Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Chuyên Đề Tác động của hiệp ước start mới đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.7 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ƯỚC START MỚI
ĐẾN VẤN ĐỀ CHỐNG PHỔ BIẾN VŨ KHÍ HẠT NHÂN
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60.31.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội – tháng 7 năm 2011
Có thể tìm hiểu Luận văn tại Thư viện Học viện Ngoại giao - Bộ Ngoại giao
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình học Thạc sỹ ngành QHQT tại Học viện
Ngoại giao và bài Luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực tìm tòi của bản thân, tôi
còn may mắn nhận được nhiều sự giúp đỡ và đóng góp vô cùng to lớn của các
thầy, các cô, bạn bè trong Học viện.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn vô cùng sâu sắc đến
TS. Đỗ Sơn Hải, Trưởng khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao Việt Nam,
Học Viện Ngoại Giao, người đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tôi
trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này. Thầy đã dành cho tôi lòng
nhiệt huyết, sự tận tâm và sự kiên nhẫn không mệt mỏi từ khi tôi còn lúng
túng, băn khoăn trong việc triển khai đề tài đến khi tôi hoàn thành luận văn
này. Thầy cũng là người truyền cho tôi nhiệt huyết và lòng yêu nghề trong
công việc.
Tôi xin gửi đến PGS. TS Nguyễn Thái Yên Hương, trưởng khoa Đào
tạo sau Đại học lòng kính trọng và lời cảm ơn chân thành nhất. Sự tận tụy, say
mê, nhiệt tình cũng như sự nghiêm khắc của cô đã giúp tôi trưởng thành hơn
trong cuộc sống, trong học tập, và đặc biệt tôi đã học tập được rất nhiều điều
từ cô. Đồng thời, tôi xin cảm ơn em Hà Huyền Trang vì sự giúp đỡ của em
trong suốt quá trình học. Tôi cũng chị Quỳnh, anh Tân – Khoa Đào tạo sau
Đại học vì những lời khuyên bổ ích dành cho tôi.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến gia


đình, bạn bè và những người luôn bên tôi trong suốt thời gian qua. Gia đình là
nguồn cổ vũ lớn lao, là nơi chắp cánh cho ước mơ của tôi thành hiện thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ABM Anti - Ballistic Missile Treaty Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo
ASEAN
Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
CTBT
Comprehensive Nuclear Test
Ban Treaty
Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt
nhân toàn diện
EU European Union Liên minh Châu Âu
FMCT Fissile Material Cutoff Treaty
Hiệp ước cấm sản xuất chất phân
hạch phục vụ chế tạo vũ khí hạt
nhân
IAEA
International Atomic Energy
Agency
Cơ quan năng lượng Nguyên tử
Quốc tế
INF
Intermediate Range Nuclear
Forces Treaty
Hiệp ước hủy bỏ vũ khí hạt

nhân tầm trung và tầm ngắn
MIRV
Multiple Independently
targetable Reentry Vehicle
Tên lửa mang nhiều đầu đạn
có thể tự tách, định vị mục tiêu
độc lập
NATO
North Atlantic treaty
Ozganization
Tổ chức Hiệp ước Bắc đại tây
dương
NPT Nuclear Non Proliferation Treaty
Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí
hạt nhân
PTBT Partial Test Ban Treaty
Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt
nhân từng phần
SALT I, II Strategic Arms Limitation Treaty
Hiệp định hạn chế vũ khí
chiến lược
SLBM
Submarine – Lauched Ballistic
Missile
Tên lửa đạn đạo đặt tại tàu
nghầm
SORT
Strategic Offensive Reductions
Treaty
Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn

công chiến lược
START Strategic Arms Reduction Treaty
Hiệp ước cắt giảm vũ khí
chiến lược
VKHN Vũ khí hạt nhân
USD Đồng Đô – la Mỹ
WMD Weapond of mass destruction Vũ khí hủy diệt hàng loạt
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược START mới được Mỹ - Nga ký kết
ngày 8/4/2010 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 5/2/2011. Đây là một trong
những hiệp ước song phương quan trọng nhất giữa hai cường quốc hạt nhân Mỹ
- Nga trong lĩnh vực kiểm soát vũ trang và có ý nghĩa to lớn đối với quá trình
chống phổ biến vũ khí hạt nhân của nhân loại.
Trong bối cảnh sau chiến tranh lạnh, nguy cơ phổ biến và rò rỉ kỹ thuật,
công nghệ, nguyên liệu và vũ khí hạt nhân từ các nhà máy, các phòng thí nghiệm
hay thậm chí từ các kho vũ khí của các quốc gia hạt nhân ngày càng gia tăng.
Chủ thể muốn tìm kiếm và sở hữu công nghệ hạt nhân không chỉ là các quốc gia
đầy tham vọng, mà còn là các chủ thể phi nhà nước như các tổ chức tội phạm
xuyên quốc gia, những thành phần khủng bố cực đoan… Nguy cơ về một cuộc
chiến hạt nhân toàn diện đã giảm bớt, song nhân loại phải đối mặt với nguy cơ
về chiến tranh hạt nhân cục bộ, khủng bố hạt nhân. Mặt khác, sau chiến tranh
lạnh, tiến trình chống phổ biến vũ khí hạt nhân chưa thực sự đạt hiệu quả như
mong đợi của cộng đồng quốc tế. Các cơ chế đa phương vẫn chưa tìm được các
chế tài đủ mạnh để đối phó với các thách thức mới. Thêm vào đó, quá trình đàm
phán nhằm cắt giảm hai kho vũ khí lớn nhất thế giới là Mỹ - Nga không tạo ra
những khuôn khổ pháp lý phù hợp, mà điển hình là sự thất bại trong việc ký kết
hiệp ước START II, START III, việc Mỹ đơn phương rút khỏi Hiệp ước ABM…
Chính thực tế này đã khiến việc ra đời và thực thi hiệp ước START mới có ý
nghĩa to lớn.

