngại vật mà “chiến tranh lạnh” để lại không thôi cũng
đã cần không Ýt nỗ lực và thời gian của cả hai nước. Thế mà bức tranh thế giới thời kỳ

“sau chiến tranh lạnh” có một đặc điểm nổi bật là rất không rõ ràng. Đúng như một học
giả Phương Tây đã nhận xét, “Với việc chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới trở nên Ýt
nguy hiểm hơn, nhưng đồng thời cũng Ýt ổn định hơn và khó tiên đoán hơn” [137]. Sù
tan rã nhanh chóng của Liên Xô trong tư cách một cơ cấu địa- chính trị ổn định trong
khi chưa có một cơ cấu chuyển tiếp thích hợp khiến cho các mối QHQT bị xáo trộn,
24
gây khó khăn rất lớn cho nhiều nước, trước hết là LB Nga và các nước Cộng hoà Xô
viết cũ. Các mối quan hệ giữa Liên bang Nga và Mỹ còn liên quan chặt chẽ đến thực
trạng chính trị, kinh tế, xã hội của từng nước, đến ý đồ và tham vọng của ban lãnh đạo
từng nước trên trường quốc tế, đến các lĩnh vực quan hệ đa phương khác, đến những
thay đổi to lớn đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội loài người trên phạm vi toàn
cầu và ở các khu vực khác nhau, v.v Chúng tôi sẽ tập trung xem xét các quan hệ chính
trị- đối ngoại, quân sự- an ninh, kinh tế- thương mại và khoa học- công nghệ giữa hai
đối thủ cũ này trong tổng thể các mối quan hệ chằng chịt, ràng buộc và chi phối lÉn
nhau đó.
1.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Liên bang Nga từ sau khi
Liên Xô tan rã đến cuối thập niên 90
Nói về Nga- nước Cộng hoà lớn nhất, có tiềm lực mạnh nhất của Liên bang Xô
viết- thì ngay từ ngày 12.6.1990, Xô viết tối cao Cộng hoà XHCN Xô viết Liên bang
Nga đứng đầu là B.Enxin đã ra Tuyên bố về chủ quyền quốc gia của Nga. Sự kiện này
đánh dấu bước khởi đầu của việc hình thành một “nước Nga mới” từ lúc còn nằm
trong thành phần của Liên Xô. Đúng một năm sau, Cộng hoà XHCN Xô viết LB Nga
tiến hành cuộc bầu cử Tổng thống Nga đầu tiên. B.Enxin trúng cử Tổng thống, càng
xúc tiến mạnh mẽ hơn cuộc đấu tranh giành quyền lực với chính quyền trung ương
Liên bang. Nhưng cũng phải sau khi Liên Xô chính thức bị xoá tên trên bản đồ chính
trị thế giới, thì Nga cũng như các nước Cộng hoà Xô viết cũ khác mới thật sự trở
thành các quốc gia độc lập, có chủ quyền, những chủ thể pháp lý quốc tế mới, được
LHQ và cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Liên bang Nga bước ra vũ đài quốc tế không chỉ như mét trong những nước kế
thừa chính thống Liên Xô, mà còn được tiếp nhận quy chế đặc biệt “Quốc gia kế tục

Liên Xô”. Quy chế này thể hiện ở ba khía cạnh sau:
25

×