Những vòng đàm phán đầu tiên của Hiệp ước START mới bắt đầu từ cuối
năm 2006, song đều thất bại do chính quyền của Tổng thống V. Putin và chính
quyền G. Bush không tìm được tiếng nói chung. Các cuộc đối thoại chỉ bắt đầu
đạt hiệu quả và đem lại những tiến bộ tích cực khi Tổng thống Obama lên cầm
1
quyền vào năm 2009, thể hiện và muốn hiện thực hóa mục tiêu hướng đến “một
thế giới không vũ khí hạt nhân”. Quá trình đàm phán và ký kết hiệp ước START
mới được coi là quá trình đấu tranh lợi ích giữa hai bên, đồng thời tác động lên
nhiều mặt của tiến trình chống phổ biến vũ khí hạt nhân.
Vậy, câu hỏi đặt ra là tại sao Mỹ - Nga lại ký kết và phê chuẩn Hiệp ước
START mới? mục đích của hai bên là gì? Hiệp ước START mới có tác động như
thế nào đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân? Tương lai của Hiệp ước
mới sẽ ra sao, liệu số phận của Hiệp ước mới có giống như START II năm 1993,
hay Hiệp ước ABM?
Lĩnh vực nghiên cứu về vũ khí hạt nhân, phổ biến và chống phổ biến loại
vũ khí có tính hủy diệt cao này đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, các nhà
nghiên cứu về quan hệ quốc tế trên thế giới. Trong khi đó, tại Việt Nam, việc
nghiên cứu vấn đề phổ biến và chống phổ biến hạt nhân lại chưa nhận được sự
đầu tư, quan tâm thích đáng. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của Hiệp
ước START mới đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân” làm đề tài Luận
văn tốt nghiệp, với hy vọng sẽ đóng góp vào công tác nghiên cứu vấn đề phổ
biến và chống phổ biến vũ khí hạt nhân giai đoạn sau chiến tranh lạnh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nội dung của luận văn hướng tới:
• Làm sáng tỏ nội dung của Hiệp ước START mới, những điểm mới so với
Hiệp ước START I là gì?
• Xem xét những tác động của Hiệp ước START mới đối với vấn đề chống
phổ biến vũ khí hạt nhân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu, tác giả đưa ra những nhiệm

vụ nghiên cứu cụ thể sau:
• Tìm hiểu khái niệm về vũ khí hạt nhân; tính chất và vai trò của loại vũ khí
này đối với nền chính trị quốc tế đương đại. Làm rõ nội hàm của hai khái
2
niệm khác là “phổ biến” và “chống phổ biến” vũ khí hạt nhân, qua đó trả
lời câu hỏi “tại sao phải ngăn chặn loại vũ khí này lan tràn?”
• Lý giải tại sao Mỹ - Nga tiến hành ký kết Hiệp ước START mới?
• Nội dung của START mới và những tác động ban đầu của nó, đặc biệt là
đối với việc chống phổ biến VKHN?
• Đồng thời đánh giá quá trình thực thi Hiệp ước START của Mỹ - Nga gặp
phải khó khăn gì? Những hạn chế mà hiệp ước chưa giải quyết được là gì?
Và đưa ra dự báo, tương lai Hiệp ước sẽ ra sao?
4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Việc nghiên cứu vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân nói chung thu hút
sự quan tâm tương đối lớn của các học giả nước ngoài. Lý giải cho câu hỏi tại
sao các quốc gia lại tìm kiếm vũ khí hạt nhân, có tác phẩm của Scott D. Sagan
“Why do States Build Nuclear Weapons? Three Models in search of a Bomb” –
tác giả đã giải thích tại sao xu hướng phổ biến VKHN ngày càng tăng trong quan
hệ quốc tế, các quốc gia đưa ra những lý do gì để phát triển chương trình hạt
nhân, cũng như đưa ra những đánh giá về vai trò của VKHN trên trường quốc tế.
Những lập luận của tác giả, đồng thời, chính là lý do cản trở quá trình chống phổ
biến VKHN trên thế giới.
Đối với vấn đề chống phổ biến VKHN, có thể kể đến bài nghiên cứu
Resetting US – Russian Leadership on Nuclear Arms Reductions and Non –
Proliferation của các tác giả Steven Pifer, Joseph Cirincione và Clifford Gaddy,
trong đó đề cập đến quá trình tái khởi động quan hệ Mỹ - Nga thời gian gần đây
và tái xác lập vị trí lãnh đạo của hai cường quốc này trong nỗ lực chung chống
phổ biến VKHN trên thế giới. Bài viết cũng đưa ra các đề xuất giúp Mỹ - Nga
tăng cường quan hệ và các biện pháp hợp tác vì mục tiêu “thế giới không vũ khí
hạt nhân”. Tiếp đó, không thể không kể đến những báo cáo của Cơ quan nghiên

cứu của Quốc hội Mỹ với một loạt các bài viết của các chuyên gia về tình trạng
3
kho vũ khí của Mỹ nói riêng và của các nước khác trên thế giới; hay tiến trình
thảo luận, đàm phán các hiệp ước… Ngoài ra, các trung tâm nghiên cứu về chính
trị và quan hệ quốc tế trên thế giới cũng tiến hành và đóng góp những nghiên
cứu riêng về thực trạng phổ biến hạt nhân, các biện pháp cần làm để chống quá
trình này như Arms Control Association, Center for Strategic & International
Studies, hay Monterey Institue of International Studies…
Riêng đối với Hiệp ước START mới được coi là một trong những thành
công của việc hợp tác Mỹ - Nga để cắt giảm đáng kể số lượng vũ khí hạt nhân.
Tuy là một hiệp ước mới ra đời song số lượng các bài nghiên cứu về START
mới ở nước ngoài là tương đối nhiều. Ví dụ bài viết The Case for the New
Strategic Arms Reduction Treaty của nhóm tác giả Tom Z.Collina, Daryl
G.Kimball và các nghiên cứu viên của Arms Control Association. Trong đó,
điểm qua những nội dung chính của Hiệp ước START mới cùng mối quan hệ
Mỹ - Nga trong việc thực thi Hiệp ước. Hoặc bài nghiên cứu SORT-ing Out
START: options for US – Russian Strategic Arms Reductions của Stephen J.
Cimbala, cho người đọc một cái nhìn sơ lược về nội dung của Hiệp ước START
mới cũng như lực lượng hạt nhân của Mỹ - Nga trong tương lai khi thực hiện
thành công hiệp ước.
Các tác phẩm, bài nghiên cứu đều thống nhất mối nguy hiểm của vũ khí hạt
nhân ngày càng gia tăng và đòi hỏi các quốc gia phải hành động thực chất hơn để
ngăn chặn sự phổ biến, lan tràn loại vũ khí này, đặc biệt tránh rơi vào tay những
kẻ khủng bố. Đồng thời nêu ra những đóng góp ban đầu của Hiệp ước START
mới vào tiến trình chống phổ biến hạt nhân trên thế giới. Tuy nhiên, các tài liệu
chưa nêu bật được những hạn chế của START mới, hay nói cách khác, là những
mặt chưa thực hiện được của START mới đối với quá trình chống phổ biến
VKHN toàn cầu.
Tại Việt Nam, Hiệp ước START mới nói riêng và những vấn đề xung
quanh việc phổ biến VKHN nói chung lại là một đề tài khá mới, hiện không có

4
nhiều công trình nghiên cứu hoặc các ấn phẩm dạng sách viết bằng tiếng Việt.
Tại trường Đại học Khoa học xã hội Nhân văn Hà Nội có Luận án Tiến sỹ của
TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy với đề tài “Hoa Kỳ với quá trình kiểm soát và cắt
giảm vũ khí hạt nhân trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945 - 1991)”. Bên cạnh
đó, có luận văn thạc sỹ “Chính sách chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
của Mỹ sau sự kiện 11.9.2001” của ThS. Nguyễn Thị Hương, Học viện Ngoại
giao. Ngoài ra, cũng đã có một số bài báo, sách và đề tài đề cập gián tiếp đến chủ
đề mà Luận văn bàn tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, ký kết và
phê chuẩn của Hiệp ước START mới từ năm 2006 đến nay. Tuy nhiên, trong quá
trình viết, tác giả sẽ đề cập đến các nỗ lực, biện pháp của các nước trên thế giới
trong các giai đoạn từ trong chiến tranh lạnh, sau chiến tranh lạnh đến nay.
Về đối tượng nghiên cứu: đề tài sẽ nghiên cứu tổng thể lịch sử hình thành
Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược Mỹ - Nga, tuy nhiên sẽ tập trung vào Hiệp
ước START mới được ký kết năm 8/4/2010.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, cũng như thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu trên, Luận văn sẽ sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử: điểm lại lịch sử hình thành và phát triển của các hiệp
ước START, từ đó làm cơ sở để phân tích Hiệp ước START mới, lý giải tại sao
lại cần hiệp ước START mới.
Phương pháp thống kê: người viết thu thập dữ liệu từ các thông tin chính
thức của các cơ quan chính phủ, Quốc hội, các Bộ của Mỹ, Nga hoặc các cơ
quan nghiên cứu trên thế giới. Đây là bước cần thiết để xây dựng các giả thiết và
chứng minh cho rất nhiều phần trong bài viết.
5
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn cũng phân tích các mặt tích
cực, và còn hạn chế của hiệp ước START mới đối với quan hệ Mỹ - Nga nói

riêng và đối với tiến trình chống phổ biến VKHN nói chung.
Phương pháp hệ thống: đặt Hiệp ước START mới trong tiến trình chung
giải giáp vũ khí của thế giới, để thấy vai trò của Hiệp ước START nằm ở đâu,
tác động của START đến quy chế không phổ biến toàn cầu như thế nào.
7. Bố cục và nội dung chính
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, phần chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Hiệp ước START
Chương này sẽ làm rõ một số khái niệm dùng trong bài Luận văn: vũ khí hạt
nhân là gì? Tính chất, vai trò của loại vũ khí này trong quan hệ quốc tế; cũng như
khái niệm và nội hàm về phổ biến và chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Mặt khác,
chương I sẽ đưa ra một bức tranh tổng thể về quá trình đàm phán, ký kết một loạt
các hiệp định cắt giảm vũ khí song phương giữa Mỹ và Nga là START I, START II
và định hình khuôn khổ START III. Từ đó, có thể thấy START mới là một trong
những bước phát triển nữa của việc hợp tác giải giáp vũ khí của Mỹ - Nga.
Chương 2: Hiệp ước START mới và những tác động đến vấn đề chống
phổ biến vũ khí hạt nhân
Đây là phần chính của bài Luận văn. Trong chương này, người viết sẽ
đưa ra các cơ sở ký kết hiệp ước nhằm trả lời cho câu hỏi: tại sao Mỹ - Nga
lại ký kết START mới? lợi ích của Mỹ và Nga trong việc cắt giảm kho vũ khí
hạt nhân của mình là gì? Đồng thời chương II sẽ hệ thống hóa lại các quá
trình đàm phán, ký kết hiệp ước START mới giữa Mỹ - Nga, trong đó, người
viết có lý giải tại sao có giai đoạn đàm phán START mới không thành công.
Người viết cũng nên ra những nội dung cơ bản của Hiệp ước START mới để
người đọc có thể hình dung được những lĩnh vực Mỹ - Nga muốn cắt giảm,
hạn chế. Từ đó, làm nền tảng để xác định những tác động chính của Hiệp ước
đối với tiến trình chống phổ biến VKHN.
6
Chương 3: Triển vọng thực hiện Hiệp ước START mới
Để có thể dự báo, xác định tương lai của Hiệp ước START và vấn đề chống
phổ biến VKHN sẽ đi đến đâu, người viết sẽ nêu ra những khó khăn trong quá

trình thực hiện START mới, đặc biệt là việc phê chuẩn Hiệp ước. Bên cạnh đó,
chương III sẽ đề cập đến những hạn chế của Hiệp ước START mới trong quá
trình thực thi. Từ những dữ liệu về những khó khăn mang tính khách quan, và
những hạn chế mang tính chủ quan của Hiệp ước, tác giả sẽ nêu ra triển vọng
hợp tác trong khuôn khổ START mới giữa Mỹ - Nga cũng như trong lĩnh vực
chống phổ biến VKHN trong thời gian sắp tới./.
7
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP ƯỚC START
1.1. Vũ khí hạt nhân và vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân
1.1.1. Vũ khí hạt nhân
* Khái niệm
Vũ khí hạt nhân được biết đến là một trong những loại vũ khí hủy diệt hàng
loạt; khi nổ sẽ giải phóng một lượng nhiệt khổng lồ, do chuỗi phản ứng phân
hạch hoặc/và nhiệt hạch tạo ra [87]. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương
trên phạm vi rộng lớn trong một lần sử dụng, đồng thời có sức công phá mạnh
hơn bất kỳ loại vũ khí thông thường nào [3].
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, nghiên cứu hạt nhân đã có những bước
phát triển đáng kể, khi mà các nhà khoa học đã giải mã được bí ẩn của sự phân
tách hạt uranium. Trước khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ, các nhà khoa học
vật lý hàng đầu của Hoa Kỳ, trong đó có Albert Einstein đã cảnh báo chính phủ
Mỹ về sự nguy hiểm của bom nguyên tử và khả năng Adolf Hitler – Đức quốc xã
có thể chế tạo và sử dụng loại vũ khí này trong chiến tranh. Năm 1939, Chiến
tranh thế giới II nổ ra khiến việc nghiên cứu, sáng chế ra VKHN kết hợp chặt
chẽ với chính trị, tác động mạnh đến quan hệ quốc tế. Các nước lớn trên thế giới
như Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Liên Xô thời kỳ này đã đầu tư một lượng lớn nhân
lực, vật lực cho việc chế tạo nhằm chiếm được vị trí có lợi trong cuộc chiến [6;
185]. Đặc biệt, sau sự kiện Nhật Bản tấn công Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng tháng
12/1941, Quốc hội Mỹ đã quyết định tài trợ nhiều hơn cho hoạt động nghiên cứu
quân sự trong đó có chế tạo bom nguyên tử thông qua “Dự án Manhattan” trị giá

2 tỷ USD. Ngày 16/7/1945, Hoa Kỳ đã thử thành công VKHN đầu tiên mang
mật danh “Trinity” tại Alamogordo, bang New Mexico. Mỹ trở thành quốc gia
đầu tiên và duy nhất vào thời điểm đó sở hữu thứ vũ khí mới này.
8
Sau chiến tranh thế giới II, kho VKHN trên thế giới đã không ngừng gia
tăng về số lượng, chủng loại do có nhiều quốc gia đã nghiên cứu thành công loại
vũ khí này: Tháng 8/1949, Liên Xô đã thử thành công bom nguyên tử; năm 1953
và 1954, cả Mỹ và Liên Xô đã lần lượt cho nổ thành công một loại VKHN có
sức công phá lớn hơn nhiều so với bom nguyên tử - đó là bom khinh khí. Anh
được Hoa Kỳ chia sẻ thông tin về dự án Manhattan, cũng đã trở thành nước thứ 3
trên thế giới sở hữu VKHN vào năm 1953. Trong thập kỷ 1950 và 1960, Pháp,
Trung Quốc lần lượt gia nhập “câu lạc bộ hạt nhân” trên thế giới; Ấn Độ, Israel,
Nam Phi, Pakistan trong thời kỳ này đã tìm cách phát triển VKHN [6; 168].
Các quốc gia không chỉ tìm cách nghiên cứu, chế tạo các loại VKHN khác
nhau như bom nguyên tử, bom khinh khí; mà các công cụ vận chuyển hạt nhân
cũng được chú ý nâng cấp như máy bay ném bom, tên lửa. Tốc độ, lộ trình của
máy bay ném bom, chủng loại, tầm bắn, độ chính xác của tên lửa được nghiên
cứu và phát triển không ngừng. Các loại máy bay ném bom chiến lược và tên lửa
vượt đại dương có khả năng đưa đầu đạn hạt nhân đến đúng mục tiêu dù cách xa
hàng nghìn dặm. Tên lửa mang một hoặc nhiều đầu đạn hạt nhân, tên lửa cơ
động, tên lửa hành trình… không chỉ bắn trúng mục tiêu mà còn khiến một quốc
gia không thể đề phòng. Tóm lại, vũ khí hạt nhân không chỉ được hiểu là các
loại bom gây nổ như bom nguyên tử, bom khinh khí mà còn bao gồm cả các
công cụ vận chuyển chúng như tên lửa đạn đạo, máy bay ném bom hạng nặng…
* Tính chất và vai trò của VKHN trong quan hệ quốc tế
Trước hết phải khẳng định, VKHN có tính tàn phá và hủy diệt cao. Vũ khí
có sức công phá tương đương với 10 triệu tấn thuốc nổ có thể phá hủy hoàn toàn
một thành phố. Nếu sức công phá là 100 triệu tấn, thì có thể phá hủy một vùng
với bán kính 100 – 160 km. Loại vũ khí này không chỉ có sức hủy diệt và phá
hoại trên quy mô lớn mà còn để lại hậu quả nghiêm trọng đối với con người và

môi trường trong hàng chục năm sau [87].
9
Hai quả bom mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima và Nagasaki ngày 6 và ngày
9 tháng 8 năm 1945 đã chứng minh điều đó. Sau vụ nổ khủng khiếp này, hai
phần ba thành phố Hiroshima bị phá hủy với hơn 140.000 người chết và tại
thành phố Nagasaki, hơn 80.000 người chết, hàng trăm nghìn người nhiễm
phóng xạ, gây tổn thất lớn về cơ sở vật chất [45]. Chỉ riêng hai quả bom nguyên
tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản đã có sức mạnh tương đương với tổng số
bom đạn ném xuống các thành phố của Đức trong Chiến tranh thế giới II, bên
cạnh đó là những hậu quả lâu dài, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và môi
trường mà Nhật Bản ngày nay vẫn đang phải đối phó. Trong khi đó, một quả
bom khinh khí có sức mạnh lớn gấp nhiều lần so với bom nguyên tử và tương
đương với vài trăm ngàn tấn thuốc nổ thông thường.
Xuất phát từ tính chất hủy diệt ghê gớm của loại vũ khí này, VKHN trở
thành một “thủ đoạn quân sự hoàn toàn khác so với vũ khí truyền thống hoặc vũ
khí thông thường” [6; 188]. Sự xuất hiện của nó đã có ảnh hưởng rất to lớn đến
nền chính trị quốc tế. Việc làm chủ VKHN có thể làm gia tăng nhảy vọt sức
mạnh quốc gia cả về tiềm lực kinh tế, khả năng quốc phòng lẫn tinh thần dân tộc
và uy tín quốc tế. Khác với các loại vũ khí thông thường, VKHN có thể làm đảo
lộn tương quan lực lượng và cân bằng chiến lược, trở thành một công cụ răn đe
hiệu quả giữa các nước trên thế giới [62]. Tuy nhiên, mặt trái của tham vọng sở
hữu VKHN không chỉ là sự tiêu tốn những nguồn lực khổng lồ, mà còn kích
động các chủ thể sở hữu hạt nhân trở nên liều lĩnh, khiến cho “bất cứ cuộc khủng
hoảng nào giữa hai quốc gia cũng đứng trước rủi ro mất kiểm soát” [7; 3]. Việc
một chủ thể trên trường quốc tế đạt được VKHN hoặc tiến tới ngưỡng hạt nhân
chiến lược đều có thể gây xáo trộn nghiêm trọng cục diện thế giới. Một cuộc
chạy đua sản xuất VKHN, trước hết giữa Liên Xô và Mỹ, đã khiến cho quan hệ
quốc tế luôn bị đặt trong tình trạng căng thẳng “bên miệng hố chiến tranh”. Song
do tính hủy diệt của loại vũ khí này, mức độ căng thẳng sẽ được kiểm soát,
không dẫn đến sự đối kháng trực tiếp giữa các quốc gia, nói cách khác, ở phương

10
diện toàn cầu, VKHN có vai trò tăng tính bền vững cho nền hòa bình thế giới,
duy trì tính ổn định của cấu trúc quan hệ quốc tế. Điều này đã được minh chứng
rất rõ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, khi hai siêu cường Mỹ và Liên Xô tiến
hành chạy đua vũ trang, lấy VKHN làm công cụ răn đe lẫn nhau:
Trong Chiến tranh lạnh, tư duy đối kháng quyết liệt theo kiểu phe, khối dẫn
đến việc các quốc gia đặc biệt quan tâm đến các biện pháp nhằm tăng cường sức
mạnh quân sự. Bởi tính chất tàn phá ghê gớm của VKHN, nên bất kỳ quốc gia
nào muốn tăng cường an ninh để tạo thế cân bằng với đối thủ đều tìm cách phát
triển loại vũ khí này như một công cụ răn đe. Điều này vô hình chung lại tạo ra
mối đe dọa hạt nhân đối với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới, từ đó,
thúc đẩy các quốc gia này theo đuổi chương trình hạt nhân, phục vụ cho an ninh
quốc gia [74; 57]. Chính tư duy này đã thúc đẩy sự phát triển của VKHN trong
giai đoạn Chiến tranh lạnh.
Từ năm 1945 đến những năm đầu của 1950, Mỹ là quốc gia độc quyền về
hạt nhân, sử dụng VKHN để hỗ trợ khả năng quân sự, luôn ngụ ý rằng sẽ sử
dụng chúng và liên tục thực hiện thử hạt nhân một cách công khai để buộc các
nước thực hiện theo ý chí của mình. Tuy nhiên sau khi Liên Xô thử thành công
vụ nổ hạt nhân đầu tiên vào năm 1949, trò chơi răn đe hạt nhân nguy hiểm bắt
đầu. Cả hai siêu cường đều cảnh báo rằng nếu bị tấn công bằng VKHN, họ sẽ trả
đũa ồ ạt. Họ mở rộng những chiếc ô răn đe hạt nhân cho từng quốc gia đặc biệt
trong quỹ đạo của họ. Từ giữa thập kỷ 1950 cho đến cuối thập kỷ 60, hai siêu
cường chủ yếu chạy đua phát triển những công cụ vận chuyển hạt nhân chiến
lược tầm xa như máy bay ném bom chiến lược, tên lửa đạn đạo vượt đại dương
[6; 210]. Khi kho vũ khí của cả hai bên đã phát triển, họ xây dựng nên chính
sách về sự chắc chắn huỷ diệt lẫn nhau vì mỗi quốc gia đều có đủ vũ khí để tàn
phá hoàn toàn bên kia. Sự nghi kỵ và không chắc chắn về ý đồ của nhau, những
xung đột về chính trị, quân sự, kinh tế xảy ra không ngừng khiến hai quốc gia
luôn đẩy tình trạng an ninh của mình vào báo động đỏ, gia tăng nguy cơ chiến
11

tranh hạt nhân
1
, cũng như nền hoà bình của thế giới luôn bên bờ “miệng hố
chiến tranh”.
Bảng 1: Số lượng vũ khí hạt nhân trên thế giới trong Chiến tranh lạnh
Quốc gia
Năm
1945 1953 1964 1974 1984 1991
Hoa Kỳ 6 1436 31308 28298 23621 20121
Liên Xô 0 120 5221 17385 37431 35000
Anh 0 1 310 325 270 300
Pháp 0 0 4 145 280 540
Trung Quốc 0 0 1 170 215 435
Tổng cộng 6 1557 36844 46323 62017 56396
Nguồn: [14]
Bảng 1.1 cho thấy cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân đã làm kho vũ khí của
thế giới tăng lên nhanh chóng. Những tiến bộ về kỹ thuật hạt nhân mà Liên Xô
đạt được cuối thập niên 50, đầu những năm 60 đã làm thay đổi cán cân lực lượng
hạt nhân giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Liên Xô đã dần rút ngắn khoảng cách về lực
lượng hạt nhân chiến lược đối với Mỹ. Bên cạnh đó, một số quốc gia khác như
Anh, Pháp, Trung Quốc đã từng bước chế tạo thành công và phát triển kho
VKHN của mình
2
. Đáng chú ý, tổng số lượng vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã
giảm dần trong giai đoạn từ những năm 60 là hơn 30.000 đến kết thúc chiến
tranh lạnh là hơn 20.000; tuy nhiên, điều này không có nghĩa sức mạnh hạt nhân
của nước này suy giảm, mà ngược lại, Hoa Kỳ đã bước vào giai đoạn nâng cấp
các loại VKHN, tinh giảm số lượng, phát triển các thế hệ vũ khí mới.
1
Chiến tranh hạt nhân giữa hai cường quốc hạt nhân sẽ dẫn đến sự hủy diệt cho cả hai. Những vụ nổ hạt nhân

và tia phóng xạ hạt nhân trong vụ nổ đó có thể gây tử vong cho hàng loạt cư dân. Thậm chí, theo lý luận về
Mùa đông hạt nhân do chiến tranh hạt nhân tạo ra, bất kể trái đất lúc đó là mùa xuân, hạ, hay thu đều xuất
hiện khí hậu tượng trưng cho mùa đông. Những đám bụi đất và khói lửa do các vụ nổ hạt nhân quy mô lớn sẽ
tồn tại lâu, dần dần bao phủ trái đất, bịt kín ánh nắng mặt trời nhưng lại không ngăn được sự khuyếch tán vào
không gian vũ trụ của nhiệt năng mặt đất với hình thức tia hồng ngoại. Như vậy, toàn bộ trái đất chìm trong
lạnh giá, tối tăm, nhiệt độ giảm đi vài chục độ, nguồn nước đóng băng, động thực vật sẽ biến mất.
2
Năm 1953, Anh thử thành công vũ khí hạt nhân đầu tiên; năm 1960, Pháp lần đầu tiên thử bom nguyên tử tại tây
nam Rigan thuộc sa mạc Sahara, châu Phi; tuy nhiên mãi đến năm 1964, Pháp mới chính thức chế tạo được vũ khí
hạt nhân hoàn chỉnh, trở thành cường quốc hạt nhân thứ 4 trên thế giới. Đối với Trung Quốc, Liên Xô đã giúp
nước này tiếp cận kỹ thuật chế tạo tên lửa đạn đạo từ giữa thập niên 50 khi quan hệ hai nước vẫn còn tốt đẹp. Đến
năm 1964, Trung Quốc tuyên bố thử nghiệm thành công bom nguyên tử đầu tiên tại bãi thử Lop Nor, thuộc vùng
Tân Cương. Ngoài ra, tới đầu thập niên 80, có nhiều quốc gia đã nắm được kỹ thuật hạt nhân, và có khả năng chế
tạo vũ khí hạt nhân như Israel, Nam Phi, Xiri, Ai cập, Ấn Độ, Pakistan, Brazil, Achentina.
12
Có thể nói, vai trò của VKHN trong quan hệ quốc tế rất to lớn, làm thay đổi
các quan niệm truyền thống như chiến tranh – hòa bình; lần đầu tiên có một loại
vũ khí ra đời không phải để sử dụng trong chiến tranh mà là một công cụ răn đe,
thể hiện sức mạnh quốc gia, uy tín chính trị trên trường quốc tế. Điển hình là
trong giai đoạn Chiến tranh lạnh, VKHN gây ra tình trạng căng thẳng trong quan
hệ giữa hai khối Đông – Tây, song trên bình diện toàn cầu, VKHN đã giúp nhân
loại tránh một cuộc chiến tranh thế giới lần 3, tạo nên nền “hòa bình mong manh,
bên miệng hố chiến tranh”. Tính chất hủy diệt của VKHN và nguy cơ chiến
tranh hạt nhân
3
chính là những nguyên nhân cơ bản để nhân loại nói chung và
hai siêu cường Xô – Mỹ nói riêng tìm cách ngăn chặn sự phát triển của loại vũ
khí này.
1.1.2. Phổ biến và chống phổ biến vũ khí hạt nhân
* Phổ biến vũ khí hạt nhân

“Phổ biến” vũ khí hạt nhân hay phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt đều
dùng để chỉ các hoạt động “tìm kiếm, phát triển và chuyển giao các nguyên vật
liệu, công nghệ kỹ thuật, chuyên môn” liên quan đến VKHN và “các phương
tiện vận chuyển chúng” từ một chủ thể này sang một chủ thể khác [87]. Các chủ
thể được đề cập tới trong khái niệm này là các quốc gia trên thế giới hoặc các
chủ thể phi nhà nước. Trước đây, trong giai đoạn chiến tranh lạnh, vấn đề phổ
biến VKHN chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia sở hữu công nghệ hạt nhân; tuy
nhiên, sau chiến tranh lạnh, các chủ thể phi nhà nước cũng có khả năng sở hữu
VKHN, như các nhóm khủng bố quốc tế, các nhóm tội phạm xuyên quốc gia…;
đặc biệt với sự phát triển của mạng lưới “chợ đen” chuyên buôn bán kỹ thuật,
cung cấp nguyên liệu hạt nhân của nhà khoa học người Pakistan Abdul Qadeer
3
Cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba vào tháng 10/1962 là sự kiện nghiêm trọng nhất thể hiện nguy cơ chiến
tranh hiện hữu giữa hai siêu cường Xô – Mỹ là có thật. Mỹ tuyên bố bước vào tình trạng chuẩn bị chiến tranh
hạt nhân để ép Liên Xô rút tên lửa ra khỏi Cuba. Tổng thống Mỹ Kennedy tuyên bố: bất kỳ một quả tên lửa
nào phóng đi từ Cuba tới các quốc gia ở Tây bán cầu sẽ dẫn đến sự “trả đũa toàn diện” của Mỹ đối với Liên
Xô. Quân đội Mỹ bước vào tình trạng chuẩn bị chiến tranh cấp hai, máy bay ném bom chiến lược và tên lửa
đạn đạo xuyên đại dương sẵn sàng chiến đấu. Khi cả hai bên tiến sát đến bờ vực của chiến tranh hạt nhân,
cũng là lúc hai bên đạt được thỏa hiệp.
13
Khan [34; 5]. Rõ ràng từ sau chiến tranh lạnh, nguy cơ phổ biến hạt nhân có
những diễn biến phức tạp hơn nhiều so với giai đoạn trước và mang những tính
chất mới, vừa nguy hiểm, vừa khó kiểm soát.
Phổ biến hạt nhân được diễn ra với 4 hình thức chủ đạo: 1/ phổ biến các bộ
phận và nguyên liệu hạt nhân; 2/ phổ biến các loại vũ khí; 3/ phổ biến hệ thống
các phương tiện vận chuyển VKHN; 4/ phổ biến công nghệ, bí quyết chế tạo vũ
khí cũng như các chuyên gia có kiến thức và được đào tạo về hạt nhân (hay còn
gọi là “chảy máu chất xám”). Các phương thức tiến hành phổ biến hạt nhân như
đánh cắp từ các kho vũ khí không được bảo vệ cẩn thận; đánh cắp nguyên liệu
hạt nhân từ các phòng nghiên cứu, các lò phản ứng; buôn lậu trái phép; tiếp cận

thông tin, kiến thức về VKHN qua các nhà khoa học về hạt nhân…[59]
* Chống phổ biến vũ khí hạt nhân
Bên cạnh nguy cơ phổ biến VKHN ngày càng tăng là xu hướng “chống phổ
biến” hạt nhân cũng đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, thu hút sự quan tâm lớn
của dư luận thế giới, giới học giả, các nhà hoạch định chính sách… “Chống phổ
biến” vũ khí hạt nhân được hiểu là một loạt các biện pháp tích cực và mạnh mẽ
nhằm ngăn chặn và cấm các quốc gia, các chủ thể phi nhà nước đạt được/ giành
được loại vũ khí này [76]. Đó có thể là các biện pháp quân sự, hoặc phi quân sự
như sử dụng nỗ lực ngoại giao, tìm cách kiểm soát vũ khí, kiểm soát xuất khẩu,
thu thập và phân tích các thông tin tình báo nhằm bảo vệ các nguyên vật liệu,
công nghệ, chuyên môn liên quan đến VKHN; ngăn chặn khả năng tiếp cận,
chuyển giao, phát triển loại vũ khí này của các quốc gia và nhóm chủ thể phi nhà
nước. Hàm nghĩa cơ bản của chống phổ biến VKHN là đóng băng tình thế chiến
lược hạt nhân - tức là ngoài các quốc gia đã sở hữu VKHN, cố gắng phòng ngừa
mọi quốc gia khác chưa có VKHN, nỗ lực đạt đến ngưỡng hạt nhân hoặc phát
triển chương trình VKHN; cũng như ngăn chặn các chủ thể phi nhà nước tiếp
cận loại vũ khí này [1; 619].
14
Đấu tranh chống phổ biến VKHN, cắt giảm vũ khí chiến lược trên phạm vi
toàn cầu đã diễn ra mạnh mẽ ngay từ khi loại vũ khí này ra đời. Những người
đầu tiên ý thức được tính chất nguy hiểm và sức mạnh vô cùng to lớn của VKHN
là các nhà khoa học của Hoa Kỳ. Tháng 6/1945, nhóm các nhà khoa học tham
gia nghiên cứu và chế tạo bom nguyên tử ở các phòng thí nghiệm tại Chicago đã
gửi kiến nghị lên Bộ Quốc phòng Mỹ, đề nghị chính quyền H. Truman thận
trọng hơn trong việc sử dụng bom nguyên tử “chống lại bất cứ nước thù địch
nào”; thay vào đó, chỉ nên tuyên bố với thế giới về thành công của việc chế tạo
loại vũ khí này. Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đạt được một hiệp
định quốc tế, trong đó có sự tham gia của Liên Xô nhằm thiết lập một cơ chế
giám định sử dụng loại vũ khí này, cùng với cơ chế kiếm soát quốc tế hiệu quả
đối với vấn đề ngăn lượng nguyên tử, từ đó là cơ sở để ngăn ngừa chiến tranh hạt

nhân [13; 95].
Sau khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật
Bản, chứng kiến sức mạnh ghê gớm của loại vũ khí này, phong trào chống phổ
biến VKHN ngày càng lan rộng, không chỉ giới hạn trong nước Mỹ. Tháng
10/1957, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ba Lan Adam Rapacki đưa ra sáng kiến thiết
lập khu vực phi hạt nhân ở Trung và Đông Âu, có tên gọi “Kế hoạch Rapacki”,
sau đó kế hoạch này đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn. Tại Tây
Âu từ năm 1981 nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra ở Bon, London, Roma,
Amsterdam phản đối việc Mỹ triển khai tên lửa Pershing và tên lửa hành trình ở
các nước thuộc NATO [14; 35]…
Áp lực từ phong trào chống phổ biến VKHN trên thế giới, ý thức về sức
hủy diệt của loại vũ khí này đã khiến các cường quốc phải nghĩ đến những thiết
chế, các biện pháp nhằm cắt giảm, ngăn chặn quá trình phổ biến VKHN. Đáng
chú ý là sự ra đời của Hiệp ước Không phổ biến NPT năm 1967; Hiệp định Cấm
thí nghiệm hạt nhân toàn diện CTBT năm 1996; Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến
lược SALT I và II; Hiệp ước Cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược START I, II…
15
Tóm lại, phổ biến và chống phổ biến vũ khí hạt nhân là hai quá trình trái
ngược nhau, nảy sinh ngay sau vụ nổ ở Hiroshima và Nagasaki. Chống phổ
biếnVKHN xuất phát từ ý chí của các quốc gia sở hữu hạt nhân nói riêng và cả
nhân loại nói chung khi muốn kiểm soát và hướng tới loại bỏ hoàn toàn loại vũ
khí hủy diệt ghê gớm này. Ngược lại, phổ biến hạt nhân lại xuất phát từ mong
muốn của một số quốc gia sở hữu loại vũ khí này, trước hết là nhằm đánh trả sự
răn đe của các cường quốc hạt nhân. Ngoài ra cũng phải kể đến những chủ thể
phi chính phủ cũng muốn giành được công nghệ, kỹ thuật chế tạo VKHN.
1.2. Tổng quan về các Hiệp ước START
Trong tiến trình chống phổ biến VKHN, hai quốc gia Mỹ và Nga (Liên Xô)
được coi là hai chủ thể chính, chủ đạo do hai nước này sở hữu đến 95% tổng số
VKHN trên toàn thế giới [67; 2]. Ngay từ trong chiến tranh lạnh, hai siêu cường
đã nỗ lực thiết lập các cơ chế pháp lý nhằm tăng lòng tin, giảm bớt và tiến tới

loại trừ khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân; bên cạnh đó nhằm giảm chi phí
quân sự - cụ thể là chi phí dành cho kho VKHN trong cuộc chạy đua giữa hai
siêu cường; hạn chế quá trình nghiên cứu, chế tạo VKHN của các quốc gia mới,
không nằm trong “câu lạc bộ hạt nhân”.
Hiệp ước cắt giảm VKHN chiến lược, viết tắt “START” là một trong
những hiệp ước song phương được ký kết giữa Mỹ và Nga (Liên Xô cũ); bắt đầu
đàm phán từ những năm 80 của thế kỷ XX. Việc cắt giảm kho VKHN của hai
siêu cường nằm trong nỗ lực chống phổ biến VKHN của toàn cầu nói chung và
nhằm thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ Cơ chế đa phương
Chống phổ biến – NPT của mình nói riêng. Quá trình cắt giảm VKHN của hai
nước diễn ra theo từng giai đoạn, và mỗi một giai đoạn cắt giảm tương ứng với
một Hiệp ước START.
16
1.2.1. Hiệp ước START I
1.2.1.1 Bối cảnh đàm phán START I
Những vòng đàm phán cho một Hiệp ước cắt giảm VKHN – START I giữa
Mỹ và Liên Xô bắt đầu từ tháng 6 năm 1982, song bị ngưng trệ trong khoảng
thời gian 1983 – 1985 do sự phản đối của Liên Xô đối với việc Mỹ triển khai tên
lửa tầm trung tại Châu Âu [102]. Các vòng đàm phán START I do Liên Xô chủ
động tìm cách nối lại, do chính quyền Gorbachev nhận định: lúc này cần chuyển
từ đối đầu sang hợp tác với phương Tây, mà trước hết là với Hoa Kỳ; đồng thời
Liên Xô không muốn tiếp tục chạy đua vũ trang, và cần sớm chấm dứt chạy đua
vũ trang để tập trung giải quyết các vấn đề nội tại trong nước. Vì vậy, vào ngày
15/1/1986, Liên Xô đã đưa ra “Chương trình giải trừ vũ khí hạt nhân đến năm
2000”. Về phía Mỹ, một hiệp định nhằm cắt giảm kho VKHN của Liên Xô rất có
ý nghĩa đối với an ninh của Mỹ, khi vào thời điểm này, Liên Xô đang đối mặt
với khủng hoảng, xuất hiện nguy cơ rò rỉ vũ khí, công nghệ hạt nhân. Nếu những
vũ khí, kỹ thuật, công nghệ hạt nhân tiên tiến của nước này rơi vào tay những
nước đối địch với Hoa Kỳ thì sẽ là một điều rất bất lợi đối với nền an ninh Hoa
Kỳ. Chính thực tế này đã khiến hai nước Mỹ và Liên Xô nối lại và xúc tiến các

cuộc đàm phán về START I.
1.2.1.2. Nội dung START I và quá trình thực hiện
Cùng với việc đạt được thỏa thuận về Hiệp ước Hủy bỏ VKHN tầm trung
và tầm ngắn (INF) năm 1987, Hoa Kỳ và Liên Xô đã đi đến ký kết Hiệp ước
START I vào ngày 31/7/1991 tại Mát-xcơ-va. Hiệp ước bao gồm 19 điều khoản,
kèm theo một Bản ghi nhớ, các Nghị định thư và phụ lục. Hiệp ước nêu rõ mục
đích của văn kiện này là đưa ra “các biện pháp cắt giảm VKHN tiến công chiến
lược để giảm bớt nguy cơ chiến tranh hạt nhân, củng cố hòa bình và an ninh của
thế giới” [14; 165]. Các bên cam kết cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược xuống
mức cân bằng nhau trong thời gian là 7 năm.
17
Bảng 2: Trọng tâm cắt giảm VKHN theo Hiệp ước START I
STT Nội dung cắt giảm Số lượng theo quy định
1 Phương tiện vận chuyển VKHN chiến lược
được triển khai
1600
2 ICBM hạng nặng 154
3 Số đầu đạn trên các phương tiện vận chuyển
được triển khai
6000
3 Số đầu đạn của tên lửa đạn đạo 4900
4 Số đầu đạn trên ICBM hạng nặng 1540
5 Số đầu đạn trên ICBM di động 1100
Tổng số tải trọng tên lửa đạn đạo: 3600 tấn mét
Nguồn: [95]
Hiệp ước này hạn chế lực lượng hạt nhân tầm xa của Mỹ và Liên Xô – bao
gồm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM), tên lửa đạn đạo đặt tại tàu ngầm
(SLBM) và máy bay ném bom hạng nặng. Bảng 2 đã cho thấy, mỗi bên Hiệp
ước có thể triển khai tối đa 6000 đầu đạn hạt nhân; duy trì 1600 tên lửa đạn đạo
và bom; với không quá 4900 đầu đạn trên ICBM và SLBM. Trong suốt quá trình

đàm phán, Mỹ đặt ưu tiên cao trong việc cắt giảm ICBM hạng nặng – được định
nghĩa là những ICBM có tải trọng hơn 4350kg. Do đó, START đã hạn chế tối đa
1540 đầu đạn hạt nhân trên 154 ICBM hạng nặng, cắt giảm hơn 50% số lượng
đầu đạn SS-18 ICBM (loại ICBM hạng nặng) đã được triển khai tại các nước
Liên Xô cũ. Thêm vào đó, mỗi bên chấp nhận có không quá 1100 đầu đạn trên
ICBM di động [40]. Mỹ từ lâu đã muốn sử dụng quá trình cắt giảm kiểm soát vũ
khí để hạn chế hoặc loại bỏ sự độc quyền của Liên Xô về ICBM hạng nặng bởi
họ tin rằng Liên Xô có thể tăng cường khả năng triển khai loại vũ khí này. Mặt
khác, Mỹ không sở hữu bất kỳ loại tên lửa đạn đạo nào có kích cỡ như vậy, và
không có kế hoạch phát triển hay triển khai chúng, nên rõ ràng điều khoản này
chỉ dành riêng cho Liên Xô [103; 3].
Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên bang Xô viết vào tháng 12/1991 ngay lập tức
đã đặt ra một câu hỏi về tương lai của START I. Vào thời điểm này, khoảng 70%
18
VKHN chiến lược nằm trong phạm vi của hiệp ước là được triển khai tại các căn
cứ ở Nga, 30% nằm tại bốn nước: Ukraine, Kazakhstan, và Belarus. Trong khi
đó, Nga là nước kế thừa duy nhất của Liên bang Xô viết thực hiện các hiệp ước
quốc tế; ba nước cộng hòa tách ra từ Liên Xô lại không muốn ủy quyền thực
hiện Hiệp ước START I cho riêng Nga. Vì vậy, vào tháng 5 năm 1992, 4 nước
cộng hòa và Mỹ đã đi đến ký kết một Nghị định thư, trong đó bổ sung các bên
tham gia thực hiện hiệp ước bao gồm: Nga, Ukraine, Kazakhstan, Belarus và
Mỹ. Đồng thời, ba nước tách ra từ Liên Xô cũ cũng đồng ý loại bỏ tất cả VKHN
trên lãnh thổ của họ trong khoảng thời gian 7 năm theo Hiệp ước. Họ cũng đã ký
Hiệp ước NPT và nhất trí trở thành các quốc gia không có VKHN “trong thời
gian ngắn nhất” [24].
Điều đáng lưu ý là trước khi ký Nghị định thư, Tổng thống ba nước đã gửi
thư cho Tổng thống Mỹ Bush (cha) tuyên bố cam kết hủy bỏ các loại VKHN và
tôn trọng Hiệp ước START I, tuy nhiên ba nước đều cần đến sự hỗ trợ của Hoa
Kỳ để thực hiện Hiệp ước này. Mỹ đã cam kết viện trợ 400 triệu USD mỗi năm
cho việc phá hủy VKHN của các nước, đồng thời đồng ý mua lại uranium làm

giàu lấy từ các đầu đạn hạt nhân bị hủy với tổng giá trị khoảng 12 tỷ USD trong
vòng 12 năm [14; 172]. Rõ ràng điều này đã thể hiện quyết tâm của chính quyền
Mỹ trong việc hạn chế những tác động tiêu cực của vấn đề rò rỉ hạt nhân từ
không gian hậu Xô viết.
Sau khi cả 3 nước Kazakhstan, Belarus và Ukraine hoàn thành các thủ tục
cần thiết để thông qua NPT và START, ngày 5/12/1994, Hiệp ước START I bắt
đầu có hiệu lực. Chính quyền Bush (cha) đã từng bước thực hiện những cam kết
trong bản Hiệp ước. Từ tháng 9/1991, Mỹ đã tiến hành rút VKHN được bố trí ở
một số nước đồng minh. Ngày 27/9 cùng năm, Mỹ tuyên bố rút VKHN được bố
trí trên mặt đất khỏi Hàn Quốc và đơn phương cắt giảm đại bộ phận số VKHN
tầm ngắn của Hoa Kỳ, chủ yếu là đầu đạn và tên lửa đặt tại Châu Âu. Ngoài việc
thực hiện theo lộ trình của START, Hoa Kỳ cùng với Liên Xô tiến hành hủy bỏ
19
tất cả các loại đạn pháo hạt nhân, các đầu đạn hạt nhân dùng cho tên lửa chiến
thuật và các loại mìn hạt nhân [14; 171]. Có thể thấy, việc thực hiện hiệp ước
START I đã mở đường cho hai cường quốc hạt nhân tiến hành cắt giảm các loại
VKHN khác.
1.2.1.3. Đánh giá kết quả Hiệp ước START I
* Kết quả đạt được
Nga và Mỹ đã hoàn thành quá trình cắt giảm lực lượng vũ khí tấn công
chiến lược của họ vào ngày hạn 5/12/2001.
Bảng 3: Kết quả thực hiện Hiệp ước START I
STT Nội dung cắt giảm Số lượng VKHN trước
START I (T9/1990)
Số lượng VKHN
sau START I
(T7/2009)
Hoa Kỳ
1 Số lượng đầu đạn 10.563 5916
2 Phương tiện vận chuyển 2246 1188

Các nước Liên Xô cũ
3 Số lượng đầu đạn 10.271 3897
4 Phương tiện vận chuyển 2500 809
5 Số đầu đạn trên ICBM
hạng nặng
3080 1540
6 Số đầu đạn trên ICBM di
động
618 0
* Chú ý: Mỹ không triển khai Đầu đạn hạt nhân trên ICBM hạng nặng và di động
Nguồn: [96]
Ngoài ra, tất cả đầu đạn hạt nhân từ 104 SS-18 ICBM ở Kazakhstan đã
được tháo dỡ và đưa về Nga, tất cả bệ phóng tại quốc gia này đã bị phá hủy.
Ukraine cũng đã phá hủy toàn bộ bệ phóng SS-19 ICBM và SS-24 ICBM
trên lãnh thổ và hoàn trả đầu đạn hạt nhân về cho Nga. Belarus cũng hoàn
thành cam kết trả lại Nga các tên lửa 88 SS-25 và đầu đạn hạt nhân vào cuối
tháng 11/1996 [102].
Hiệp ước START I hết hiệu lực vào tháng 12/2009.
20

×